NGHI LẠY TAM BẢO
Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ biên sọan (Hán văn)
Phật lịch 2518
Cư sĩ Hạnh Cơ chuyển dịch
sang Việt ngữ
sang Việt ngữ
Phật lịch 2557 (2014)
PHẦN MỘT
KHAI
KINH (tùy nghi)
KINH (tùy nghi)
PHẦN HAI
XƯỚNG
LẠY
LẠY
1. XƯỚNG: Đối trước chư Phật cả ba đời,
Trong các thế giới khắp mười phương,
Con đem thân miệng ý thanh tịnh,
Kính lễ cùng khắp không bỏ sót;
Nhờ sức oai thần hạnh Phổ Hiền,
Hiện thân khắp trước các Như Lai,
Một thân lại hiện vô số thân,
Mỗi thân kính lễ vô số Phật.
Vô số Phật trong một vi trần,
Đều ngự giữa chúng hội Bồ-tát;
Cùng khắp pháp giới cũng như vậy,
Lòng tin chư Phật đều đầy đủ.
HÒA: Một lòng kính lạy Ba Ngôi Báu Phật Pháp
Tăng thường trú trong khắp mười phương pháp giới, trải suốt ba đời quá khứ,
hiện tại và vị lai. (1 lạy)
Tăng thường trú trong khắp mười phương pháp giới, trải suốt ba đời quá khứ,
hiện tại và vị lai. (1 lạy)
2. XƯỚNG: Chư
Phật khắp mười phương,
Phật khắp mười phương,
Đấng Đại Thánh Thế Tôn
Thấy tột cùng thật tướng
Vạn pháp ở thế gian,
Bậc Thầy của trời người.
Cho nên con hôm nay
Xin quay về nương tựa.
HÒA: Đệ tử chúng con qui y Phật, đấng
phước đức trí tuệ vẹn tòan. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y trời thần
quỉ vật. (1
lạy)
phước đức trí tuệ vẹn tòan. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y trời thần
quỉ vật. (1
lạy)
3. XƯỚNG: Tất cả Pháp thường trú,
Lời Phật dạy thanh tịnh,
Có công năng chữa lành
Các bệnh khổ thân tâm.
Cho nên con hôm nay
Xin quay về nương tựa.
HÒA: Đệ tử chúng con qui y Pháp, con
đường xa lìa tham dục, đưa đến cuộc sống thanh tịnh. Xin nguyện đời đời, vĩnh
viễn không qui y ngọai đạo tà giáo. (1 lạy)
đường xa lìa tham dục, đưa đến cuộc sống thanh tịnh. Xin nguyện đời đời, vĩnh
viễn không qui y ngọai đạo tà giáo. (1 lạy)
4. XƯỚNG: Chư
vị Đại Bồ Tát
vị Đại Bồ Tát
Không an hưởng niết bàn
Của bốn quả Thanh Văn,
Mà phát tâm cứu độ
Khắp chúng sinh đau khổ.
Cho nên con hôm nay
Xin quay về nương tựa.
HÒA: Đệ tử chúng con qui y Tăng, bậc
tôn quí giữa mọi người. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y tà sư bạn
xấu. (1
lạy)
tôn quí giữa mọi người. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y tà sư bạn
xấu. (1
lạy)
5. XƯỚNG: Thời Phật đang tại thế
Chúng con còn trầm luân,
Nay được sinh làm người
Thì Phật đã diệt độ!
Đáng thương cho chúng con
Nghiệp dầy mà phước mỏng,
Nên xin đem một niệm
Chí thành cầu sám hối.
HÒA: Do tham sân si từ vô thỉ,
Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,
Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
6. XƯỚNG: Đệ tử chúng con từ đời vô thỉ,
Xa rời chân tánh, trôi giạt sông mê,
Xuôi theo sinh tử để nổi chìm,
Đuổi bám sắc thanh mà đắm nhiễm;
Mười triền mười sử, chứa thành hữu lậu nghiệp nhân;
Sáu căn sáu trần, gây nên vô biên tội cấu;
Mê man bể khổ, lún mãi đường tà;
Chấp chặt ngã nhân, bỏ ngay làm quấy;
Bao đời nghiệp chướng, chồng chất lỗi lầm.
Ngưỡng mong trên Tam Bảo từ bi,
Chúng con tâm thành xin sám hối.
HÒA: Do tham sân si từ vô thỉ,
Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,
Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
7. XƯỚNG: Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,
Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không.
Như thế thật là chân sám hối.
HÒA: Do tham sân si từ vô thỉ,
Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,
Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
8. XƯỚNG: Con nguyện tu hành đạo bồ đề,
Dù sinh nơi nào cũng nhớ lại
Thường được xuất gia tu tịnh giới,
Không thiếu, không sót, không hủy phạm.
Hòa: Nay con phát nguyện thọ trì ba
nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ nhất là “nhiếp luật nghi”; con nguyện từ nay cho đến vô tận
đời vị lai: không làm các việc ác. (1 lạy)
nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ nhất là “nhiếp luật nghi”; con nguyện từ nay cho đến vô tận
đời vị lai: không làm các việc ác. (1 lạy)
9. XƯỚNG: Dùng tâm không chấp tướng “ngã”,
không chấp tướng “nhân”, không chấp tướng “chúng sinh”, không chấp tướng “thọ
mạng”, để tu tập tất cả pháp lành, chắc chắn thành tựu quả vị Bồ Đề Vô Thượng.
không chấp tướng “nhân”, không chấp tướng “chúng sinh”, không chấp tướng “thọ
mạng”, để tu tập tất cả pháp lành, chắc chắn thành tựu quả vị Bồ Đề Vô Thượng.
HÒA: Nay con phát nguyện thọ trì ba
nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ hai là “nhiếp thiện pháp”; con nguyện từ nay cho đến vô tận
đời vị lai: luôn tinh tấn làm các việc lành. (1 lạy)
nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ hai là “nhiếp thiện pháp”; con nguyện từ nay cho đến vô tận
đời vị lai: luôn tinh tấn làm các việc lành. (1 lạy)
10. XƯỚNG: Chúng sinh không số lượng, thệ
nguyện đều độ khắp.
nguyện đều độ khắp.
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt
sạch.
sạch.
Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu
học.
học.
Quả Phật không gì hơn, thệ nguyện được viên
thành.
thành.
HÒA: Nay con phát nguyện thọ trì ba
nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ Ba là “nhiêu ích hữu tình”; con nguyện từ nay cho đến vô
tận đời vị lai: cứu độ tất cả chúng sinh. (1 lạy)
nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ Ba là “nhiêu ích hữu tình”; con nguyện từ nay cho đến vô
tận đời vị lai: cứu độ tất cả chúng sinh. (1 lạy)
11. XƯỚNG: Tu tập các pháp lành mà bỏ mất tâm
bồ đề, đó chính là ma nghiệp.
bồ đề, đó chính là ma nghiệp.
HÒA: Nay con phát tâm không vì tự cầu
phước báo nhân thiên, Thanh-văn, Duyên-giác, cho đến các bậc Bồ-tát quyền thừa;
chỉ y theo tối thượng thừa mà phát tâm bồ đề. Nguyện cùng chúng sinh trong khắp
pháp giới, một thời đồng chứng đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. (1 lạy)
phước báo nhân thiên, Thanh-văn, Duyên-giác, cho đến các bậc Bồ-tát quyền thừa;
chỉ y theo tối thượng thừa mà phát tâm bồ đề. Nguyện cùng chúng sinh trong khắp
pháp giới, một thời đồng chứng đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. (1 lạy)
12. XƯỚNG: Cúi đầu dưới đài sen,
Qui y đấng Đại Giác,
Mười hiệu chứng Bồ Đề,
Một vầng trăng tròn đầy.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Thế Tôn với
đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, và Phật. (1 lạy)
đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, và Phật. (1 lạy)
13. XƯỚNG: Phật, chúng sinh tánh thường rỗng
lặng,
lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Đạo tràng của chúng con nơi đây
Giống như lưới ngọc trời Đế Thích,
Chư Phật mười phương đều ảnh hiện,
Thân con ảnh hiện trước chư Phật,
Cúi đầu thành tâm xin đảnh lễ.
HÒA: Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô
lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp
Trang-nghiêm đời quá khứ. (1 lạy)
lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp
Trang-nghiêm đời quá khứ. (1 lạy)
14. XƯỚNG: Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỉ đại xả cứu muôn lòai,
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm,
Chúng con chí thành xin đảnh lễ.
Hòa: Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô
lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp
Hiền đời hiện tại. (1 lạy)
lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp
Hiền đời hiện tại. (1 lạy)
15. XƯỚNG: Xem thế giới như hư không,
Như hoa sen không dính nước,
Tâm thanh tịnh còn hơn thế,
Kính lạy đức Vô Thượng Tôn.
HÒA: Một lòng kính lạy tất cả chư Phật
và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc
kiếp Tinh-tú đời vị lai. (1 lạy)
và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc
kiếp Tinh-tú đời vị lai. (1 lạy)
16. XƯỚNG: Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục
Là pháp tu thứ nhất,
Pháp vô vi tột cùng.
Cho nên người xuất gia
Gây khổ não cho người,
Thì không gọi “sa môn”.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy)
17. XƯỚNG: Ví như người mắt sáng,
Tránh được đường hiểm nguy,
Người có trí trên đời,
Vĩnh viễn không làm ác.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Thi
Khí. (1
lạy)
Khí. (1
lạy)
18. XƯỚNG: Không ghét, không hủy báng,
Thường hành trì giới luật,
Ăn uống nên biết đủ,
Lấy nhàn tịnh làm vui,
Tâm định tĩnh, tinh tấn,
Đó là lời Phật dạy.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Tì Xá
Phù. (1
lạy)
Phù. (1
lạy)
19. XƯỚNG: Như ong hút nhụy hoa,
Chỉ lấy vị bay đi,
Không làm mất sắc hương,
Tì kheo vào làng xóm,
Không bận tâm chuyện người:
Nên làm, không nên làm.
Chỉ xét việc mình làm:
Chính đáng, không chính đáng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Câu Lưu
Tôn. (1
lạy)
Tôn. (1
lạy)
20. XƯỚNG: Tâm ý không buông lung,
Siêng tu học Chánh Pháp,
Trừ bỏ hết ái nhiễm,
Tâm định là niết bàn.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Câu Na Hàm
Mâu Ni. (1
lạy)
Mâu Ni. (1
lạy)
21. XƯỚNG: Không làm các điều ác,
Siêng làm các điều lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Đó là lời Phật dạy.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Ca
Diếp. (1 lạy)
Diếp. (1 lạy)
22. XƯỚNG: Thân không làm điều ác,
Khéo giữ gìn lời nói,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Cả ba nghiệp trong sạch.
Tu tập được như vậy,
Đại Tiên trong lòai người.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni. (1
lạy)
Ca Mâu Ni. (1
lạy)
23. XƯỚNG: Nơi thể tánh chân như,
Pháp hữu vi không thật,
Duyên sinh, nên như huyễn;
Vô vi không sinh diệt,
Cũng không phải thật pháp,
Như hoa đốm hư không.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Tì Lô
Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy)
Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy)
24. XƯỚNG: Mặt Phật như trăng rằm,
Như ánh sáng mặt trời,
Chiếu soi khắp mười phương,
Đủ từ bi hỉ xả.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Lô Giá
Na, Báo Thân viên mãn, cõi Thật-báo trang-nghiêm. (1 lạy)
Na, Báo Thân viên mãn, cõi Thật-báo trang-nghiêm. (1 lạy)
25. XƯỚNG: Tâm Phật khó nghĩ bàn,
Trí và thân cũng vậy,
Vì hóa độ chúng sinh,
Rộng mở các phương tiện.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni, Hóa Thân vô số lượng, cõi Phương-tiện thánh-cư. (1 lạy)
Thích Ca Mâu Ni, Hóa Thân vô số lượng, cõi Phương-tiện thánh-cư. (1 lạy)
26. XƯỚNG: Biết nhân, pháp vô ngã,
Phiền não, sở tri chướng
Thường thanh tịnh vô tướng,
Nên khởi tâm đại bi.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni, tùy lọai ứng thân hóa độ, cõi Phàm-thánh đồng-cư. (1 lạy)
Ca Mâu Ni, tùy lọai ứng thân hóa độ, cõi Phàm-thánh đồng-cư. (1 lạy)
27. XƯỚNG: Khắp trời đất không ai bằng Phật,
Mười phương thế giới cũng không bằng,
Tất cả hiện hữu trong thế gian,
Tất cả đều không sánh bằng Phật.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni, đấng Thế Tôn đại từ bi, đầy đủ muôn công đức, đấng Giáo Chủ
cõi Ta-bà, đang ngồi đạo tràng hóa độ chúng sinh. (1 lạy)
Thích Ca Mâu Ni, đấng Thế Tôn đại từ bi, đầy đủ muôn công đức, đấng Giáo Chủ
cõi Ta-bà, đang ngồi đạo tràng hóa độ chúng sinh. (1 lạy)
28. XƯỚNG: Trăm kiếp tu nhân đã tròn đầy,
Quả ba a-tăng-kì đã mãn,
Trở thành bậc Nhất Sinh Bổ Xứ,
Hiện trú tại cung trời Đâu-suất.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật Di Lặc,
sẽ hạ sinh làm Giáo chủ pháp hội Long-hoa. (1 lạy)
sẽ hạ sinh làm Giáo chủ pháp hội Long-hoa. (1 lạy)
29. XƯỚNG: Thân Phật thanh tịnh như lưu li,
Mặt Phật sáng ngời như trăng rằm,
Phật ở thế gian thường cứu khổ,
Tâm Phật không đâu không từ bi.
HÒA: Một lòng kính lạy Đức Phật Dược Sư
Lưu Li Quang, nơi thế giới Tịnh-lưu-li ở phương Đông, gia hộ chúng sinh tiêu
trừ tai nạn, thọ mạng lâu dài. (1 lạy)
Lưu Li Quang, nơi thế giới Tịnh-lưu-li ở phương Đông, gia hộ chúng sinh tiêu
trừ tai nạn, thọ mạng lâu dài. (1 lạy)
30. XƯỚNG: Không có gì gọi là niết bàn.
Không hề có niết bàn Phật chứng,
Cũng không có Phật chứng niết bàn.
Xa lìa cả năng giác, sở giác,
Dứt bặt hai ý niệm có, không.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đa Bảo Như
Lai, thành Phật từ thời quá khứ xa xôi. (1 lạy)
Lai, thành Phật từ thời quá khứ xa xôi. (1 lạy)
31. XƯỚNG: Trong cảnh giới tĩnh lặng,
Ý niệm “sinh” không còn,
Không có gì dính bám,
Không đời này, đời sau.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Bảo Thắng Như
Lai. (1
lạy)
Lai. (1
lạy)
32. XƯỚNG: Sắc thân Phật nhiệm mầu,
Thế gian không sánh bằng,
Không đủ lời xưng tán,
Cho nên con đảnh lễ.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Diệu Sắc
Thân Như Lai. (1 lạy)
Thân Như Lai. (1 lạy)
33. XƯỚNG: Năm uẩn đều không, dứt nghiệp trần,
Tùy duyên ứng hiện trăm ngàn thân.
Trong mộng thấy mộng, chồng chất mộng,
Ngòai thân không thân, chính thật thân.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Quảng Bác
Thân Như Lai. (1 lạy)
Thân Như Lai. (1 lạy)
34. XƯỚNG: Sắc tướng màu hòang kim,
Tròn đầy như trăng rằm,
Bậc chí tôn ba cõi,
Hàng phục mọi ma chướng,
Trời người đều qui y.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Li Bố Úy Như
Lai. (1
lạy)
Lai. (1
lạy)
35. XƯỚNG: Tín là mẹ công đức,
Nuôi lớn các căn lành,
Thóat khỏi dòng sinh tử,
Chứng nhập đại niết bàn.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Cam Lồ Vương
Như Lai. (1
lạy)
Như Lai. (1
lạy)
36. XƯỚNG: Cúi đầu kính lạy
Đấng Đại Đạo Sư,
Ở cõi Cực-lạc,
Tiếp dẫn chúng sinh.
Con nay nhất tâm
Phát nguyện vãng sinh.
Xin đức Từ Bi
Xót thương tiếp độ.
HÒA: Một lòng kính lạy đức A Di Đà Như
Lai. (1
lạy)
Lai. (1
lạy)
37. XƯỚNG: Phật A Di Đà thân sắc vàng,
Tướng tốt chói sáng không ai bằng,
Lông trắng giữa chặng mày mềm mại,
Uốn lượn dài hơn năm Tu-di,
Mắt xanh biếc trong ngần bốn biển.
Trong hào quang vô số Hóa Phật,
Hóa Bồ Tát cũng nhiều vô biên.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,
Chín phẩm hoa sen lên bờ giải thoát.
Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các
đường ác.
đường ác.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
38. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác.
cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
39. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng
sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng.
sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
40. XƯỚNG: Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của
chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau.
chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
41. XƯỚNG: Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ.
cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
42. XƯỚNG: Đại nguyện thứ sáu: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc đều có thiên nhãn thông, thấy suốt vô lượng Phật độ khắp mười
phương.
cõi Cực-lạc đều có thiên nhãn thông, thấy suốt vô lượng Phật độ khắp mười
phương.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
43. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bảy: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc đều có thiên nhĩ thông, nghe được pháp âm của chư Phật khắp mười
phương.
cõi Cực-lạc đều có thiên nhĩ thông, nghe được pháp âm của chư Phật khắp mười
phương.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
44. XƯỚNG: Đại nguyện thứ tám: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc đều có tha tâm thông, biết được tâm niệm của khắp cả chúng sinh.
cõi Cực-lạc đều có tha tâm thông, biết được tâm niệm của khắp cả chúng sinh.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
45. XƯỚNG: Đại nguyện thứ chín: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc đều có thần túc thông, có thể đi đến khắp các Phật độ trong mười
phương một cách vô ngại.
cõi Cực-lạc đều có thần túc thông, có thể đi đến khắp các Phật độ trong mười
phương một cách vô ngại.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
46. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười: Chúng sinh ở
cõi Cực-lạc không còn khởi niệm tham ái đối với thân sau.
cõi Cực-lạc không còn khởi niệm tham ái đối với thân sau.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
47. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười một: Chúng
sinh ở cõi Cực-lạc thường xuyên sống trong chánh định, cho đến khi chứng quả
tịch diệt.
sinh ở cõi Cực-lạc thường xuyên sống trong chánh định, cho đến khi chứng quả
tịch diệt.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
48. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười hai: Ánh sáng
của Phật A Di Đà sáng soi vô lượng, chiếu khắp mười phương Phật độ không bị
chướng ngại.
của Phật A Di Đà sáng soi vô lượng, chiếu khắp mười phương Phật độ không bị
chướng ngại.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
49. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười ba: Thọ mạng
của đức Phật A Di Đà dài lâu vô lượng, làm lợi ích cho chúng sinh vô tận.
của đức Phật A Di Đà dài lâu vô lượng, làm lợi ích cho chúng sinh vô tận.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
50. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười bốn: Chúng
Thanh-văn ở cõi Cực-lạc nhiều vô số.
Thanh-văn ở cõi Cực-lạc nhiều vô số.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
51. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng
của chúng sinh ở cõi Cực-lạc, ngọai trừ nguyện lực riêng, đều dài lâu vô lượng.
của chúng sinh ở cõi Cực-lạc, ngọai trừ nguyện lực riêng, đều dài lâu vô lượng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
52. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười sáu: Chúng
sinh ở cõi Cực-lạc không nghe một lời bất thiện.
sinh ở cõi Cực-lạc không nghe một lời bất thiện.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
53. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười bảy: Chư Phật
khắp mười phương đều xưng tán danh hiệu “A Di Đà”.
khắp mười phương đều xưng tán danh hiệu “A Di Đà”.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
54. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười tám: Tất cả
chúng sinh trong mười phương, hết lòng tin tưởng, muốn vãng sinh về cõi
Cực-lạc, chí thành niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng
sinh.
chúng sinh trong mười phương, hết lòng tin tưởng, muốn vãng sinh về cõi
Cực-lạc, chí thành niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng
sinh.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
55. XƯỚNG: Đại nguyện thứ mười chín: Chúng
sinh trong mười phương phát tâm bồ đề, tu các công đức, thành tâm phát nguyện
vãng sinh về cõi Cực-lạc, đến phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng
sẽ hiện ngay trước mặt để tiếp dẫn.
sinh trong mười phương phát tâm bồ đề, tu các công đức, thành tâm phát nguyện
vãng sinh về cõi Cực-lạc, đến phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng
sẽ hiện ngay trước mặt để tiếp dẫn.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
56. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi: Chúng
sinh trong mười phương nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, nghĩ nhớ đến Ngài, chí
thành đem mọi công đức hồi hướng nguyện sinh về cõi Cực-lạc, chắc chắn sẽ được
tọai nguyện.
sinh trong mười phương nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, nghĩ nhớ đến Ngài, chí
thành đem mọi công đức hồi hướng nguyện sinh về cõi Cực-lạc, chắc chắn sẽ được
tọai nguyện.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
57. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Chúng
sinh ở cõi Cực-lạc đều đầy đủ 32 tướng tốt.
sinh ở cõi Cực-lạc đều đầy đủ 32 tướng tốt.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
58. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi hai: Chư
vị Bồ-tát ở khắp các quốc độ trong mười phương, sau khi sinh về cõi Cực-lạc,
ngọai trừ có bản nguyện giáo hóa riêng, tất cả đều đạt đến địa vị “Nhất sinh bổ
xứ”.
vị Bồ-tát ở khắp các quốc độ trong mười phương, sau khi sinh về cõi Cực-lạc,
ngọai trừ có bản nguyện giáo hóa riêng, tất cả đều đạt đến địa vị “Nhất sinh bổ
xứ”.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
59. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi ba: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều nương Phật lực, chỉ trong
khoảng bữa ăn có thể đến cúng dường chư Phật ở các Phật độ trong khắp mười
phương.
khoảng bữa ăn có thể đến cúng dường chư Phật ở các Phật độ trong khắp mười
phương.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
60. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, trong khi cúng dường chư Phật,
muốn có bao nhiêu vật phẩm để cúng dường cũng đều có đầy đủ như ý.
muốn có bao nhiêu vật phẩm để cúng dường cũng đều có đầy đủ như ý.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
61. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có khả năng diễn nói nhất
thiết trí.
thiết trí.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
62. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có thân cứng chắc như kim
cương, mạnh mẽ như thần Na La Diên.
cương, mạnh mẽ như thần Na La Diên.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
63. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Tất
cả chúng sinh và vạn vật ở cõi Cực-lạc đều nghiêm tịnh vi diệu, hình sắc đặc
thù, dù người có thiên nhãn thông cũng không biết rõ ràng danh số.
cả chúng sinh và vạn vật ở cõi Cực-lạc đều nghiêm tịnh vi diệu, hình sắc đặc
thù, dù người có thiên nhãn thông cũng không biết rõ ràng danh số.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
64. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi tám: Chư vị Bồ-tát cho đến những người chỉ có chút ít công đức
ở cõi Cực-lạc đều có khả năng thấy biết sự cao rộng và sắc sáng vô lượng của
cây đạo tràng.
ở cõi Cực-lạc đều có khả năng thấy biết sự cao rộng và sắc sáng vô lượng của
cây đạo tràng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
65. XƯỚNG: Đại nguyện thứ hai mươi chín: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều thọ trì phúng tụng kinh
pháp mà được trí tuệ biện tài.
pháp mà được trí tuệ biện tài.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
66. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có trí tuệ biện tài vô
hạn lượng.
hạn lượng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
67. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Đất
đai ở cõi Cực-lạc trong sạch như gương, có thể soi thấy các Phật độ ở mười
phương.
đai ở cõi Cực-lạc trong sạch như gương, có thể soi thấy các Phật độ ở mười
phương.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
68. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi hai: Vạn
vật ở cõi Cực-lạc đều do vô lượng châu báu và trăm ngàn thứ mùi hương vi diệu
làm thành, khiến cho người nghe mùi hương đều tu Phật hạnh.
vật ở cõi Cực-lạc đều do vô lượng châu báu và trăm ngàn thứ mùi hương vi diệu
làm thành, khiến cho người nghe mùi hương đều tu Phật hạnh.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
69. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi ba: Ánh
sáng của đức Phật A Di Đà chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương, các
chúng sinh chạm được ánh sáng ấy đều cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc.
sáng của đức Phật A Di Đà chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương, các
chúng sinh chạm được ánh sáng ấy đều cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
70. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Chúng
sinh khắp thế giới mười phương nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà đều chứng
được vô sinh pháp nhẫn và các pháp môn tổng trì sâu xa.
sinh khắp thế giới mười phương nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà đều chứng
được vô sinh pháp nhẫn và các pháp môn tổng trì sâu xa.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
71. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Những
người nữ trong mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà liền
phát tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa.
người nữ trong mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà liền
phát tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
72. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Chư Bồ-tát ở mười phương thế giới, nghe được danh hiệu
đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ luôn tu phạm hạnh cho đến khi thành
Phật.
đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ luôn tu phạm hạnh cho đến khi thành
Phật.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
73. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Hàng
trời người trong khắp mười phương thế giới, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di
Đà, liền vui mừng tin tưởng, kính lễ và tu tập hạnh Bồ-tát, thì sẽ được tất cả
trời người kính trọng.
trời người trong khắp mười phương thế giới, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di
Đà, liền vui mừng tin tưởng, kính lễ và tu tập hạnh Bồ-tát, thì sẽ được tất cả
trời người kính trọng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
74. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi tám: Chúng
sinh ở cõi Cực-lạc muốn có y phục, ẩm thực, thì liền có như ý.
sinh ở cõi Cực-lạc muốn có y phục, ẩm thực, thì liền có như ý.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
75. XƯỚNG: Đại nguyện thứ ba mươi chín: Chúng
sinh ở cõi Cực-lạc đều hưởng được niềm vui giống như các vị tì kheo đã hoàn
toàn dứt trừ hết lậu hoặc.
sinh ở cõi Cực-lạc đều hưởng được niềm vui giống như các vị tì kheo đã hoàn
toàn dứt trừ hết lậu hoặc.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
76. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, nếu muốn thấy vô lượng Phật
độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ
ràng như thấy mặt mình trong gương.
độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ
ràng như thấy mặt mình trong gương.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
77. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Chư
vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật
A Di Đà, thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật.
vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật
A Di Đà, thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
78. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Chư
vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật
A Di Đà, liền được an trú nơi chánh định thanh tịnh giải thoát, trong khoảng
một niệm có thể cúng dường vô lượng chư Phật mà không bị mất chánh định.
vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật
A Di Đà, liền được an trú nơi chánh định thanh tịnh giải thoát, trong khoảng
một niệm có thể cúng dường vô lượng chư Phật mà không bị mất chánh định.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
79. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi
nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ được sinh vào gia đình
tôn quí.
nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ được sinh vào gia đình
tôn quí.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
80. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe
được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền hoan hỉ tu hạnh Bồ-tát, cội gốc công đức
đầy đủ.
được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền hoan hỉ tu hạnh Bồ-tát, cội gốc công đức
đầy đủ.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
81. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe
được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú trong định “phổ đẳng” (thường
thấy chư Phật đồng hiện tiền), cho đến khi thành Phật.
được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú trong định “phổ đẳng” (thường
thấy chư Phật đồng hiện tiền), cho đến khi thành Phật.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
82. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều tùy nguyện mà nghe pháp
một cách tự tại.
một cách tự tại.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
83. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe
danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền tiến đến bậc bất thối chuyển.
danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền tiến đến bậc bất thối chuyển.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
84. XƯỚNG: Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Chư
vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà,
liền chứng được đệ nhất, đệ nhị và đệ tam pháp nhẫn, cùng các pháp bất thối
chuyển.
vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà,
liền chứng được đệ nhất, đệ nhị và đệ tam pháp nhẫn, cùng các pháp bất thối
chuyển.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại
từ đại bi. (1
lạy)
từ đại bi. (1
lạy)
85. XƯỚNG: Nếu ai muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời,
Nên quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. (1 lạy)
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. (1 lạy)
86. XƯỚNG: Mọi pháp hữu vi trong thế gian
Như chiêm bao, huyễn hóa, bọt nước,
Bóng trong gương, điện chớp, sương mai.
Thời thời nên quán chiếu như thế.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. (1 lạy)
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. (1 lạy)
87. XƯỚNG: Phật là đấng phước trí tròn đầy
Thấy rõ các pháp không tự tánh
Hạt giống Phật tùy duyên hiện khởi
Cho nên nói giáo pháp Nhất Thừa.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. (1 lạy)
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. (1 lạy)
88. XƯỚNG: Các pháp hữu vi là vô thường,
Là các pháp có sinh có diệt,
Khi sự sinh diệt đã tiêu trừ,
Cảnh tịch diệt niết bàn hiện tiền.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Niết Bàn. (1
lạy)
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Niết Bàn. (1
lạy)
89. XƯỚNG: Pháp Phật thật cao sâu mầu nhiệm,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp,
Nay con được thấy, nghe, thọ trì,
Nguyện hiểu rõ chân ý của Phật.
HÒA: Một lòng kính lạy Pháp Bảo khắp
pháp giới, hiển bày đủ bốn khoa giáo lí hạnh quả, thể hiện qua mười hai phần
giáo, gồm thâu trong ba tạng Kinh Luật Luận, thuộc cả đại thừa và tiểu thừa. (1 lạy)
pháp giới, hiển bày đủ bốn khoa giáo lí hạnh quả, thể hiện qua mười hai phần
giáo, gồm thâu trong ba tạng Kinh Luật Luận, thuộc cả đại thừa và tiểu thừa. (1 lạy)
90. XƯỚNG: Dung thông hai đế chân và tục,
Dứt hai chướng phiền não, sở tri,
Đọan trừ hai chấp ngã và pháp,
Chứng nhập vào cảnh giới “bất nhị”.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (1 lạy)
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (1 lạy)
91. XƯỚNG: Trên lí lẽ chân thật,
Một hạt bụi không dính,
Trong phương tiện độ sinh,
Không bỏ pháp môn nào.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại
Hạnh Phổ Hiền. (1 lạy)
Hạnh Phổ Hiền. (1 lạy)
92. XƯỚNG: Thần lực Quán Thế Âm,
Không có gì sánh được,
Vô lượng kiếp huân tu ,
Cực trang nghiêm thanh tịnh.
Ngàn nơi tiếng kêu cầu,
Ngàn nơi Ngài ứng hiện.
Nơi biển khổ mênh mông,
Thường hiện thân cứu khổ.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Đại Bi Quán Thế Âm. (1 lạy)
Đại Bi Quán Thế Âm. (1 lạy)
93. XƯỚNG: Tánh hư không có thể tiêu vong,
Tâm kiên cố không hề lay động.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Đại Lực Đại Thế Chí. (1 lạy)
Đại Lực Đại Thế Chí. (1 lạy)
94. XƯỚNG: Chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề,
Địa ngục chưa trống thề không thành Phật.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (1 lạy)
Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (1 lạy)
95. XƯỚNG: Siêng tu đại tinh tấn,
Đốt bỏ xác thân này,
Đem cúng dường Thế Tôn,
Cầu tuệ giác vô thượng.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Dược Vương. (1
lạy)
Dược Vương. (1
lạy)
96. XƯỚNG: Thiện hữu tri thức
Là nhân duyên lớn,
Giúp cho hành giả
Mau lìa sinh tử.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Dược Thượng. (1
lạy)
Dược Thượng. (1
lạy)
97. XƯỚNG: Đối thế nhân, xin khởi từ tâm.
Ngày đêm an trú nơi Chánh pháp.
Nguyện cho thế giới luôn an ổn,
Phước trí vô biên lợi quần sinh,
Bao nhiêu tội nghiệp đều tiêu trừ,
Dứt hết khổ, về nơi viên tịch.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Nhật Quang Biến Chiếu. (1 lạy)
Nhật Quang Biến Chiếu. (1 lạy)
98. XƯỚNG: Hoa Tuệ-giác khắp chốn trang
nghiêm.
nghiêm.
Tùy trụ xứ thời thời an lạc.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Nguyệt Quang Biến Chiếu. (1 lạy)
Nguyệt Quang Biến Chiếu. (1 lạy)
99. XƯỚNG: Cúi đầu qui y phép Tô-tất-đế,
Thành tâm đảnh lễ đấng Thất Câu Chi,
Con nay xưng tán đức Đại Chuẩn Đề,
Xin nguyện từ bi thường gia hộ.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát
Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương. (1 lạy)
Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương. (1 lạy)
100.XƯỚNG: Kính lạy đức đại bi Quán Âm,
Nguyện lực rộng sâu, thân tốt đẹp,
Ngàn tay trang nghiêm khắp hộ trì,
Ngàn mắt sáng ngời nhìn thế gian,
Trong chân thật nói lời bí mật,
Từ vô vi khởi tâm đại bi,
Đáp ứng đầy đủ mọi kêu cầu,
Gia hộ diệt trừ các tội chướng.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. (1 lạy)
Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. (1 lạy)
101.XƯỚNG: Bồ-tát như vầng trăng trong mát,
Dạo chơi trong không gian mênh mông,
Chúng sinh sạch cấu tâm thanh tịnh,
Tuệ giác vô thượng liền hiển bày.
HÒA: Một lòng kính lạy chư vị Đại Bồ
Tát khắp pháp giới thanh tịnh rộng lớn như biển cả. (1 lạy)
Tát khắp pháp giới thanh tịnh rộng lớn như biển cả. (1 lạy)
102.XƯỚNG: Vạn hữu ở thế gian
Như hoa đốm hư không,
Không hề có sinh, diệt.
Trong trí tuệ chân thật
Không có hữu và vô.
Với trí tuệ như thế
Mà phát tâm đại bi.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh
Hiền trên pháp hội Linh-sơn. (1 lạy)
Hiền trên pháp hội Linh-sơn. (1 lạy)
103.XƯỚNG: Thần lực không lường,
Mật hạnh khó suy,
Uy dũng hơn trời rồng, phá tà hiển chánh,
Vâng phó chúc của Phật, hộ pháp an tăng.
Ngưỡng mong khởi thần thông,
Rủ lòng xin chứng giám.
Kính lạy đức Bồ Tát Hộ Pháp Vi Đà cảm ứng
khắp ba châu; Bồ Tát giám trai sứ giả Khẩn Na La; chư vị Thiện Thần bảo hộ giáo
pháp và giới luật nơi các chốn già lam; tám bộ chúng trời rồng; cùng tất cả các
vị thiện thần gần xa bổn tự.
khắp ba châu; Bồ Tát giám trai sứ giả Khẩn Na La; chư vị Thiện Thần bảo hộ giáo
pháp và giới luật nơi các chốn già lam; tám bộ chúng trời rồng; cùng tất cả các
vị thiện thần gần xa bổn tự.
Cúi xin các ngài, không quên lời thề nguyện
của chính mình, thương xót chốn phàm trần, phóng ánh sáng uy nghiêm thầm gia
hộ, khiến cho những nơi chánh pháp đang lưu truyền, nội ngọai chướng đều tiêu
trừ, chúng tăng hòa hợp, bạn ác ma mị vĩnh viễn tránh xa. Người người ngộ biển
tánh Tì Lô, nơi nơi nhập hạnh nguyện Phổ Hiền. Cầu cho đàn na tín thí đều thấm
nhuần lợi lạc.
của chính mình, thương xót chốn phàm trần, phóng ánh sáng uy nghiêm thầm gia
hộ, khiến cho những nơi chánh pháp đang lưu truyền, nội ngọai chướng đều tiêu
trừ, chúng tăng hòa hợp, bạn ác ma mị vĩnh viễn tránh xa. Người người ngộ biển
tánh Tì Lô, nơi nơi nhập hạnh nguyện Phổ Hiền. Cầu cho đàn na tín thí đều thấm
nhuần lợi lạc.
HÒA: Một lòng kính lạy đức Bồ Tát Hộ
Pháp Vi Đà. (1
lạy)
Pháp Vi Đà. (1
lạy)
104.XƯỚNG: Kiều Phạm Ba Đề cúi đầu lạy
Thánh Chúng thanh tịnh đại đức Tăng.
Voi chúa đi rồi, voi con theo,
Đèn trước tắt, đèn sau tiếp nối.
HÒA: Một lòng kính lạy liệt vị Pháp Sư
qua các thời đại, từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông, đã từng kết tập, phiên
dịch, chú thích, giảng giải Ba Tạng giáo điển. (1 lạy)
qua các thời đại, từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông, đã từng kết tập, phiên
dịch, chú thích, giảng giải Ba Tạng giáo điển. (1 lạy)
105.XƯỚNG: Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng không đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi trần?
HÒA: Một lòng kính lạy liệt vị Tổ Sư
trải qua các thời đại, từ Tây-trúc đến Việt-nam, đã từng du hóa khắp nơi để
truyền giáo và khai sơn phạm vũ. (1 lạy)
trải qua các thời đại, từ Tây-trúc đến Việt-nam, đã từng du hóa khắp nơi để
truyền giáo và khai sơn phạm vũ. (1 lạy)
106.XƯỚNG: Thân là cây bồ đề,
Tâm như đài hương sáng,
Nên thường xuyên lau chùi,
Đừng để dính bụi trần.
HÒA: Một lòng kính lạy chư vị phàm
thánh đại đức Tăng-già khắp ba đời mười phương. (1 lạy)
thánh đại đức Tăng-già khắp ba đời mười phương. (1 lạy)
107.XƯỚNG: Phàm là người xuất gia,
Lập chí thóat ba cõi,
Thân tâm đều khác tục,
Nối thạnh dòng giống Phật,
Nhiếp phục mọi chướng ma,
Báo đền bốn ơn nặng,
Độ chúng sinh ba cõi.
Nếu không được như thế,
Chỉ là giả làm Tăng.
HÒA: Thay vì Bốn Ơn Nặng, kính lạy Ba
Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)
Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)
108.XƯỚNG: Công đức lạy Phật rất thù thắng.
Bao nhiêu phước đức xin hồi hướng,
Nguyện cho chúng sinh khắp pháp giới,
Vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang.
HÒA: Thay vì ơn Chúng Sinh trong khắp pháp
giới, kính lạy Ba Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)
giới, kính lạy Ba Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)
PHẦN BA
HỒI
HƯỚNG (tùy nghi)
HƯỚNG (tùy nghi)