DÒNG SỮA MẸ, VÀ BI ÂN CỦA MẸ
Đặng Hữu Phúc
Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng xem tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây sẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
Mặt trời hồng như trăng
Thức lòng ta buổi sớm
Gió núi thổi rộn ràng
Gọi nghe biển dậy sóng
Chống cuốc đứng vững chân
Trên mảnh đất khốn khổ
Thở hít đến vô cùng
Mãi mê ngắm hồng rợ
Vang vang trời vào xuân
Ta bật kêu mừng rỡ
Ơi bè bạn xa xăm
Tim ta cũng cháy đỏ
Rực tựa bóng trăng rằm
32. Thơ tặng bạn đi cày
Người tù như đất tảng trì độn, hít hơi
Mắt đờ đẫn vô giác thiếu ngủ
Đêm qua trời trở rét khô sau những ngày nắng dữ
Đất hóa thạch cứng đày ải người
Người nghe tiếng thở phì phò của trâu
Tiếng tim dội ù tai, ngực nhói
Con vật đói và người cũng đói
Bước mộng du theo nắng lao đao
Hồi hôm trăng lạnh ngời thanh vắng
Đêm nay, và bao đêm nữa, người tù cũng sẽ thức trắng
Chong mắt dòm đêm rõi lối trăng muộn về
Bất thần ánh sáng tỏ lộ tịch mịch dội vang trầm thống
Bừng thoát cơn bải hoải người thúc lưỡi cầy bước mau
Thở dồn hương loãng nhạt của đồng ruộng nhẫn nhục
– Luống cuối cùng, thật ngay. Luống tặng lời chính trực.
Soi bóng mắt nghênh, đen ướt màu bùn, hiền giả, người vỗ về trâu
Trên những cánh đồng đất khốn dạn dầy
Suốt mùa đông ác nghiệt bạo ngược
Trời đất tối tăm giá buốt địa cực
Vẫn lãng du kỳ ảo lời gió khuất mặt đêm trăng xanh bóng tù khổ sai và trâu cày.
***
1. TỪ NHỮNG Ý THƠ THẤP THOÁNG
Lững thững tôi về. Con gái tôi đón đợi ở cửa. Nó mặc áo bà ba trắng giống mẹ nó hồi xưa. Tươi cười đỡ chiếc cuốc trên vai tôi, lượm cọng rơm khô vướng trên nón, nó hỏi:
Chiều nay bố làm được những gì?
Hả? Bố làm được những gì? Để xem nào…
Tôi ra bộ nhíu mày.
Trước tiên bố rãy cỏ đồi sắn. Nắng chang chang đốt gáy và lưng bố, làm mắt bố quáng. Không sao. Hồi sau gió quạt dịu nắng. Bố nghe gió nhẹ hắt bên tai, quanh vành nón đội. Thoạt đầu bố tưởng nghe tiếng huýt gió miệng của con thường khi làm bếp. Bố sực nhớ ra tiếng gió vẫn lẩn quẩn đâu đây từ mùa đông qua. Bố lột nón cầm ở tay, ngó kiếm. Bố không thấy gì cũng không nghe gì nữa. Cái nón cứng ròn như bánh tráng nướng. Bố ngó lui những đống cỏ rẫy vun phía sau đã khô quắt xẹp lép. Thế là bố chống cuốc đứng nghỉ trong dáng một ông thi sĩ đứng giữa ruộng của ông bố đã được trông thấy hồi chưa có con. Ai vậy cà? Bố tự hỏi. Bố chịu thua sau khi đã loay hoay lục tung trí nhớ hết cả buổi. Rốt cuộc bố đã chẳng làm gì cả.
Ông thi sĩ? Con gái tôi hỏi: Ông thi sĩ làm gì bố? Ông ta ở đâu?
Con ngốc. Đừng hỏi. Đừng có ngắt lời. Ông thi sĩ làm gì? Làm gì nào? Ông ta chẳng làm gì cả, ông ta là thi sĩ. Ông ta ở đâu? Ở đâu xa. Không ai biết, bố cũng không biết. Không quan trọng.
Khi bố thả bước xuống đồi, đến gặp những đám gió, bố nhớ thấy bàn chân con không mang dép, tới lui trong nhà, bố nhớ chựng hôm qua là sinh nhật của con. Bố khựng mình, lầm bầm: Làm gì bây giờ? Tôi phải làm gì bây giờ đây? Tôi thật đáng bị nguyền rủa.
Không quan trọng. Con tôi nhái giọng tôi, nghiêm nghị. Có gì đâu bố. Đó toàn là sự thật. Con có huýt gió gọi bố ở nhà khi con nhớ bố đã nhiều. Con có tụt dép, giẫm đất, nhảy chân sáo. Con cũng quên lửng hôm qua là sinh nhật con nên con đã không nhắc bố.
Trong các điều bố kể chỉ có ông thi sĩ là con không biết có thật hay không. Còn tất cả là thật, sự thật.
Ha, ha. Tôi bật cười to. Bố mày, con ngốc. Lắm mồm miệng. Sự thật. Bố đã nhằn cắn rất nhiều sự thật, nên răng mới mẻ gẫy long lơ đây, như kẻ đói khát khốn nạn vồ chụp ngấu nghiến những mẩu sắn hư thối sót trên đồng. Sự thật như rắn rết, chuột bọ, như rau cỏ, trái quả được ăn nuốt vội vàng bất chấp mọi phép tắc. Bố đã nhai nghiền, trệu trạo đau nhức mọi sự thật bắt gặp. Ha, cô mình ơi, ở đời có đủ thứ sự thật cũng như có đủ thứ hạnh phúc, cô hiểu không? Ông thi sĩ ở đâu xa… Mà thôi bỏ mấy chuyện ấy đi. Cũng không quan trọng.
Bố xuống suối tắm. Nước đầy, chảy đục. Mưa lớn trên nguồn đêm qua, hẳn vậy. Tắm xong bố ngồi tựa gốc cây, ngắm chiều đi sang bên kia núi. Bố thấy bố đã ở phía bên ấy. Trong đầu bố lặp đi lặp lại một câu nói của con ngày hôm qua, ngày hôm kia, (hay bữa nay, hay chỉ do bố bày đặt ngay lúc ấy). Thục cà lùi. Thục cà lùi. Thục cà lùi… Bố lại lầm bầm: Làm gì bây giờ? Tôi phải làm gì bây giờ đây? Tôi thật đáng nguyền rủa…
Nào có gì đâu bố. Sao bố lại khóc?
Bố mày. Tôi cười chảy nước mắt. Con ngốc. Bố mày chảy nước mắt thật ư? Hồi nào?
Thật chứ. Sự thật bố à.
Nó cười ròn tan, trong trẻo. Bàn tay chai dạn của tôi được nắm chặt, dắt đưa. Tôi thấy mình đứng giữa nhà. Chiếc áo cứng ngắc, loang lổ mồ hôi, được cởi. Một chiếc áo mới nguyên vải sù sì quyện mùi nắng được mặc vào.
Tôi được ẩn ngồi trên chiếc ghế đẩu, được ngắm nghía.
Chiều xẩm. Nhập nhoạng bóng mờ trong nhà. Mắt tôi như còn vướng quáng lóa ban trưa. Con gái tôi bỗng hiện loanh quanh như vệt sáng đi động trên nền vách đất đang tỏa mát.
Tẩu thuốc ngậm trễ bên mép, cắn giữ bằng mấy cái răng chưa đến nỗi, được bật quẹt châm. Tiếng ho sặc rũ rượi. Chiếc tẩu đã cháy được trả lại cho cái miệng móm.
Tôi hít dài, thổi phù khói vào con gái tôi. Khói loang trắng um, mùi khét cháy quen thuộc. Không trông thấy nó đâu nữa, tôi nói:
Con gái yêu của bố, hai mươi năm nữa…
Tôi ngưng ngang, lẩm bẩm:
Ha, những tình điên… Quả thật đáng nguyền rủa, phỉ nhổ.
(Lào Cai 5/78)
Ghi chú:
- Cọng rơm vướng trên nón: thơ St. J. Perse
- Ông thi sĩ chống cuốc: R. Char.
- Rồi hai mươi năm nữa…
- Ở đâu xa
Cũng người một hội một thuyền đâu xa. (Nguyễn Du)

Hãy tự suy-nghĩ: khi sắp sinh-sản, mẹ âm-thầm chịu đựng mọi khổ, ngày đêm sầu-não.
Nhưng, đến lúc lâm-bồn, sự đau-khổ ấy quá đỗi, như trăm nghìn mũi nhọn bâu vào cắt xé, thực không thể nào kể xiết được, có khi đến chết.
Sinh nở rồi, mẹ không còn bị khổ-não gì nữa, lúc đó họ hàng thân-thích vui mừng vô tận, cũng như người đàn bà nghèo được ngọc Như-ý.
Khi đứa con cất tiếng khóc chào đời, mẹ như là người nghe được âm-nhạc.
Mẹ dùng ngực mẹ làm nơi ngủ-nghỉ của con và trên hai đầu gối mẹ, thường thường là nơi chơi giỡn của con.
Trong nơi ngực mẹ tuôn ra những dòng sữa như nước suối cam-lộ để nuôi lớn con.
Ơn nuôi lớn ấy nhiều hơn trời đất và đức thương-xót ấy rộng lớn không gì sánh được.
“Thế-gian, núi non là cao, ơn bi-mẫu còn cao hơn thế – cao hơn cả núi Tu-di. Thế-gian cõi đất là nặng, ơn bi-mẫu còn nặng hơn thế!”
Do nhân-duyên ấy, mẹ có mười đức:
Một là, như đại-địa: vì trong thai mẹ là chỗ nương-tựa của con.
Hai là, năng-sinh: mẹ phải trải qua mọi sự khổ-não mới sinh được con.
Ba là, năng-chính: thường do tay mẹ ve-vuốt, uốn-nắn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân con.
Bốn là, dưỡng-dục: mẹ phải theo hợp bốn mùa mà nuôi-nấng con khôn lớn.
Năm là, trí-giả: mẹ thường dùng phương-tiện, làm cho con sinh trí-tuệ.
Sáu là, trang-nghiêm: mẹ lấy những chuỗi ngọc đẹp trang-sức cho con.
Bảy là, an-ẩn: mẹ ôm-ấp con, làm cho con nghỉ-ngơi an-lành.
Tám là, giáo-thụ: mẹ dùng phương-tiện khéo dắt-dẫn con.
Chín là, giáo-giới: mẹ dùng lời nói lành để con xa-lìa những điều ác.
Mười là, cho gia-nghiệp: mẹ thường đem gia-nghiệp giao lại cho con.
Thiện-nam-tử! “Ở thế-gian này gì là rất giàu? gì là rất nghèo?
Bi-mẫu tại đường, là giàu; bi-mẫu bất-tại là nghèo; bi-mẫu còn sống là mặt trời giữa trưa, bi-mẫu mất đi là mặt trời đã lặn; bi-mẫu còn sống là mặt trăng sáng, bi-mẫu mất đi là đêm tối!
Thế nên, các ông nên siêng-năng tu-tập về sự hiếu-dưỡng phụ-mẫu thêm, thời như người cúng Phật, phúc-báo ấy và phúc-báo này bằng nhau không khác!
Các ông nên báo ơn phụ-mẫu như thế!”
Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi nhẹ hạt, mưa phơi phới
Chiều đang tàn hiu quạnh rừng sâu
Ngửa duỗi chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng thi thể đang thối rữa
Hồn viển vông chẳng chút oán sầu
Mưa tung tấm lưới trắng dầy khít
Làng xóm dưới núi ở phương nào?
Gió rét tái tê bó liệm chặt
Thiếp lịm hồn quên bẵng sước đau
Dầm mình trong hạnh ngộ ẩn mật
Hoen nhòa mắt hứng giọt thiên thâu
Dò bước lối mờ nhắm ánh đuốc
Tiếng người lùng kiếm gọi dưới sâu
Bản dịch của Đoàn Châu, xuất hiện khoảng 1956-1958, nhưng không dịch lá thư William Saroyan viết gửi Mẹ, có ở trang đầu bản Anh.
William Saroyan là một nhà văn Mĩ gốc Armenia. Armenia bị Thổ Nhĩ Kì xâm chiếm vào thời Đệ nhất thế chiến, nên nhiều người Armenia lưu vong ở Hoa Kì (Trước 1911, chỉ đi tàu thủy tới New York , là được vào Mĩ sống, không cần giấy nhập cảnh).
Truyện viết về Homer, một chú bé 14 tuổi, chuyên đi giao điện tín từ một trạm bưu điện tới các nhà ở Ithaca, một địa phương nhỏ của California. Các điện tín vào thời chiến, có khi là yêu thương, có khi là điện tín báo tử của Bộ Chiến Tranh, được chú bé giao đến nhà người nhận vào lúc cả nhà đang có party.
Đã đọc truyện này năm khoảng 12 tuổi — bản dịch Giòng Đời, do Đoàn Châu dịch (không dịch lá thư này). Đến khi khoảng 20 tuổi, mới biết đến bản dịch lá thư này, ở trang mở đầu bản dịch Kịch Đời, do Đặng Tâm dịch.
Nay ghi lại kỷ niệm để cùng nhớ đến thời niên thiếu và thanh niên sống vui vẻ thương yêu trong văn hoá tự do của miền Nam, và gửi đến T.P và các bạn một bản dịch mới, có nguyên bản Anh ngữ đi theo.
_____________________________
The Human Comedy
Takoohi Saroyan
William Saroyan
San Francisco, 1942
_____________________________
Bà Takoohi Saroyan
Con đã dành trọn thời gian hiện nay để viết một quyển truyện riêng tặng mẹ vì con muốn nó là một quyển truyện thật là hay, hay nhất mà con có thể viết, và cuối cùng thì giờ đây, với một chút thúc bách của thời gian, con đã gắng viết. Con có lẽ có thể chờ thêm nữa, nhưng vì chẳng có thể nói cái gì sẽ đến và tài năng và ý hướng của con có còn không sau các chuyện này, chuyện khác, nên con viết vội lên một chút và viết ngay luôn với tài năng và ý hướng hiện nay. Con hy vọng, chẳng bao lâu nữa, một người tuyệt vời sẽ dịch truyện này ra tiếng Armenia, thế nên nó sẽ in bằng chữ Armenia mà mẹ vốn thân quen. Trong bản dịch, truyện này đọc có thể hay hơn bản Anh ngữ, và , như mẹ thường làm trước đây, có lẽ mẹ muốn đọc vài trang cho con nghe, tuy con là người viết truyện này. Nếu thế con hứa sẽ lắng nghe, và ngạc nhiên thích thú với vẻ đẹp của ngôn ngữ chúng ta, chỉ được những người khác biết đến chút ít và không ai ca ngợi nhiều như mẹ. Vì mẹ không thể đọc và thưởng thức tiếng Anh như mẹ đọc và thưởng thức tiếng Armenia, và vì con không thể đọc và thưởng thức tiếng Armenia, chúng ta có thể chỉ hi vọng vào một dịch giả tài ba. Dù là nguyên văn hoặc bản dịch, truyện này vẫn là để tặng mẹ. Con hi vọng mẹ thích nó. Con viết nó thật đơn giản, pha lẫn vẻ nghiêm trang và thư thái đặc biệt của mẹ, và của gia đình chúng ta . Con biết truyện không đầy đủ, nhưng có sao đâu? Chắc chắn với mẹ thế là đủ, vì con trai mẹ đã viết nó, và đã ý định viết tuyệt vời như thế.
William Saroyan
San Francisco, 1942
(Bản dịch Đặng Hữu Phúc)
Thân gửi T.P
“Cần một tâm hồn một cánh tay nâng
Cùng chia mất mát đau thương phận người” (BG)
Một cánh tay nâng đó là,
“Trăng liềm một mảnh lâng lâng bạc
Nghiêng xuống cành dương lá lá rơi”
(Tâm sự kẻ sang Tần. Vũ Hoàng Chương)
Và cũng là ,
“Hạt sương lòng trong bóng mát cành dương
Nước mắt thần hàn gắn vết đau thương”
(Zarathustra đã nói như thế)
Thân chúc T. P “ta cùng mỉm cười trước gió reo vui” (BG)
Đặng Hữu Phúc