Một trăm năm về trước, khi nhà văn Nga Lev Nikolaevich Tolstoi (1828-1910) qua đời trong niềm thương tiếc của nhiều triệu con người trên khắp mọi châu lục, công luận thế giới, đánh giá sự nghiệp của ông, chúng khẩu đồng từ đặt tên tuổi ông lên cạnh không chỉ Homère, Shakespeare, Goethe mà còn Phật Đà, Kitô, Lüther. Một trong những nghệ sĩ ngôn từ lớn nhất của loài người và đồng thời một nhà cải cách tôn giáo đã sáng lập một học thuyết tôn giáo mới cũng dành cho toàn thể loài người, không phân biệt dân tộc, quốc gia, đẳng cấp xã hội như đạo Phật và đạo Kitô. Những định danh như thế, tưởng chừng xốc nổi và hời hợt, chỉ dựa trên trực giác và liên tưởng và còn xa mới bao quát được hết các mặt phức tạp và các đặc điểm hệ trọng trong cái hiện tượng vô tiền khoáng hậu mang tên Lev Tolstoi, xem ra lại thâu tóm được bản chất, tầm vóc và ý nghĩa của hiện tượng ấy tốt hơn rất nhiều khảo luận, chuyên luận, luận văn về Tolstoi mà ngày nay đã không thể nào thống kê được. Chúng cũng tiên lượng được khá chính xác cái số phận bất an, ba chìm bảy nổi và chưa biết hồi kết mà di sản của Tolstoi, với học thuyết tôn giáo – đạo đức của ông, phải chịu đựng trong thế giới ngày nay.
Như mọi người đều biết, Tolstoi xuất hiện trên trường quốc tế như là nhà chính luận và nhà truyền giáo sau khi Tolstoi – nghệ sĩ đã giành được nơi đây vinh quang chói lọi. Rõ ràng, đây là một hậu thuẫn, một tiền đề thuận lợi để thế giới lắng nghe tiếng nói của ông. Nhưng nếu mà nhà tư tưởng Tolstoi không có thực lực thì tiếng nói ấy đã mau chóng chìm lẫn trong đại dương đa thanh đến hỗn độn của những tư trào, những học thuyết, những đảng phái tranh giành quyết liệt ảnh hưởng đến trái tim, khối óc con người trong bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Nhưng không như Gogol ở Nga và vượt xa Hugo và Zola ở Pháp, tiếng nói của Tolstoi – nhà hoạt động xã hội đã mau chóng thu lượm được sức mạnh thu phục nhân tâm ở trong và ngoài nước Nga, khiến những tử thù của ông, nắm trong tay quyền lực nhà nước và quyền lực tôn giáo, trong vòng ba thập niên lúc nào cũng ngay ngáy lo sợ. Được lưu truyền rộng rãi nhận xét của chủ nhiệm một tuần báo chính trị – xã hội có uy tín ở Nga thời ấy (A. Suvorin): “Ở nước chúng ta có hai Sa hoàng: Nikolai đệ Nhị và Tolstoi. Tolstoi đang làm lung lay ngai vàng của Nikolai, mà Nikolai thì lại không làm gì được với Tolstoi”. Nhưng đây, một phát biểu nhìn nhận vai trò, ý nghĩa của Tolstoi từ một góc độ hoàn toàn khác. Năm 1908, trong dịp thế giới kỷ niệm 80 năm sinh Tolstoi, Alexandre Blok, một nhà thơ trẻ, sáng tác theo khuynh hướng mới, tuyệt không thể hi vọng được Tolstoi khen ngợi, đã đăng trên báo bài viết ngắn mang tên “Mặt trời bên trên nước Nga”, với những dòng kết như sau: “Chừng nào Tolstoi còn sống, còn đi theo luống cày sau cái cày, sau con ngựa trắng của mình – thì còn buổi sáng đầy sương, còn mát rượi, còn không gì đáng sợ, ma quỷ còn say giấc – và đội ơn Chúa! Tolstoi đang đều bước – đó là mặt trời đang lên cao. Nhưng nếu mặt trời lặn, nếu Tolstoi chết – thì cái gì sẽ đến?”.
Một thụ cảm, một nhận thức như vậy về Tolstoi – như là người thầy chung của nhân loại, như là hiện thân của lương tâm không ngơi nghỉ và không thể mua chuộc của loài người – là phổ biến thời ấy, nó đã biến Yasnaya Polyana, điền trang của nhà văn, thành điểm hành hương của hàng trăm khách thập phương và điểm đến của hàng vạn bức thư từ nhiều miền đất gần xa, mà trong đó những người viết cho Tolstoi, đồng tộc lẫn ngoại tộc, hỏi ý kiến của ông, đề nghị ông phát biểu về nhiều vấn đề của đời sống rất nhiều khi không liên quan gì đến văn chương, nghệ thuật. Trong những bức thư như thế, mà Tolstoi đã trả lời, được chọn và đưa vào sách này không chỉ thư của các văn sĩ châu Âu đã hoặc sẽ đoạt giải Nobel – Henryk Sienkiewicz, Bernard Shaw, Romain Rolland, mà còn của một luật sư Ấn Độ chưa được mấy người biết đến, đang sống ở Nam Phi và lãnh đạo cuộc đấu tranh phi bạo lực dành các quyền công dân của một cộng đồng thiểu số người Ấn ở vùng này – người mai sau sẽ trở thành lãnh tụ tinh thần của dân tộc Ấn Độ và được cả thế giới gọi là Mahatma (Thánh) Gandhi – từ trẻ thấm nhuần những tư tưởng tôn giáo – đạo đức của Tolstoi, Gandhi mong mỏi được nghe thấy từ Tolstoi lời cổ vũ cho phương pháp đấu tranh mà ông đã chọn lựa, và ông đã nghe thấy. Cũng thuộc số người đã trao đổi thư từ với Tolstoi có hai nữ sinh Mỹ da màu Lizzie Walker và Martha Tyler ở một thị trấn hẻo lánh của bang Indiana – họ yêu cầu Tolstoi cất tiếng lên án những tội ác của người da trắng hà hiếp người da đen trên quê hương họ, và Tolstoi đã cất tiếng phỉ nhổ những tội ác ấy, đồng thời khuyến dụ những người bị áp bức nên hành xử thế nào với những kẻ áp bức họ…
Nhưng rồi tiếng nói cương trực, vang dội toàn cầu của Tolstoi im bặt vĩnh viễn, song thế sự mà tiếng nói ấy thực ra chưa tác động được đến, vẫn tiếp diễn dường như theo kịch bản đã được duyệt trước. Năm năm sau khi ông qua đời, giữa khói lửa của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, mà ngay Tolstoi, với nhạy cảm đặc biệt của ông với những biểu hiện của chủ nghĩa quân phiệt, của chạy đua võ trang và chuẩn bị chiến tranh, cũng không tiên đoán được, nhà văn Nga D. Merezhkovski, bình luận bộ nhật ký của Tolstoi vừa được in, chua chát viết: “Người mới đây còn là thủ lĩnh tư tưởng của chúng ta, Lev Tolstoi, tuồng như bỗng dưng đánh mất hết quyền lực của mình – tuồng như bỗng dưng toàn bộ trở nên không đúng lúc, không cần thiết, không hiện đại, không hợp thời; chúng ta không biết phải làm gì với ông, cũng như, thực tình mà nói, với tất cả các hiền giả, các bậc thầy, các nhà tiên tri. Hình như chưa bao giờ lại lộ rõ như hiện nay sự bất lực của tinh thần con người trước sức mạnh vô hồn của vật chất: cho dù những con người của tinh thần có nói gì, có nghĩ gì, có cảm thấy và có làm gì – bên ngoài họ sẽ không có gì đổi thay”.
Sau thế chiến thứ nhất là thế chiến thứ hai, còn tàn khốc và dã man hơn, với những thảm cảnh và tội ác khủng khiếp hơn rất nhiều so với những gì mà ngòi bút Tolstoi đã khắc họa, và giữa hai cuộc đại chiến ấy trên tổ quốc của Tolstoi đã diễn ra toàn những thứ mà sinh thời Tolstoi đã không mong muốn tí nào, đã không biết mệt mỏi cảnh báo, ngăn ngừa đồng bào mình – cách mạng, nội chiến, rồi một chính thể chuyên chế mới, còn bóp nghẹt tự do của con người hơn chế độ cũ. Dưới chính thể mới ấy người ta đã đối xử với Tolstoi cũng không như ông mong muốn: đề cao đến mức tuyệt đối hóa sáng tác văn học của ông, biến nó gần như thành một thứ khuôn vàng thước ngọc cho mọi người cầm bút trong hiện tại và tương lai nhưng lại hạ thấp cũng hết mức Tolstoi – nhà tư tưởng, xem cái phần ấy trong di sản của ông là vĩnh viễn thuộc về quá khứ và không cần thiết tí nào cho công cuộc xây dựng xã hội mới, con người mới.
Những trước tác quan trọng nhất của Tolstoi – nhà tư tưởng trên thực tế trở thành bất cập đối với công chúng độc giả, đồng thời những người noi theo học thuyết của Tolstoi trong xã hội bị ráo riết truy bức. Trong vòng bảy thập niên, nhà tư tưởng Tolstoi được biết đến, được nghiên cứu và quảng bá ở nước ông ít hơn ở bất cứ nước nào của phương Tây, nơi do nhiều lý do cũng thống ngự nhiều định kiến về Tolstoi và trong ý thức xã hội cũng định hình một quan niệm rập khuôn về ông như là một nhà văn kỳ tài và một triết gia yếu kém, nhưng đồng thời trong những giới học thuật vẫn tiếp tục sự nghiên cứu và kiến giải Tolstoi trong chỉnh thể sáng tác và nhân cách của ông. Song dĩ nhiên đã không thể nói về ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Tolstoi ở các nước Âu – Mỹ thế kỷ XX nơi những thần tượng mới: Nietzsche, Freud, Heidegger, Sartre, Derrida… lần lượt chiếm lĩnh tâm trí của công chúng có học, đẩy vào chỗ râm tối thậm chí ra ngoài lề của không gian văn hóa – tư tưởng, nhiều thiên tài của các thế kỷ trước. Đều bước với các nhà tư tưởng hiện đại và hậu hiện đại, không ít các văn nghệ sĩ tiên phong chủ nghĩa ở phương Tây – trái ngược với sự “phong thánh” Tolstoi – nghệ sĩ ở nước Nga Xô viết và các nước đồng minh – từ những năm 60 ra sức chối từ di sản văn chương của Tolstoi, coi nó thuộc về một giai đoạn đã vĩnh viễn bị vượt qua của nghệ thuật ngôn từ…
Trong những thập kỷ đầy khó khăn ấy, uy tín và ảnh hưởng của Tolstoi vừa như một nghệ sĩ vừa như một tư tưởng gia, may thay, được duy trì mà không phải chịu đựng những thăng trầm khiên cưỡng ở phương Đông – khu vực thế giới mà Tolstoi sinh thời quan tâm đến thế và gửi gắm nhiều hy vọng đến thế – ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Sri Lanca và đặc biệt Ấn Độ. Nước Ấn Độ độc lập, ngưỡng kính và tự hào về thánh Gandhi của mình, một cách tự nhiên, ngưỡng kính cả Tolstoi mà Gandhi luôn luôn coi là người thầy tinh thần của ông, nâng niu trân trọng di sản tư tưởng của Tolstoi, tiếp thụ sáng tạo và phát huy tác dụng của nó. Có thể tìm thấy không ít tư tưởng đồng vọng với Tolstoi trong những trước tác của nhà triết học Ấn Độ lỗi lạc (từng làm nguyên thủ của nước này) Radhakrishnan cũng như ở Nhật Bản của nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng Ikeda. Đúng như Romain Rolland đã viết từ những năm 20 thế kỷ trước, chính Tolstoi – nhà tư tưởng đã trở thành một trong những cầu nối đầu tiên chuẩn bị cho cuộc hội nhập tinh thần Đông – Tây mà những bộ óc ưu thời mẫn thế của thế giới này từ lâu mơ ước. Một sự kiện giàu ý nghĩa và hậu quả trong lịch sử đương đại của thế giới phương Tây mang rõ nét ảnh hưởng của tư tưởng phương Đông lại liên quan không tách rời với học thuyết tôn giáo – đạo đức của Tolstoi – đó là phong trào đấu tranh phi bạo lực nhằm xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc của những người da đen ở Mỹ vào những năm 60 thế kỷ trước dưới sự lãnh đạo của Martin Luther King – người đã có ý thức học tập tư tưởng và phương pháp hành động của Gandhi và vô giác hay tự giác đã thực hiện những lời khuyên xưa kia của Tolstoi, bày tỏ trong thư gửi hai nữ sinh da màu ở bang Indiana. Và những công dân Hoa Kỳ có học thời nay, khi bỏ phiếu bầu một người da màu làm nguyên thủ quốc gia của mình, chắc hẳn tưởng nhớ tới cả Tolstoi trong số những tác nhân của những biến đổi đáng mừng trong đời sống của nước họ. Và không biết là một trùng hợp ngẫu nhiên hay báo hiệu, nhưng cũng ở nước Mỹ ngày nay, nhà văn Tolstoi dẫn đầu các tác giả cổ điển về số lượng sách in. Nhưng phải chăng Tolstoi sẽ thỏa mãn với sự có mặt như thế của mình trong đời sống của nước Mỹ? Thế còn chiến tranh ở Afganistan, ở Irak và chính sách siêu cường quốc mà đa số nhân dân Mỹ ủng hộ, nhưng Tolstoi thì chắc chắn sẽ lên án?
Nếu nói về nước Nga, hiện đang kinh qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn trong lịch sử của mình, thì rõ ràng thấy được “sự trở về” của Tolstoi – nhà tư tưởng, bắt đầu từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Sự trở về ấy (đáng tiếc nó đi kèm với sự nguội lạnh nhất định và chắc là nhất thời của công chúng đối với Tolstoi – nghệ sĩ) sẽ mang lại những gì cho dân tộc Nga, văn hóa Nga – chỉ tương lai mới trả lời được câu hỏi ấy. Nhưng có cái tương lai dài lâu ấy không cho nước Nga và cả thế giới – câu hỏi ấy to, lớn hơn rất nhiều và hệ trọng hơn đến mức không thể so sánh, đang còn để ngỏ, gây lo âu khắc khoải cho hàng tỉ người trên hành tinh này. Trong khi một triết gia Nga đương đại khẳng định: loài người còn phải lớn lên hơn nữa thì mới thực sự hiểu được Tolstoi, một triết gia khác in hẳn một cuốn sách dày cộp mang tên “Tồn tại hay không tồn tại… nhân loại?”. Hóa ra, vận mệnh của Tolstoi gắn không tách rời với vận mệnh của nền văn minh loài người, mà rất nhiều tai họa, nhiều vấn nạn toàn cầu của nó đã được ông tiên lượng hơn một thế kỷ trước, và cũng Tolstoi ấy đã kiên trì đề xướng một con đường phát triển (“đường sống”, như ông nói) đã bị lịch sử nhân loại gạt bỏ. Vậy chân lý thuộc về ai? Rõ ràng không thuộc về, hay chỉ một phần thuộc về nhân loại. Thế thì có phần chân lý nào không thuộc về Lev Tolstoi? Đặt câu hỏi này, chúng ta tâm niệm lời của Tolstoi khẩn khoản đề nghị mọi độc giả “không vội vã và bực bội mà hãy hiểu và bàn thảo những gì tôi phát biểu, và trong trường hợp không đồng tình thì không với sự khinh bỉ và căm ghét, mà với thái độ tiếc thương và ân cần uốn nắn cho tôi; còn trong trường hợp đồng tình thì nhớ rằng nếu tôi nói ra chân lý, thì chân lý ấy không phải của tôi, mà của Thượng Đế; và rằng chỉ ngẫu nhiên một phần chân lý ấy đã đi qua tôi, hệt như nó đi qua từng người trong chúng ta, khi chúng ta nhận thức và truyền đạt nó”.
*****
Nếu tìm người khai mào cho khuynh hướng, thậm chí truyền thống nghiệt ngã ái mộ Tolstoi – nghệ sĩ và không chấp nhận Tolstoi – nhà tư tưởng, thì người ấy chắc là Ivan Sergeevich Turgenev (1818-1883). Nhà văn hào này, nhiều hơn Tolstoi mười tuổi và đã nâng đỡ cổ vũ những bước đi đầu tiên của ông trong văn học, suốt ba thập niên quan hệ một mực khuyến dụ Tolstoi cống hiến toàn bộ cuộc đời, tất cả mọi sức lực phong phú được trời phú bẩm cho sự nghiệp văn chương và không làm gì khác ngoài sáng tác văn học. Ngoài sự không chia sẻ nhiều tư tưởng tâm huyết của Tolstoi, chắc Turgenev còn đinh ninh rằng tài văn như ở Tolstoi thì có một không hai, chứ còn những tư tưởng mà Tolstoi trực tiếp phát biểu, nhiều người khác cũng có thể nói ra, mà còn thuyết phục hơn, hay hơn, “có nghề” hơn. Cho nên ông cứ khuyên hoài Tolstoi hãy là văn sĩ chuyên nghiệp và một tháng trước khi qua đời còn khẩn thiết kêu gọi người bạn của mình, “nhà văn vĩ đại của đất Nga”, trở về với hoạt động văn học, chớ sa lầy trong hoạt động chính luận và truyền giáo.
Vào cuối năm 1857, hồi hai người còn chơi thân với nhau, không hài lòng nhận thấy ở người bạn trẻ của mình một sự thiếu tập trung trong các mối quan tâm, một sự thiếu ý thức về thiên chức đích thực của mình, Turgenev viết cho Tolstoi: “… dù có nát óc đến đâu, tôi vẫn không thể nghĩ ra được, anh là cái gì nếu không phải là người viết văn: một sĩ quan? một điền chủ? một triết gia? nhà sáng lập một học thuyết tôn giáo mới? một viên chức? một doanh nhân? Xin anh dẫn dắt tôi ra khỏi sự khó khăn này và nói cho biết, giả định nào là đúng”. Turgenev hỏi nửa đùa nửa thật mà không biết rằng ông đã nói trúng “tim đen” của Tolstoi. Trong nhật ký của Tolstoi, vào những ngày đầu tháng Ba 1855, ta đọc: “Hôm qua, câu chuyện về thần thánh và đức tin đã khơi lên trong tôi một ý tưởng vĩ đại, to lớn vô cùng mà tôi cảm thấy mình có thể cống hiến cả đời cho sự thực hiện nó. Ý tưởng ấy là – sáng lập một tôn giáo mới, phù hợp với sự phát triển của nhân loại, tôn giáo của Kitô, nhưng được tẩy rửa khỏi mọi thứ mê tín và bí ẩn, một tôn giáo thực tiễn, không hứa hẹn một hạnh phúc mai sau, mà cho hạnh phúc trên cõi trần…”.
Trong nhật ký của mình, được viết suốt đời, Tolstoi sẽ không bao giờ dùng những từ ngữ to tát và long trọng như thế khi ông nói về những ý đồ sáng tác hay những thành phẩm văn chương của mình, cho dù đó có là Chiến tranh và hòa bình, hay Anna Karenina, hay Phục sinh. Và đối chiếu những dòng chữ thời hoa niên này với những gì mà nhà thuyết giáo và thầy đời Tolstoi sẽ viết và nói sau này, không thể không nhận ra rằng, thứ nhất, hạt nhân của toàn bộ học thuyết đạo đức – tôn giáo của Tolstoi đã được gói gọn ở đây, và thứ hai, như một con người, Tolstoi đã trung thành với mình, với những khát vọng thời trai trẻ của mình – điều mà ông không ngớt căn dặn các thế hệ trẻ bước vào đời muộn hơn ông. Tolstoi đã trung thành với mình, đã cố gắng đến cùng thực hiện những gì mà ông ấp ủ từ thời niên thiếu, và chỉ có một, chứ không hai Tolstoi cần được tri ngộ như là một thực thể và chính thể, cho dù việc này có khó khăn đến đâu. Nếu quả là nhân loại còn phải trưởng thành để tiếp nhận thế giới tư tưởng của Tolstoi thì cũng rất có thể là thế giới nghệ thuật của Tolstoi cũng đang chờ đợi một sự phát hiện lại, nhận chân lại, như thế. Giữa di sản văn học và di sản tư tưởng của Tolstoi có quan hệ hữu cơ, không thể phá vỡ và không thể coi nhẹ, chứ chưa nói làm lơ, và sẽ là kém bổ ích chọn nghiên cứu chỉ Tolstoi – nghệ sĩ, hoặc chỉ Tolstoi – nhà tư tưởng. Sự thông hiểu tư tưởng của Tolstoi giúp sức cho sự thấu thị thế giới nghệ thuật của ông, và ngược lại, trực giác nghệ sĩ của ông giúp ta giải thích nhiều tư tưởng anh minh của ông mà chỉ bây giờ, một thế kỷ sau khi ông qua đời, mới được công nhận. Xin đơn cử hai thí dụ, thí dụ thứ nhất lấy từ tiểu thuyết – sử thi Chiến tranh và hòa bình (tập 3, phần 2, chương XXIV – XXV).
Pier Bezukhov và Andrei Bolkonski, hai nhân vật chính của tiểu thuyết, gặp nhau trên cánh đồng Borodino trong đêm trước ngày diễn ra trận đánh lịch sử giữa quân đội Nga và đoàn quân của Napoléon tấn công nước Nga. Pier chứng kiến tinh thần chiến đấu và quyết tâm chiến thắng toát ra từ mọi lời nói và cử chỉ của các binh sĩ Nga, đặc biệt từ người bạn tâm giao của mình – công tước Andrei. Tác giả viết về não trạng của Pier: “Câu hỏi cứ làm cho chàng bận tâm hoài từ cái lúc xuống dốc Mozhaisk, bây giờ thì chàng thấy được giải đáp thật minh bạch, dứt khoát. Bây giờ thì chàng đã hiểu được hết ý nghĩa của cuộc chiến tranh này và của trận đánh sắp diễn ra. Tất cả những gì chàng thấy hôm đó, những khuôn mặt nghiêm nghị và trầm ngâm đã thoáng qua trước mắt chàng, bây giờ như được một ánh sáng mới rọi vào. Chàng đã hiểu được cái nhiệt khí âm ỷ, như các nhà vật lý học nói, của tinh thần ái quốc đang sống trong tất cả những người ấy, nó đã giải thích cho chàng vì sao họ lại sẵn sàng đón cái chết một cách bình thản gần như nhẹ dạ như vậy”. Andrei Bolkonski giải thích cho Pier: đây là cuộc chiến tranh giữ nước giữ nhà, vì thế nó nhất định thắng lợi: “Mười vạn quân Nga sáp chiến với mười vạn quân Pháp, đạo quân nào chiến đấu hăng hái hơn, không ngại hi sinh hơn thì đạo quân ấy sẽ thắng. Muốn xảy ra gì thì gì, ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng. Phải, muốn gì thì gì, ngày mai chúng ta cũng sẽ thắng”. Tất cả đều hòa điệu, đều ăn khớp, hào khí của sử thi là rõ ràng. Nhưng hai trang sau, về cuối cuộc đối thoại, cũng nhân vật ấy lại nói khác hẳn: “… ngày mai, người ta sẽ mặt giáp mặt để chém giết nhau, sẽ tàn sát và làm tàn phế hàng vạn người, rồi sau đó sẽ làm lễ tạ ơn Chúa, nhờ Chúa phù hộ mà họ đã giết được thật nhiều người (mà con số đó họ sẽ còn thổi phồng lên), và sẽ tuyên bố chiến thắng, cho rằng càng giết được nhiều người thì công trạng càng to. Không biết Chúa ở trên ấy nhìn và nghe thấy thế nào!…”.
Tại sao lại có sự tiền hậu bất nhất như thế, và quan trọng hơn sự tuồng như tự phủ định ấy, sự cào bằng, đổ đồng người bị xâm lược với kẻ xâm lược, sự hạ thấp cái vinh quang của người chiến thắng trong cuộc chiến đấu rõ ràng chính nghĩa? Lẽ nào tác giả tiểu thuyết không ý thức được rằng, đặt những lời như thế vào miệng Andrei Bolkonski, ông làm điều trái ngược với những gì mà người đọc đang chờ tìm thấy ở tiểu thuyết của ông? Còn đâu âm hưởng của sử thi anh hùng, sử thi đánh giặc cứu nước? Còn đâu cấu trúc thuần toàn, nhất khối của nhân vật sử thi, hấp dẫn đến thế đối với độc giả đại chúng? Tất cả trở nên rối rắm, khó hiểu, khó đồng cảm. Nhưng tất cả đều nằm trong ý đồ của tác giả. Trong ý đồ ấy không có sự tiền hậu bất nhất, mà có sự kết hợp từ đầu đến cuối hai điểm nhìn, hay nói đúng hơn hai nhãn thức, một nhãn thức hạn hẹp hơn, tạm gọi là nhãn thức “địa giới”, tiếp giáp phức tạp với một nhãn thức khác, cao rộng hơn, tạm gọi là nhãn thức “thiên giới”, nó không phủ định, nhưng chỉ ra tính tương đối và ước lệ của nhãn thức địa giới. Andrei Bolkonski, cái tôi thứ hai của tác giả, trong phạm vi một cuộc đối thoại tâm tình chuyển dịch từ nhãn thức này sang nhãn thức kia mà không cảm thấy một tí mâu thuẫn nào giữa mình với mình, bởi vì nhân vật này thường xuyên làm như thế trong suốt vận trình của tiểu thuyết. Ngay từ đầu đã là thế: trong trận đánh ở Austerlitz, còn đang ao ước lập chiến công, mơ tưởng đến vinh quang của Napoléon thì công tước Andrei cầm quân kỳ ngã xuống chiến trường, mở mắt ra trông thấy bầu trời cao lồng lộng và trên cái nền trời ấy hình ảnh một Napoléon chiến thắng và đắc thắng lập tức và mãi mãi trở nên bé nhỏ trong mắt chàng. Một cuộc đảo lộn tâm thức trong chớp loáng như thế có hiện thực hay không? Trường đoạn này trong tiểu thuyết được viết thật hơn đời thực. Bảy năm sau, trên cánh đồng Borodino nhân vật này lại cảm thức và phát biểu tương tự: chiến tranh giữ nước giữ nhà là việc chính nghĩa, việc đáng làm, song mọi cuộc chiến tranh, mọi sự giết người đều là tội lỗi của con người trước Thượng Đế và không được tự hào về tội lỗi ấy. Trong cuộc đối thoại này Bolkonski đã trực tiếp cầu viện đến Thượng Đế như là cấp phán xử cuối cùng (“không biết Chúa ở trên ấy nhìn và nghe thấy thế nào!”).
Hơn 20 năm sau khi hoàn thành tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình Tolstoi viết thiên khảo luận dài Vương quốc của Thiên Chúa ở trong ta, trong đó ông xác định ba kiểu nhân sinh quan: cá nhân luận, xã hội luận và thượng đế luận. Thế nào là nhân sinh quan cá nhân luận và thượng đế luận, thiết tưởng không cần giải thích, nhưng khái niệm “nhân sinh quan xã hội luận” của Tolstoi có một nội hàm đặc thù rất xác định: đó là nhân sinh quan xuất phát chỉ từ lợi ích của từng kiểu và từng cấp hợp quần (cộng đồng) người, từ gia đình đến quốc gia và liên minh quốc gia, mà giới hạn là toàn nhân loại. Theo Tolstoi, các kiểu liên kết ấy cùng với nhân sinh quan thích ứng với chúng là những thực tại lịch sử trong những điều kiện nhất định cần thiết cho con người, nhưng do bản chất vị kỷ của chúng mà luôn luôn có sức mạnh nô dịch con người, trói buộc nó, làm tha hóa nó, che khuất khỏi mắt nó cái chân và cái thiện đích thực, nếu con người không hấp thụ và lấy làm kim chỉ nam cho mình cái nhân sinh quan “thượng đế luận”, yêu thương tất cả mọi sinh linh con người như nhau và không dành cho bất kỳ một người nào hay một hợp quần người nào một ưu đãi, một đặc quyền đặc lợi nào. Và chỉ yêu kính Thượng Đế và đoàn kết triệt để trong Thượng Đế thì loài người mới có cơ dựng xây trên trái đất một cuộc sống thiện hảo, trong ngôn ngữ tôn giáo gọi là Vương quốc của Thiên Chúa (Nước Trời). Trở lại với tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, ta thấy cái nhân sinh quan “thượng đế luận” ấy tuy chưa hoàn bị và chưa được ý thức rõ ràng, song đã hiện diện trong nhãn thức của tác giả và các nhân vật mà ông yêu quý nhất. Chính cái nhãn thức được quán triệt ấy bảo đảm cho tác phẩm của ông sức sống lâu bền, điều mà không thể nói về những “tiểu thuyết – sử thi” của nhiều tác giả ở nhiều nước khác nhau, bắt chước nghệ thuật của Tolstoi nhưng xa lạ hay không hấp thụ nhiều nhuần nhuyễn nhãn thức “thượng đế luận” của ông.
Xin chuyển sang thí dụ thứ hai – đó là bài viết Gửi đại hội Slavơ ở Sofia, hoàn thành vào thượng tuần tháng Bảy 1910 – chỉ bốn tháng trước khi Tolstoi qua đời. Lý do của bài viết này là thư mời tham dự Đại hội của các dân tộc Slavơ được tổ chức ở Sofia, thủ đô nước Bungari mới giành được độc lập chính trị sau năm thế kỷ bị đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ. Mặc dù trong thư mời được nhấn mạnh rằng đại hội này sẽ tuyệt không bàn đến những vấn đề chính trị mà chỉ nhằm mục đích đoàn kết và liên kết các nước và dân tộc Slavơ về mặt văn hóa – kinh tế, Tolstoi đã gửi đến đại hội một thông điệp có tính phê phán rõ rệt. Do thông điệp này ngắn gọn, xin dẫn ra dưới đây hầu như toàn văn:
“Đoàn kết con người, chính sự đoàn kết mà nhân danh nó các vị tập trung lại với nhau, không những là công việc quan trọng nhất của nhân loại, mà tôi còn thấy trong sự đoàn kết ấy có cả ý nghĩa, cả mục đích và hạnh phúc cuộc sống con người. Nhưng để cho hoạt động ấy mang lại ân phúc, cần làm sao để nó được thấu hiểu trong tất cả ý nghĩa của nó, không bị hạ thấp, hạn chế hoặc xuyên tạc. Cần phải là như vậy đối với tất cả mọi hoạt động quan trọng nhất của loài người, như tôn giáo, tình yêu, sự phục vụ nhân loại, khoa học và nghệ thuật. Tất cả cho đến cùng, đến tận những kết luận cuối cùng, cho dù chúng có xa lạ hoặc khó chịu đến thế nào đi chăng nữa cho ta. Hoặc là tất cả hoặc không có gì. Chẳng thà không có gì, chứ không phải là một vài thứ, bởi vì tất cả những hoạt động vĩ đại nhất của tâm hồn con người, nếu không thực hiện đến cùng thì không những không hữu ích, không mang lại lợi ích gì, cho dù nhỏ nhoi nhất, mà còn có sức phá hủy và hơn tất cả những điều khác ngăn cản đạt tới cái đích mà chúng tưởng chừng hướng tới.
Không phải nghi ngờ gì nữa, những con người đoàn kết bao giờ cũng mạnh hơn những người chia rẽ. Gia đình mạnh hơn những cá thể. Một băng cướp bao giờ cũng mạnh hơn những tên cướp một mình. Cộng đồng mạnh hơn những cá thể riêng biệt. Một quốc gia được đoàn kết bằng lòng ái quốc mạnh hơn các sắc tộc sống tách biệt. Nhưng vấn đề là ở chỗ, ưu thế của những người đoàn kết so với những kẻ tách biệt và hậu quả không tránh khỏi của ưu thế đó, sự nô dịch hay ít nhất là sự bóc lột những người tách biệt lấy, tự nhiên gợi cho những người ấy nguyện vọng đoàn kết, thoạt đầu để chống lại bạo lực, rồi sau đó để thực hiện bạo lực. Dĩ nhiên, khi đã gánh chịu cái ác do sự liên kết của các nhà nước Áo, Nga, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, thì các dân tộc Slavơ có nguyện vọng đoàn kết nhằm chống lại cái ác đó, nhưng khối liên kết mới đó, giả dụ nó được thành lập, tất yếu sẽ bị lôi kéo vào kiểu hoạt động y như vậy, không những để đối phó với các liên minh khác, mà còn để đàn áp và bóc lột những liên minh yếu hơn, nghèo hơn, và chống lại những cá nhân riêng biệt.
Đúng, đoàn kết là ý nghĩa, mục đích và hạnh phúc của đời sống nhân loại, nhưng mục đích và hạnh phúc ấy chỉ đạt được khi đây là sự đoàn kết toàn thể nhân loại, vì một nền tảng chung cho toàn nhân loại, chứ không phải là sự liên kết mấy nhóm nhỏ hoặc lớn của nhân loại vì những mục đích hạn chế, cục bộ. Cho dù đó là những liên kết gia đình, hay đảng cướp, hay cộng đồng, hay quốc gia, của một dân tộc hay của “liên minh thần thánh” giữa các quốc gia, những liên kết như vậy không những không trợ giúp, mà còn cản trở sự tiến bộ chân chính của loài người. Và vì vậy để phục vụ hữu thức cho sự tiến bộ chân chính, ít nhất tôi nghĩ như thế, cần không ủng hộ tất cả những liên kết cục bộ như thế, mà phải luôn luôn chống lại chúng. Đoàn kết là chìa khóa giải phóng con người khỏi cái ác. Nhưng để chìa khóa đó thực hiện được chức năng của mình, cần đẩy nó đến cùng, đến chỗ nó phải mở ra, chứ không được để nó bị gãy và làm hỏng ổ khóa. Đoàn kết cũng cần phải như vậy, để đạt được những kết quả đại phúc đại hạnh thích hợp với nó, nó phải nhằm mục đích liên kết tất cả mọi người, vì một khởi nguyên chung cho tất cả nhân loại, được tất cả mọi người thừa nhận như nhau. Mà sự liên kết đó chỉ có thể là liên kết dựa trên cơ sở tôn giáo của đời sống, – cái cơ sở mà chỉ có nó mới đoàn kết mọi người, nhưng tiếc thay lại bị đa số những người đang lãnh đạo các dân tộc trong thời đại chúng ta cho là đã lỗi thời, không cần thiết.
Người ta sẽ bảo tôi rằng: chúng tôi thừa nhận nền tảng tôn giáo đó, nhưng không chối bỏ cả nền tảng nối kết các bộ lạc, dân tộc, quốc gia. Nhưng vấn đề là ở chỗ cái này loại trừ cái kia. Nếu thừa nhận mục đích cuộc sống nhân loại là đoàn kết toàn thế giới, mang tính tôn giáo, thì bản thân sự thừa nhận ấy phủ định mọi cơ sở đoàn kết khác và ngược lại, sự thừa nhận là cơ sở của đoàn kết yếu tố bộ lạc, dân tộc, quốc gia – ái quốc tất yếu sẽ phủ định nguyên lý tôn giáo như là nền tảng thực sự của cuộc sống nhân loại.
Tôi nghĩ, tôi hầu như tin chắc rằng những ý nghĩ mà tôi đã trình bày sẽ bị coi là bất khả thi và không đúng đắn, nhưng tôi cho rằng mình có nghĩa vụ phải nói thẳng ra điều đó với những người mà, bất chấp sự phủ định chủ nghĩa ái quốc bộ lạc và dân tộc nơi tôi, dù sao đi nữa cũng gần gũi với tôi hơn những người thuộc dân tộc khác. Nói một điều to lớn hơn nữa, vứt bỏ những suy tính về việc, căn cứ vào những lời nói này của tôi người ta có thể cáo buộc tôi thiếu nhất quán và mâu thuẫn với chính mình, tôi xin nói rằng điều đặc biệt đã khiến tôi phải nói ra những gì mà tôi vừa trình bày, niềm tin của tôi vào việc cái nền tảng tôn giáo của sự đoàn kết đại đồng ấy, mà chỉ một mình nó có thể đoàn kết ngày một nhiều người hơn và dẫn họ đến với hạnh phúc phù hợp với bản tính của họ, rằng nền tảng ấy sẽ được tất cả các dân tộc trong thế giới Ki tô giáo tiếp nhận, trước hết là các dân tộc thuộc nòi giống Slavơ”…
Bài viết này cho thấy rất rõ những đặc điểm nổi bật của cái lối suy luận, cái nếp tư duy nơi nhà tư tưởng Tolstoi. Có thể gọi nó bằng một từ – cực đoan, thể hiện ở ngay phương châm mà ông đã không ngần ngại đưa ra: “Hoặc là tất cả hoặc không có gì”. Chủ trương đoàn kết toàn nhân loại và lấy đó làm đích, Tolstoi gạt bỏ mọi hình thức liên kết trung gian, nhìn thấy ở chúng những chướng ngại vật cho sự đạt tới đích cuối cùng ấy. Gia đình, tổ quốc bị đặt lên cùng một mặt bằng với đảng cướp – cơ sở của chúng là chủ nghĩa ích kỷ vụ lợi. Tất cả các liên minh ít nhiều mang tính cục bộ, không chỉ những liên minh quốc gia – chính phủ (Tolstoi là người theo chủ nghĩa vô chính phủ triệt để) mà cả những tổ chức nay gọi là phi chính phủ, cũng đều bị coi là đi ngược lại tôn chỉ đoàn kết toàn nhân loại và bị lên án. Chỉ cần hỏi Tolstoi: thế nhưng để đấu tranh cho sự đoàn kết toàn nhân loại ấy từng con người riêng lẻ phải dựa vào, phải tham gia ít nhất một tổ chức nào chứ? Thì ông sẽ không trả lời (thực ra ông có câu trả lời, xin được nói đến sau). Thành thử bắt bẻ Tolstoi là việc rất dễ, và biết bao người đã bắt bẻ ông, nói thẳng với ông: sự cực đoan quá khích là phản chỉ định, là không thể chấp nhận ở nhà triết học, nhà tư tưởng xã hội. Thế nhưng Tolstoi không hề sửa đổi, vẫn tiếp tục cực đoan, như ta thấy, cho đến khi từ giã cõi đời này. Tại sao lại thế? Đơn giản: cực đoan (đẩy đến cực độ) là lợi thế và lợi khí của tư duy nghệ thuật, và Tolstoi, nghệ sĩ vĩ đại, không ngần ngại sử dụng nó trong những thể loại diễn ngôn phi nghệ thuật. Và sự lạm dụng ấy, trong trường hợp Tolstoi, lại đem đến những hiệu quả bền vững tuy không ngay lập tức.
Đọc văn nghị luận của Tolstoi, rất nhiều khi ta có cảm tưởng rằng ông viết về ngày hôm nay của đất nước chúng ta, thế giới chúng ta. Cái trực giác, cái linh giác nghệ sĩ đã giúp nhà tư tưởng Tolstoi nắm bắt không sai lầm những vấn đề mới chớm nở trong xã hội thời ấy nhưng sẽ trở thành những vấn nạn của xã hội ngày nay, những ung nhọt mới nảy sinh trên cơ thể nhân loại mai sau sẽ biến thành những ổ ung thư. Đọc lại bài Gửi đại hội Slavơ ở Sofia và liên hệ với thực tại của thế giới trong thế kỷ qua và ngày nay, với những khẩu hiệu đoàn kết mị giai cấp, mị nhân dân, mị dân tộc và cả mị nhân loại siêu hiệu quả, với sự lộng hành của đủ mọi kiểu liên kết, liên minh hoạt động nhân danh nào giai cấp, nào nhân dân, nào dân tộc, nào nhân loại nhưng trong thực tế lấy những lợi ích vị kỷ cục bộ của mình thay cho lợi ích của cả giai cấp, cả nhân dân, cả dân tộc, cả nhân loại, và với những tai họa toàn cầu hiện nay mà chỉ có thể khắc phục bằng sự đoàn kết thực sự của mọi người trên hành tinh này, vượt mọi rào cản của các liên minh nói trên, lẽ nào không thừa nhận sự nhìn xa thấy trước phi thường của Tolstoi, chân lý anh minh trong cái tưởng là sự cực đoan mất trí của ông?
*
Ngay với một trí tuệ hùng mạnh và một lương tri nhạy sắc như ở Tolstoi, con đường đến với những chân lý anh minh ấy không thể chóng vánh, thẳng tắp và phẳng phiu, những thu lượm không thể không đi kèm với những mất mát. Với nhiều năng lực dồi dào trời cho như thế, mà từng năng lực riêng lẻ đã là quá đủ cho một đời người, Tolstoi ngoài sáng tác văn học, từ trẻ đã thử sức mình trong hoạt động quân sự, hoạt động xã hội, hoạt động giáo dục, mà trong từng hoạt động ấy ông đều thể hiện rõ nét bản sắc và bản lĩnh cá nhân của mình. Ở đây không thể không nhắc đến một công trình thời trẻ bị bỏ dở của ông – Đề án về cải tổ quân đội (1855). Nó đã chứa đựng những hạt nhân của lập trường kiên định và không khoan nhượng chống chủ nghĩa quân phiệt, chống chiến tranh, chống bạo lực đặc trưng cho tư tưởng Tolstoi trong tương lai. Cái chủ nghĩa hòa bình không biết nhượng bộ của Tolstoi, cái thái độ bài bác triệt để quân đội và nghề binh nơi ông nảy sinh từ kinh nghiệm cá nhân, từ những quan sát thực tế trong mấy năm ông làm lính, rồi làm sĩ quan. Sự cưỡng bức thô bạo, sự chà đạp nhân phẩm của con người, sự biến con người thành công cụ vô hồn thực hiện mọi mệnh lệnh của cấp trên bất cứ chúng là thế nào – những tệ nạn muôn đời và phổ biến của nghề binh và giới binh sĩ mà Tolstoi đã chứng kiến tận mắt và một phần đã trải nghiệm bằng thân thể sẽ trở thành xuất phát điểm để Tolstoi quan trắc, phát lộ và kiến giải cũng những tệ nạn ấy trong xã hội loài người nói chung. Từ nhận định bao quát về những điều kiện sống không xứng đáng với con người ấy, Tolstoi rút ra kết luận về một điều kiện không thể thiếu và tiên quyết cho cuộc sống xứng đáng – tự do. Tự do trong mọi bình diện và mối quan hệ của nó cần được xem như là một cảm hứng thường trực, tuy ẩn kín và một đối tượng tìm kiếm hàng đầu trong suốt đời hoạt động của Tolstoi. Tự do là yêu cầu và tiêu chí cơ bản trong lý thuyết về giáo dục và đào tạo của Tolstoi, được xác nhận bởi kinh nghiệm thực tiễn của ông với tư cách nhà sư phạm và người tham gia tổ chức nền giáo dục bình dân ở Nga vào những năm 60 – 70 thế kỷ XIX. Những quan điểm về giáo dục của Tolstoi, được trình bày tập trung trong một loạt bài viết chuyên sâu vào những năm 1862-1863 và được ông kiên trì bảo lưu, đã là tiên tiến trong thời đại của ông, vẫn là tiên tiến trong thời đại ngày nay và đặc biệt cho Việt Nam ta nơi nền giáo dục, đi chệch quỹ đạo quá lâu, đang đòi hỏi những tâm lực và trí lực phi thường để chấn chỉnh. Không phải ngẫu nhiên mà ngay khi nhà văn Nga còn sống, những công trình nghiên cứu về Tolstoi – nhà sư phạm đã xuất hiện ở phương Tây. Và sự không thành công trong hoạt động giáo dục, cũng như việc bỏ dở đề án về cải tổ quân đội vì biết trước nó sẽ không được chấp nhận chỉ chứng minh trong cả hai lĩnh vực ấy Tolstoi đã đi trước thời đại mình (và có khi mọi thời đại) đến đâu.
Không thể biết được, nếu mà Tolstoi không vấp phải những khó khăn rắc rối trong hoạt động nhà giáo của mình, chúng đã khiến ông phải nản chí và trở về với sáng tác văn chương, thì loài người sẽ không có hay sẽ vẫn có Chiến tranh và hòa bình và Anna Karenina để thưởng thức, suy ngẫm, học tập, kiến giải. Dưới góc độ hành trình tư tưởng của Tolstoi, xin chỉ bàn đến hai kỳ đài văn học này, được sáng tác trong khoảng thời gian giữa trưa của cuộc đời Tolstoi (1863-1878), trong liên hệ với lời phát biểu nổi tiếng của ông: “Trong Chiến tranh và hòa bình tôi yêu thích tư tưởng nhân dân, trong Anna Karenina – tư tưởng gia đình”.
Trước hết cần phải nói rằng từ “nhân dân” trong tổ từ “tư tưởng nhân dân” là cách dịch chữ, chứ không phải dịch nghĩa. Tổ từ “mysl’ narodnaja” của Tolstoi có hàm nghĩa sâu rộng hơn rất nhiều. Trong tiếng Nga những từ thuần Nga “narod (nhân dân; dân chúng; dân tộc) “rod” (dòng giống, loài giống, chủng tộc); “rodit’/ rodit’sja” (sinh đẻ/ sinh ra), “narodit’/ narodit’sja” (sinh đẻ nhiều/ sinh sôi nảy nở), “priroda” (thiên nhiên; cái tự nhiên; bản chất; bản thể) là những từ đồng căn, và cái căn chung ấy được tất cả các chủ nhân của ngôn ngữ này cảm thụ sống động trong sử dụng hàng ngày. Như vậy “mysl’ narodnaja” của Tolstoi có thể diễn đạt ra tiếng Việt đại để như sau: “tư tưởng/ ý tưởng – về/ của – nhân dân/ dân tộc – (như là một bộ phận của) – loài (người) sinh sôi nảy nở – (như là một bộ phận/ trong quan hệ với) – cái tự nhiên/ cái bản thể”. Trong cái liên hợp bao la, với những quan hệ qua lại chằng chịt của những ngữ nghĩa, ý tứ sâu thẳm ấy, ta tách ra chỉ một chuỗi nghĩa nhỏ để thử xem xét, phân tích: “tư tưởng – về – nhân dân – (như là một bộ phận của) loài người – (như là một bộ phận/ trong quan hệ với) – cái tự nhiên/ cái bản thể”. “Nhân dân” được nhà văn và nhà tư tưởng Tolstoi yêu thích và yêu quý không theo nghĩa xã hội học mà theo nghĩa tự nhiên học, bản thể học. Cái nhân dân/ dân chúng như là những giai tầng xã hội hạ lưu đố kỵ và đấu tranh với những giai tầng thượng lưu để giành giật lợi ích và địa vị thì luôn luôn bị Tolstoi khinh ghét, và ở đây ông luôn luôn giữ thái độ của một đại quý tộc có dòng giõi hiển vinh lâu đời(1). Khinh ghét cái “dân đen” hạ lưu, nhà quý tộc tinh thần Tolstoi khinh ghét cả “dân đen” thượng lưu – giới quý tộc quan lại ôm chân núp bóng vương quyền để được hưởng giàu sang phú quý, đặc quyền đặc lợi, và tìm kiếm những giá trị chân chính ở nguồn cội của nhân sinh – ở đời sống tự nhiên trên đất, đời sống nhà nông. Nhân dân đối với Tolstoi trước hết và chủ yếu là những nông phu lao động trên đất, kiếm sống từ đất; đời sống của họ, phù hợp với luật tự nhiên, theo Tolstoi (và ở đây ông là học trò của Rousseau mà ông ái mộ từ thời niên thiếu) là đời sống lành mạnh nhất, thiện lương nhất. Loài người, cũng như mọi loài vật trên mặt đất này, phải lao động để sống và để duy trì cuộc sống của nòi giống mình – đó là luận điểm xuất phát của triết học đạo đức và cả mỹ học Tolstoi. Chất thơ của lao động và sinh hoạt nhà nông, vắng mặt trong Chiến tranh và hòa bình, đã xuất hiện rực rỡ trước đó trong tiểu thuyết Những người Kazăc (1862) và sẽ tái hiện trong Anna Karenina, không để cho một độc giả nào có thể dửng dưng, truyền cho nó cảm giác là nó đang tiếp xúc với đời sống thực.
“Tư tưởng nhân dân” trong Chiến tranh và hòa bình được thể hiện tập trung ở sự cho thấy, cái nhân dân cần lao, sống một đời sống lành mạnh, tự nhiên ấy ứng xử thế nào, khi có giặc đến nhà. Là lẽ tự nhiên đối với họ cầm súng đánh đuổi giặc. Đuổi nhiều hơn đánh. Đuổi ra khỏi đất nước mình để trở lại với đời sống và lao động trên đất, tuyệt không nghĩ gì đến vinh quang của chiến thắng, đến danh dự được bảo vệ và nâng cao của dân tộc, vị trí và uy tín được củng cố của quốc gia, v.v…, không cần đến tất cả những thứ ấy. Cái triết lý chiến tranh nhân dân ấy, đặt chiến đấu bảo vệ tổ quốc lên một mặt bằng với mọi công việc thường nhật và thiết yếu của con người để duy trì cuộc sống và tước đi của nó mọi hào quang của chủ nghĩa anh hùng lên gân, của những kỳ tích ngoại biệt, ấn định toàn bộ thi pháp của tiểu thuyết – sử thi. Người thể hiện bằng việc làm và lời nói cái triết lý ấy là tổng tư lệnh, nguyên soái và minh công tước Kutuzov – một nhân vật văn học khác xa với nguyên mẫu của nó trong lịch sử. Kutuzov của Tolstoi đúng là một hiện thân sống động, được cá thể hóa cao độ của quan điểm nhân dân về chiến tranh. Khi giặc ngoại xâm mạnh, ông lùi bước, nộp cho giặc cả cố đô Moskva, để bảo toàn quân lực. Khi giặc bắt đầu yếu đi và rút lui, ông đuổi theo sát gót nó, không cho nó quay gót trở lại. Đuổi giặc đến biên giới thì không chịu đuổi tiếp nữa, và cho là nhiệm vụ của mình đã hoàn thành, và chết. (Trong thực tế lịch sử thì Kutuzov đã chết trên đường tiếp tục truy kích quân Pháp theo lệnh của Alexandre đệ Nhất). Kutuzov dưới ngòi bút của Tolstoi không phải là một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự mà là một thành viên đáng tin cậy của cộng đồng nhân-dân – dân-tộc Nga và cộng đồng loài người, là một phần nhỏ tí ti được nạp trí lực tập trung của vũ trụ tự nhiên, sống và hoạt động theo lẽ muôn đời của cái tự nhiên ấy, vì sự trường tồn của nó. “Ông ta không có cái gì của mình cả, – Andrei Bolkonski suy nghĩ về Kutuzov – ông sẽ không tự nghĩ ra một cái gì, tiến hành một cái gì, nhưng sẽ lắng nghe tất cả, nhớ tất cả, đặt tất cả vào vị trí của nó, sẽ không cản trở một cái gì hữu ích và sẽ không cho phép một cái gì có hại. Ông hiểu rằng có một cái gì đó mạnh hơn và to lớn hơn ý chí của ông – đó là vận trình tất yếu của các sự kiện, và ông biết nhìn thấy chúng và hiểu ý nghĩa của chúng và do hiểu ý nghĩa ấy, ông biết chối từ can thiệp vào những sự kiện ấy, chối từ ý chí cá nhân của mình hướng vào một cái gì đó khác”. Trong thời kỳ viết Chiến tranh và Hòa bình, Tolstoi còn chưa biết gì về Lão Tử, chưa đọc Đạo đức Kinh, nhưng ông đã ban cho nhân vật của mình sự anh minh của người thấu hiểu chữ Đạo (“vận trình tất yếu của các sự kiện”, nếu dịch sát hơn thì là “bước đi tất yếu”) và hành xử theo sự hiểu biết ấy, hay là “vô vi” theo nghĩa của Lão Tử.
Những tương cận, những trùng hợp với Lão Tử và tư tưởng phương Đông nói chung ở Tolstoi, từ lâu đã được để ý đến, cần được xem xét trong một văn cảnh rộng nhất – văn cảnh của những mẫu gốc chung của văn hóa loài người(2). Cái mô hình lý tưởng của sự sống hoàn vũ, mà trong đó con người và các hợp quần người là những bộ phận hữu cơ ăn khớp với nhau và với chỉnh thể, được phô diễn với sức mạnh tư tưởng – nghệ thuật vô song trong Đạo đức Kinh, dưới nhiều biến tướng, đôi khi phân tán, từng làm cơ sở cho nhiều tác phẩm sử thi lớn của thế giới – từ Iliade đến Chiến tranh và hòa bình. Trong Chiến tranh và hòa bình khả năng “hóa thật” của mô hình ấy được khảo xét trên chất liệu lịch sử dân tộc, ở thời điểm ngoại biệt của cuộc chiến tranh vệ quốc 1812. Nhiều mâu thuẫn nội tại gay gắt, nhiều ung nhọt nguy hiểm của xã hội Nga thời ấy (nổi trội là chế độ nông nô) trong tiểu thuyết của Tolstoi đã được xoa dịu hữu thức nhằm thực hiện nhiệm vụ nghệ thuật tạo ra một bức tranh về “trạng thái sử thi của nhân thế” (Hegel). Và Tolstoi – nghệ sĩ đã làm tròn nhiệm vụ ấy, vì thế mà “Chiến tranh và hòa bình” được cả thế giới văn minh, sầu nhớ sử thi cổ điển, tiếp nhận như là sử thi của thời đại mới. Nhưng Tolstoi đã để lại và khuyếch trương một tọa độ quan trọng, phá vỡ từ bên trong thế giới sử thi – tọa độ nhân cách học – cá nhân học. Hai nhân cách cao đẹp và phức tạp, hai người “anh hùng” của tiểu thuyết – sử thi, Andrei Bolkonski và Pier Bezukhov, trong thời bình đã không hòa hợp với môi trường xã hội – dân tộc của mình, trong chiến tranh giữ nước cũng không hội nhập đến cùng với nó. Công tước Andrei chỉ tham chiến bằng lý trí và ý thức đạo nghĩa, chứ không phải bằng cả tâm hồn. Ngay đêm trước trận quyết chiến giữa quân Nga và quân Pháp chàng vẫn sống với vết thương lòng cá nhân sâu kín, không để cho ai biết của mình và sau khi bị tử thương chỉ suy nghĩ về tình yêu, về cái chết, về Thượng Đế, chứ không phải về nước Nga, về kết cục của cuộc chiến với Napoléon. Và Tolstoi đã cho nhân vật này chết, bởi vì cuộc sống tiếp tục sẽ chỉ là sự kéo dài không cần thiết bi kịch tất yếu của một nhân cách tiểu thuyết luôn luôn to lớn hơn số phận, quá khổ với mọi y phục xã hội – lịch sử. Còn Pier Bezukhov, một nhân cách đương trong quá trình trưởng thành, thì chỉ quan sát và trải nghiệm cái thực tại chiến tranh, để rồi về cuối tiểu thuyết, trong bối cảnh hòa bình đã được lập lại, với những mâu thuẫn xã hội tái hiện sắc nét hơn xưa, đi đến nhận thức rằng “nếu những kẻ ác hợp thành sức mạnh, thì những người tốt cũng phải hợp thành sức mạnh” để đấu tranh với chúng – một kết luận mà Andrei Bolkonski vị tất sẽ tán thành và trái ngược rõ ràng với cái mô hình nhân thế lý tưởng cuốn hút đến thế tác giả Chiến tranh và hòa bình và suốt đời sẽ cuốn hút Tolstoi – nhà tư tưởng.
Chúng ta chuyển sang “tư tưởng gia đình” được Tolstoi yêu thích trong tiểu thuyết Anna Karenina. “Tư tưởng gia đình” ở đây được khảo xét trên chất liệu xã hội đương thời (với tác giả) trên ba bình diện trọng yếu: 1) gia đình như là nhân tố bảo đảm sự trường tồn của loài giống con người; 2) gia đình như là thành quả và sự hiện thực hóa nối tiếp của tình yêu; 3) gia đình như là hậu thuẫn, bệ đỡ cho sự phát triển của con người. Cả ba bình diện này đã được vạch ra bằng những nét chấm phá trong Chiến tranh và hòa bình(3), hội tụ trong hạnh phúc vợ chồng của Pier Bezukhov và Natasha Rostova. Konstantin Levin và Kiti Sherbatskaja trong Anna Karenina có thể được xem là những hóa thể của hai nhân vật trên, và nếu ở Levin có thể tìm thấy những chiều kích mới so với Bezukhov, thì Kiti dường như là một bản sao (đáng tiếc mờ nhạt hơn) của Natasha. Song rõ ràng cả hai cặp nhân vật này đều khẳng định một tư tưởng tâm huyết của tác giả: gia đình là cái đích, là bến bờ của tình yêu; tình yêu cập cái bến bờ ấy để bắt rễ vào đất và đơm hoa kết trái, thực hiện thiên chức muôn đời của mình: sinh dưỡng hậu thế, bảo đảm sự tái sản xuất của giống nòi. Với Tolstoi, sự thực hiện thiên chức ấy là quan trọng đến mức ông không ngại gây sốc cho độc giả dám biến Natasha Rostova từ một thiếu nữ sinh ra trong nhung lụa, có sức hấp dẫn mê ly của một tâm hồn trẻ, mở toang ra thế giới bên ngoài để hấp thụ mọi hương sắc và hương vị của nó, thành chỉ một người vợ và một người mẹ (“một con cái sung sức, đẹp và mắn con”) nuôi con bằng sữa của mình và hồn nhiên khoe những chiếc tã lốm đốm vết xanh vàng của chúng. Bằng những hình ảnh đập vào mắt ấy, Tolstoi khẳng định quan niệm của mình về sứ mệnh đích thực của người phụ nữ, gạt bỏ những tư tưởng theo ông là thời thượng, nông nổi và sai lầm về giải phóng phụ nữ. Người phụ nữ như là một người vợ tốt và người mẹ tốt và linh hồn của tổ ấm gia đình mãi mãi sẽ cần thiết và hữu ích cho loài người hơn là một người hoạt động xã hội, nhà nước, khoa học, nghệ thuật, v.v… – tư tưởng này sẽ được Tolstoi suốt đời bảo lưu. Kiti Cherbatskaja, cũng như Natasha Rostova thấu triệt cái thiên chức ấy, sung sướng thực hiện nó, thỏa mãn với nó và vì nó mà hi sinh những năng lực và sở thích khác của mình, tự hạn chế môi trường hoạt động của mình, tự đặt ranh giới cho sự phát triển con người của mình. Không vội lên án Tolstoi cổ hủ, ta thử xem Konstantin Levin, chồng của Kiti, có gì sống và có gì khác Pier Bezukhov, chồng của Natasha.
Levin, cũng như Pier, là một nhà quý tộc tự hào về dòng dõi lâu đời của mình và đối lập mình với những quý tộc mới nảy nòi mà cha ông do ôm chân núp bóng vương quyền mà được hưởng phú quý. Nhưng nếu Pier suốt đời chỉ là nhà trí thức hoạt động xã hội thì Levin trước hết là một điền chủ trực tiếp canh tác đất, sống bằng đời sống của nhà nông. Vụng về và xa lạ trong những phòng khách quý tộc, Levin cảm thấy mình như cá trong nước giữa ruộng đồng, bên cạnh những người mugic cày bừa, cắt cỏ, gặt lúa. Đời sống tinh thần, đời sống nội tâm của chàng dĩ nhiên phong phú, phức tạp và tinh tế hơn nhiều so với những người nông dân bao quanh chàng, nhưng nó ăn nhập với cuộc sống của chàng, và cái hạnh phúc gia đình của chàng, sự sinh con và nuôi con được khắc vẽ với những chi tiết rất tỉ mỉ, thấm đượm chất thơ chính trong khung cảnh cuộc sống lao động trên đất, gần gũi với cội nguồn của nhân sinh ấy. Trước cũng như sau Tolstoi, không ai truyền đạt được cái đẹp, chất thơ của cuộc sống lao động chân tay với sức mạnh chinh phục như ông.
Nhưng tiểu thuyết của Tolstoi không ngẫu nhiên mang tên Anna Karenina – đây mới là nhân vật trọng tâm, là trọng điểm tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm. Một người phụ nữ vì theo đuổi hạnh phúc cá nhân đã phá vỡ tổ gia đình, chối bỏ nghĩa vụ người vợ và người mẹ của mình để khi thất vọng thì tự kết liễu cuộc đời mình – là như thế cốt cách của hình tượng trung tâm này trong quan hệ với “tư tưởng gia đình” của tác giả. Tội lỗi của Anna (mà nhân vật này luôn luôn cảm thấy nhưng người đọc bị nàng mê hoặc thì nhiều khi sao nhãng) sẽ trở nên sáng rõ hơn, nếu ta so sánh người chồng bị nàng ruồng bỏ với người tình đã quyến rũ nàng. Tác giả công bằng với hai nhân vật này và tuyệt không nhìn họ chỉ bằng con mắt của nữ nhân vật. Cả Aleksei Karenin lẫn Aleksei Vronski (sự trùng tên ở đây cũng không ngẫu nhiên) đều là những sản phẩm bằng máu thịt của xã hội quý tộc thượng lưu Nga, họ sống, cảm nghĩ và hành xử theo những chuẩn mực và định kiến của xã hội ấy và không bao giờ có nhu cầu bước ra khỏi cái khung chật hẹp, ước lệ và giả tạo ấy. Tất nhiên, ở cả hai nhân vật đều có cái phần nhân tính dư thừa (định thức của Bakhtin) biến họ thành những nhân vật tiểu thuyết, song nếu xét kỹ thì ở Karenin cái phần nhân tính dư thừa ấy còn nổi trội hơn ở Vronski. Karenin đã có thể tha thứ cho vợ mình, đã quyết định nhận hết lỗi về mình để giải phóng cho nàng, đã thật lòng yêu quý đứa con riêng của nàng – những điều tương tự như thế không thể chờ đợi ở Vronski. Thế thì cái gì ở Vronski đã cuốn hút Anna đến thế? Ngoài sự phú quý mà cả Karenin cũng có thì đó là tuổi trẻ, sức trai tráng kiện không có ở Karenin. Tình yêu của Anna đối với Vronski là tình yêu nhục cảm, không mang một dấu hiệu tinh thần nào. Tolstoi khắc họa với một tài nghệ vô song không chỉ sắc đẹp và cái duyên ngời ngời của nữ nhân vật này mà cả những năng lực dồi dào của tâm hồn và trí tuệ nàng, để bằng toàn bộ diễn biến của mối tình với Vronski cuối cùng dẫn dắt nàng đến kết luận khắc nghiệt nhưng công bằng về bản thân: “Giá mà mình có thể là một cái gì, ngoài một người tình yêu cuồng nhiệt chỉ những ái ân của chàng; nhưng mình không thể và không muốn là bất cứ một cái gì khác.” Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành đã bị biến thành phương tiện chuyên biệt để giữ lấy tình yêu vị kỷ của người tình: để trẻ đẹp lâu, Anna quyết định không đẻ con nữa, bất chấp mong ước có nhiều con của Vronski. Một tình yêu như thế, được khơi gợi và nuôi dưỡng chỉ bằng sắc đẹp và sự thỏa mãn được sở hữu nó mau chóng bộc lộ mình như một sức mạnh hủy hoại và tự hủy hoại. Nó là biểu hiện của cái mà sau này Freud sẽ gọi là “bản năng chết”. Tolstoi không biết cái định thức khoa học ấy và giả sử có biết thì chắc cũng sẽ không chấp nhận. Như một nhà tư tưởng lo lắng cho tiền đồ trong chân lý và đức hạnh của loài người, ông sẽ kêu gọi con người hết sức cảnh giác và biết tự vệ trước sức mạnh ấy. Kêu gọi không mệt mỏi vì ông quá biết khả năng tác động của nó. Trong tiểu thuyết của ông, một hiện thân của đức hạnh và lương tâm như Levin chỉ cần gặp gỡ chốc lát là đã xiêu lòng trước sức hấp dẫn không thể cưỡng lại của tuyệt thế giai nhân Anna, và để bảo toàn đức hạnh sẽ bằng mọi cách tránh gặp lại nàng, điều mà nhân vật này sẽ không khó làm vì được vợ canh giữ, vả lại chẳng bao lâu nữa giai nhân ấy sẽ gieo mình xuống dưới bánh xe tầu hỏa. Cái đó có nghĩa là cái đẹp thân xác, cái đẹp nhục cảm sẽ không có chỗ trong nhân loại được “lập trình” của Tolstoi. “Chúng ta càng đắm say cái đẹp, thì càng lìa xa cái thiện” – Tolstoi sau này sẽ viết. Và cho đến chết ông sẽ không tìm kiếm những con đường dung hợp cái thiện với cái đẹp, điều không khó hiểu ở nhiều nhà tư tưởng, nhưng không phải ở tác giả “Anna Karenina”. Ngay trong lãnh địa của cái đẹp – nghệ thuật, Tolstoi cũng sẽ kêu gọi những người sáng tạo và thưởng thức tìm kiếm chỉ cái đẹp tinh thần, đồng nhất nó đơn thuần với cái thiện. Nhưng ông quá biết rằng bản thân cái thiện, như nó hiện diện trong đời sống của xã hội loài người, còn xa mới có được sức cuốn hút của cái đẹp. Và ông sẽ phải tìm đến một sức mạnh bao hàm cả cái thiện lẫn cái đẹp, đứng lên trên mâu thuẫn thực chứng giữa chúng, nhưng phải nói thật, sức mạnh ấy – Thượng Đế – dưới ngòi bút ngay của Tolstoi vẫn chưa đủ sức hấp dẫn mà lẽ ra nó phải có, thành thử, trở về với tiểu thuyết của ông, còn xa mới mọi bạn đọc đều đồng tình với cách tiếp cận dẫu sai vẫn duy đạo đức của Tolstoi với cái đẹp sắc nước hương trời hiện thân nơi Anna. Homère trong quan hệ với Hélène, Bạch Cư Dị trong quan hệ với Dương Quý Phi và cả loài người trong thái độ đối với Maryllin Monroe và công nương Diana thấu tình đạt lý hơn.
Trở lại với “tư tưởng gia đình” như nó được khảo xét trong Anna Karenina, ta không thể không thấy rằng nó được khẳng định dè dặt và có điều kiện hơn nhiều so với “tư tưởng nhân dân” trong Chiến tranh và hòa bình. Nơi ấy đằng sau nguyên soái Kutuzov là hàng triệu người Nga cảm nghĩ và hành động như ông, đằng này cái gia đình hợp chuẩn của Levin và Kiti chỉ có một, tất cả các gia đình khác được mô tả hay nói đến đều lệch chuẩn một cách tệ hại. Những người con sinh ra và lớn lên trong môi trường gia đình như thế (con trai của Anna, con cái của Dolli và Stiva Ollonski, bản thân Vronski trong quan hệ với mẹ) là những sinh linh tinh thần bất hạnh, què quặt. Một nhân quần như thế phải được chữa lành, chứ không chỉ sinh sôi nảy nở và càng về sau thì với Tolstoi, sự cần thiết chữa lành loài người càng trở nên hệ trọng hơn, làm thay đổi hẳn thái độ của ông đối với tình yêu nam nữ, hôn nhân và gia đình, như ta có thể thấy qua truyện Bản xônat Kreutzer và Lời bạt cho truyện ấy (được đưa vào sách này). Trở lại với cái hạnh phúc ngoại biệt của Levin và Kiti, bản thân nó có trọn vẹn và bền vững hay không? Ngoài những hi sinh của Kiti (cũng như của Natasha trong Chiến tranh và hòa bình) biến hạnh phúc ấy thành cái không viên mãn, hạnh phúc ấy còn mong manh nữa. Levin của Tolstoi, tựa như chính Tolstoi trong đời thực, luôn luôn ở trong quá trình chuyển biến tư tưởng, với những biến đổi khó lường trước. Trong tiểu thuyết, như Dostoievski đã tinh ý nhận thấy ngay khi nó còn được đăng tải trên tạp chí, nhà điền chủ Levin còn khăng khăng bảo vệ những quyền lợi điền chủ của mình, cố dung hòa chúng với công lý và chân lý mà tâm hồn chàng hướng tới. Đau khổ vì thiếu đức tin tôn giáo, Levin ở cuối tiểu thuyết bừng ngộ về sự tồn tại của Thượng Đế và về chân lý thần thánh, vượt lên bên trên trí tuệ của con người: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”. Tiểu thuyết đến đây thì kết thúc, nhưng người đọc dễ hình dung ra con đường mà nhân vật này sẽ phải đi tiếp. Đã thấm nhuần chân lý thần thánh ấy thì Levin sẽ không thể tiếp tục bảo vệ những lợi ích điền chủ của mình, mâu thuẫn với lợi ích của những người nông dân nghèo khổ vì không có đất để canh tác, sẽ không thể không muốn chia sẻ ruộng đất của mình với họ. Nhưng lúc ấy thì liệu Kiti có đồng tình với chàng hay không? Nếu nàng sẽ không đồng tình, nếu sẽ một mực phản đối, vì lợi ích của mình và của con cái, thì còn đâu hạnh phúc gia đình mà nền tảng độc nhất là sự vợ chồng tâm đầu ý hợp? Chính sự bất đồng không thể khắc phục về vấn đề sở hữu trong đời thực sẽ trở thành bi kịch của gia đình Tolstoi, kéo dài ba thập niên và chỉ kết thúc với cái chết của ông.
“Tư tưởng nhân dân” và “tư tưởng gia đình” làm cốt lõi cho hai kiệt tác lớn nhất của nhà văn Tolstoi, đồng thời là hai giai đoạn quan trọng trong vận trình hình thành Tolstoi – nhà tư tưởng. Tâm đắc với hai tư tưởng ấy, Tolstoi bằng logic nội tại của sự khảo xét nghệ thuật đã đi đến xác tín về tính hữu hạn, tính tương đối của những giá trị phổ biến của nhân sinh như gia đình hay nhân dân – dân tộc. Với những giá trị tương đối, cần phải quý trọng, nhưng không thỏa mãn. Khao khát cái tuyệt đối, Andrei Bolkonski đã không thỏa mãn với chúng, và cả Konstantin Levin cũng sẽ không thỏa mãn. Còn Tolstoi, tác giả của những hình tượng văn học ấy, thì trong tương lai gần sẽ trải nghiệm sự khủng hoảng của những giá trị tương đối ấy và sẽ tìm cách thoát khỏi khủng hoảng […].
(1) Từ đó mà phát sinh thái độ mấp mé với kinh miệt của Tolstoi đối với giới trí thức bình dân, giới cách mạng dân túy và cách mạng dân chủ như Belinski, Chernyshevski (và cả Nekrasov), trong khi đó thì ông lại một mực quý trọng Herzen – nhà cách mạng quý tộc không giấu giếm chất quý tộc của mình. Trong liên quan này, sẽ không là thừa nhớ đến hình tượng uy nghi, gây nể trọng sâu sắc của công tước già Nikolai Andreevich Bolkonski trong Chiến tranh và hòa bình.
(2) Ở đây cũng cần nhắc đến cả những trùng hợp kỳ lạ, không chỉ về tư tưởng, mà còn về lời văn, giữa Đạo đức Kinh và một kiệt tác của Dostoievski – Giấc mơ của kẻ nực cười (1877).
(3) Chúng tôi không đề cập đến tiểu thuyết Hạnh phúc gia đình (1858), nơi tư tưởng này chỉ mới manh nha.