CHƯƠNG 6
BARDO VÀO LÚC CHẾT
BARDO VÀO LÚC CHẾT
Tối nay tôi muốn bàn về Bardo của Giây Phút Chết, “sự giải thoát tự nhiên nhờ sự chuyển di tâm thức, nó làm rõ ràng điều không xác quyết”. Nó tương tự việc nhận một ân xá từ một vị vua. Sự tương đồng này muốn nói tới một tình huống ở đó một người bị nhà vua bắt đi đày bỗng nhiên nhận được tin cho biết lệnh ân xá đã được ban ra và anh ta được tự do trở về. Người ấy sẽ cảm thấy vững tin và không còn sợ hãi khi nghe những tin tức đó. Tương tự như vậy, bởi nhận lãnh các giáo huấn trực chỉ về sự tự-xuất hiện và tiến trình chết như con đường, là điều trước đây đáng sợ, không chắc chắn và không rõ ràng, thì thình lình nó rõ ràng và hiển nhiên. Đó là lý do tại sao các bạn cần thực hành Giáo Pháp sâu xa này và được chuẩn bị đầy đủ cho giây phút chết.
Giây phút chết này cũng được gọi là “sự coi giây phút chết như con đường”. Nếu các bạn nhận lãnh và thực hành các giáo lý về sự chuyển di tâm thức này, các bạn sẽ có khả năng tiếp cận giây phút chết mà không sợ hãi. Các bạn sẽ hoàn toàn được chuẩn bị để diện kiến định mệnh của các bạn không chút nghi ngại. Bằng cách nhận lãnh các giáo lý về phowa từ một bậc thầy tâm linh có phẩm chất, các bạn bắt gặp một thực hành để phân biệt giữa samsara (sinh tử) và Nirvana (Niết bàn). Các bạn nhận được cơ hội để thực sự vượt qua vòng sinh tử. Các bạn phải chuẩn bị cho giây phút chết trong khi các bạn còn sống. Nếu các bạn đã từng chuẩn bị, khi giây phút cái chết đến các bạn sẽ nhớ lại rõ ràng các giáo huấn trực chỉ và sử dụng chúng. Điều này sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào sự thực hành mà các bạn đã hoàn tất trong đời các bạn.
Ngài Jetsun Milarepa nói : “Vì sợ chết, tôi chạy trốn vào núi để thiền định và nhớ lại sự vô thường của cuộc đời. Đạt được chỗ an nghỉ bẩm sinh và bất biến của sự bất tử là sự tỉnh giác bên trong về cái chết và lẽ vô thường.” Nếu ta được chuẩn bị cho cái chết thì cũng giống như đang được chuẩn bị cho cuộc chiến đấu : khi biết quân địch đang đến gần thì điều khôn ngoan là có vũ khí trong tay. Cũng thế, khi chuẩn bị cho giây phút chết, là một thời điểm của nỗi đau khổ to lớn, các bạn cần được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt giây phút đó một cách trực tiếp và chiến thắng nó. Các bạn phải lợi dụng cơ hội để thực hành trong khi các bạn còn sống. Toàn bộ một cuộc đời thực hành Pháp được thể hiện vào giây phút chết. Cực kỳ quan trọng vào lúc chết là các bạn phải an trụ không phóng tâm và phải sử dụng các giáo huấn trực chỉ mà các bạn đã được ban cho.
Từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, chúng ta ở trong Bardo Đời Này. Từ lúc bệnh tật hay điều kiện (duyên) sẽ gây nên cái chết của chúng ta bắt đầu cho tới khi hơi thở bên trong bị trục xuất, chúng ta kinh nghiệm Bardo Giây Phút Chết. Khi chúng ta chết, chúng ta từ giã thế giới này và mọi sự trong đó. Chúng ta từ bỏ gia đình, bạn bè và những người thân yêu của ta. Chúng ta phải chia lìa với tất cả những người đã từng rất thân thiết với ta cũng như chia lìa với tài sản của ta và mọi sự là quan trọng trong suốt đời ta. Các câu kệ gốc viết : “Tôi sẽ từ bỏ mọi bám chấp, khát khao và tham luyến vào lúc chết.” Cực kỳ quan trọng là phải buông bỏ sự tham luyến của các bạn đối với những hiện tượng của đời này. Theo cách này, các bạn có thể tập trung một cách rõ ràng vào các giáo huấn các bạn đã nhận lãnh trong đời này và các thực hành các bạn đã hoàn tất. Vào lúc chết, các bạn có thể thực sự chứng ngộ tịnh quang vô sinh và đi vào pháp tánh, nhưng điều đó sẽ tùy thuộc vào sự thực hành mà các bạn đã hoàn tất.
Sự chuẩn bị tốt nhất cho cái chết là hoàn thiện hai giai đoạn của thực hành Dzogchen trong suốt đời các bạn. Chúng là trekchod, sự cắt đứt để đi vào cái thuần tịnh nguyên sơ, và tošgal, sự vượt qua với sự hiện diện tự nhiên. Nếu điều này không thể làm được, thì các bạn nên chuẩn bị bằng cách nhận các giáo huấn về phowa, sự chuyển di tâm thức vào lúc chết. Một cá nhân có thể đã từng nhận được mọi giáo huấn cần thiết để thành tựu Dzogchen, hay kinh nghiệm các sắc tướng như ảo tưởng huyễn hóa, hoặc Bardo của Trạng Thái Mộng nhưng có thể không đủ khả năng để thành tựu sự thực hành. Những người không có cơ hội để thực hành các kỹ thuật sâu xa do những phóng tâm trong các hoạt động hàng ngày có thể là những nhà lãnh đạo, những gia chủ v.v… Trong những trường hợp như thế, các giáo huấn sâu xa bị mất hút trong đời sống đó. Vì thế tâm thức vẫn cần đến một phương pháp nhờ đó sự giác ngộ có thể được thành tựu mà không cần thiền định. Phương pháp đó là phowa, cũng được nhắc đến như sự tự-giải thoát ngay trên nhận biết, nó cho phép một người không thiền định đi vào một trạng thái tỉnh giác giải thoát khỏi vòng sinh tử và như thế ám chỉ tới một nơi chốn an nghỉ bất biến. Với phowa, một người bình thường vẫn có một cơ may để đạt được giải thoát bằng cách tự quen thuộc với kỹ thuật sâu xa này.
Có hai giai đoạn đối với thực hành phowa : sự chuẩn bị trước cái chết và sự chuyển di tâm thức thực sự vào lúc chết. Giai đoạn đầu tiên được thực hành khi các bạn còn khỏe và vẫn còn có thể thực hành nó. Không có sự thực hành phowa, các bạn sẽ không sẵn sàng vào lúc chết và sẽ không có sự chuyển di tâm thức vào lúc đó. Các bạn cần chuẩn bị tâm thức cho sự không thể tránh được của cái chết và sự chuyển tiếp xảy ra trong cách thức tương tự cách những con chim di trú từ những khí hậu lạnh lẽo tới khí hậu ấm áp trong mùa đông. Biết rằng cái chết không thể tránh được và thời gian của nó thì bất định, các bạn nên thành tựu sự thực hành càng sớm càng tốt. Trong cách này, các bạn có khả năng du hành tới đích điểm của các bạn mà không có bất kỳ trở ngại hay che chướng nào. Một sự tái sinh làm người quý báu với những tự do và đặc ân của nó thì cần thiết để thực hành phowa. Một hành giả phowa phải tỉnh giác về sự quý báu của việc tái sinh làm người này và nỗ lực duy trì nó bao lâu ông còn có thể được mang thân người.
Các dấu hiệu của cái chết có bốn loại : hai dấu hiệu đầu tiên phải thực hiện với thứ tự thời gian, là các dấu hiệu chỉ ra rằng cái chết không lập tức và các dấu hiệu cho thấy là cái chết thì lập tức. Các dấu hiệu này được trình bày trong bản văn gọi là Tsenma Rangdrol, Sự Tự-Giải Thoát của các Đặc Tính. Nó ích lợi để các bạn tự làm quen thuộc với các dấu hiệu này bởi nếu chúng được nhận ra thì các bạn có cơ hội để tăng tiến sự thực hành của các bạn.
Về điểm này, tôi muốn nói rõ rằng phowa không bao giờ được dùng để thâu ngắn đời người. Các dấu hiệu của việc tới gần của cái chết thì quan trọng và ích lợi trong việc trợ giúp hành giả nhanh chóng thành tựu sự thực hành. Bất kỳ cố gắng nào để đẩy nhanh tiến trình hấp hối đều cực kỳ tiêu cực và tương tự như việc tự tử, là một trong những hành động thuộc về nghiệp xấu nặng nề nhất mà một người có thể mắc phạm.
Có nhiều lý do cho điều này. Lý do hiển nhiên nhất là không có gì quý báu hay hi hữu hơn sự tái sinh làm người này và vì thế nó cần được duy trì càng lâu càng tốt. Đức Phật đã dạy rằng nghiệp tiêu cực do bởi lấy đi mạng sống của một chúng sinh phải được hoàn trả năm trăm đời trong các cõi địa ngục. Trong thân thể các bạn có tám mươi tư ngàn loại ký sinh vật sinh sống, nhờ vậy mà không bị bệnh tật vật lý hay sự mất quân bình. Khi các bạn đau ốm, các ký sinh vật cũng kinh nghiệm sự bệnh tật. Vì thế, nếu các bạn tự sát, các bạn đang đồng thời tiêu diệt nghiệp bằng cách tái sinh trong các cõi địa ngục năm trăm đời đối với mỗi ký sinh vật. Các bạn đừng bao giờ nên nghĩ ngợi tới việc lấy đi mạng sống của chính mình.
Từ một quan điểm Kim Cương thừa, việc lấy đi mạng sống của chính các bạn hoàn toàn là sự hủy diệt các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ cư trú trong thân Kim cương. Đây là tư tưởng thậm chí còn tệ hơn các trọng tội. Năm trọng tội là giết cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, gây nên một sự mất hòa hợp trong tăng đoàn hay cố ý làm đổ máu một đấng Thiện Thệ. Các bạn cần cực kỳ thận trọng về bất kỳ khuynh hướng nào dẫn đến một cái chết non qua hành động này. Ngay cả trước khi ta cân nhắc trong việc thực hiện pháp phowa thực sự là sự chuyển di vào lúc chết, những buổi lễ nào đó cần được thực hiện để đánh lừa cái chết. Nếu đã có các dấu hiệu cho thấy cái chết của ta là chắc chắn thì có các buổi lễ có thể được cử hành để lừa dối hay trì hỗn cái chết, và sau khi chúng đã được cử hành ba lần, sau đó và chỉ sau đó mới là lúc thích hợp để tiến hành pháp phowa thực sự.
Những buỗi lễ đó đưa chúng ta tới giây phút thực sự mà các bạn sẽ thực hiện sự chuyển di tâm thức, khi hoàn toàn không thể đảo ngược lại được giây phút chết. Như tôi đã đề cập tới trước đây, có hai giai đoạn đối với sự thực hành phowa : sự tu tập khi ta còn sống trong sự chuẩn bị cho cái chết của ta và sự chuyển di tâm thức thực sự vào lúc chết. Trong cả hai trường hợp, ba nhận thức phải được củng cố. Ba nhận thức này là nhận thức kinh mạch trung ương như con đường, tâm thức của các bạn như kẻ du hành trên con đường và đích đến là Dewa-chen, Cõi Cực Lạc. Một khi các bạn đã củng cố ba nhận thức này, tâm thức được tu tập để đi lên con đường kinh mạch trung ương hướng thẳng tới mục đích là trái tim Đức Phật A Di Đà, đấng an trú trong cõi Dewachen.
Trước khi bắt đầu giai đoạn đầu tiên của sự thực hành, hãy suy niệm bốn tư tưởng chuyển hóa tâm và hãy khơi dậy Bồ đề tâm. Sau đó các bạn bắt đầu thực hành bằng cách ngồi trong tư thế hoa sen viên mãn (kiết già), xương sống thật thẳng, với đôi bàn tay trong bộ ấn như sau : các lòng bàn tay đặt nhẹ trên hai đầu gối với các ngón tay duỗi và hướng xuống trong cử chỉ chạm đất. Hãy quán tưởng một chữ HUNG xanh dương thật trong sáng và chói ngời trong trái tim các bạn. Từ chữ HUNG chính trong trung tâm tim của các bạn một chữ HUNG khác chiếu sáng và đi xuống, phong tỏa lỗ dưới (hậu môn), đóng cánh cửa tái sinh trong các cõi địa ngục. Một lần nữa, từ chữ HUNG trong trung tâm tim các bạn, một chữ HUNG thứ hai chiếu tỏa ra, đi xuống lỗ của lối vào bí mật và đóng cánh cửa tái sinh trong cõi súc sinh. Chữ HUNG khác tỏa chiếu từ chữ HUNG trong trung tâm tim các bạn và phong tỏa miệng. Hai chữ HUNG nữa chiếu ra phong tỏa hai lỗ tai. Hai chữ HUNG nữa chiếu ra phong tỏa ra hai lỗ mũi. Rồi tưởng tượng rằng các lỗ còn lại được phong tỏa bởi chữ HUNG khiến cho tâm thức không thể thoát ra khỏi thân thể từ bất kỳ nơi nào khác hơn là lỗ mở ở đỉnh đầu.
Ở lỗ mở trên đỉnh đầu, hãy quán tưởng một chữ HAM trắng lộn ngược. Hãy bắt đầu bằng cách quán tưởng một cách rõ ràng kinh mạch trung ương chạy xuyên qua giữa thân các bạn và nó có hình dạng của một ruột cừu khô được thổi phồng lên, trong suốt nhưng rõ ràng. Kinh mạch trung ương chạy suốt từ tận lỗ mở ở đỉnh đầu các bạn xuống tới chỗ dưới rốn bằng bề rộng bốn ngón tay. Nó có màu trắng sáng, chói ngời và chạy thẳng lên. Trong trung tâm của kinh mạch năng lực trung ương là bản tánh của giác tánh của ta. Nó có hình dạng của một bindu ánh sáng, màu trắng, chói ngời, trong sáng, nổi và rung động như thể sẵn sàng vút lên. Các bạn cần quán tưởng bindu năng lực ánh sáng, là giác tánh của các bạn, trong trung tâm kinh mạch trung ương để nó có thể vọt lên thật dễ dàng và ra khỏi đỉnh đầu các bạn. Rất cần quán tưởng một chỗ mở rộng của kinh mạch trung ương ở lỗ mở trên đỉnh đầu không có sự ngăn che nào.
Sẽ có nhiều dấu hiệu là cái chết sắp xảy ra và một vài trong số các dấu hiệu này sẽ xảy ra trong các giấc mộng. Thái độ tinh thần của ta sẽ thay đổi khi sức khỏe thể chất thay đổi. Đây là một vấn đề rộng lớn mà tôi không có thì giờ để đi vào. Có nhiều dấu hiệu để tìm kiếm sự xác định là thật ra cái chết có sắp xảy ra không. Tuy nhiên, cho dù các dấu hiệu xuất hiện thì các bạn cũng chỉ có thể chết sau nhiều năm. Một số người chết trẻ, một số chết già. Một số chết vì các loại vũ khí và một số bởi chiến tranh. Một số chết vì bom đạn.
Cách thức chết của chúng ta thì không chắc chắn nhưng sự kiện chúng ta sẽ chết thì tuyệt đối chắc chắn. Bởi sự không chắc chắn này, các bạn cần sẵn sàng để thực hiện giai đoạn thứ hai của sự thực hành phowa vào bất kỳ giây phút nào có được. Đối với các hành giả Đại Viên Mãn, vua của mọi kỹ thuật chuyển di sẽ được sử dụng, và đó là hợp nhất giác tánh nội tại của ta với tâm của đạo sư. Bản tánh của tâm là rigpa, giác tánh trống không nội tại, và nhờ năng lực của thực hành thiền định mà ta có thể thể hiện giác tánh nội tại vào lúc chết. Thật quen thuộc với việc hợp nhất giác tánh nội tại của ta với tâm của đạo sư là điều rất quan trọng. Việc duy trì trạng thái quân bình này vào lúc chết được gọi là sự chuyển di tâm thức tối thượng bằng sự thể nhập cái thấy Pháp Thân.
Kỹ thuật bậc trung là sự hợp nhất các giai đoạn phát triển và thành tựu được gọi là “sự chuyển di tâm thức Báo Thân”. Phowa Hóa Thân được thành tựu qua ba nhận thức, nó cho phép tâm hành giả chuyển di tới cõi cực lạc Hóa Thân.
Vào lúc chết, sau khi bốn yếu tố (tứ đại) đã phân tán lẫn vào nhau, ba giai đoạn của sự tan rã xảy ra theo thứ tự liên tiếp. Sự xuất hiện đầu tiên là một tia sáng trắng. Sự xuất hiện thứ hai là một tia sáng đỏ. Sự xuất hiện thứ ba là một sự thoáng ngất, một kinh nghiệm của sự rơi vào vô thức và sau đó tịnh quang, ánh sáng căn bản, tự trình hiện. Trừ các Bồ tát với sự chứng ngộ cao nhất, các giai đoạn tan rã này xảy ra cho tất cả mọi người vào lúc chết. Điều thật quan trọng là bản thân các bạn phải quen thuộc với chúng. Những giai đoạn này rất mãnh liệt bởi vì sự tan rã có tính chất sinh học ảnh hưởng tới tâm thức. Cách thức duy nhất để vượt qua sự khó khăn của giai đoạn tan rã là bằng đại định của cái thấy kim cương, một đại định mà chỉ các Bồ tát với chứng ngộ cao tột mới có thể thành tựu. Có nhiều giáo lý về các giai đoạn tan rã xảy ra vào lúc chết. Ngài Patrul Rinpoche đã ban cho một số giáo lý liên quan tới các giai đoạn tan rã này và chúng rất ích lợi cho những người sơ học bởi sự tiếp cận thì thẳng tắt.
Khi các giai đoạn tan rã bắt đầu, thị lực của ta bị mất đi như thể nhãn thức ngưng hiện hữu. Nhĩ thức ngưng hiện hữu. Thân thức ngưng hiện hữu. Sáu tri giác của giác quan bị suy kiệt khi tiến trình tan rã xảy ra. Vào một lúc nào đó trong giai đoạn tan rã này, ta không còn kinh nghiệm các phản ứng như sự hạnh phúc hay đau khổ nữa. Những cảm xúc đó bị tẩy trừ khỏi tâm thức. Rồi tới một lúc trong tiến trình tan rã này khi người hấp hối không còn nhận biết họ là ai hay những ai đang ở đó với họ. Vào lúc đó, năng lực của nhãn quan tan rã vào nhãn thức. Tất cả các giác quan khác cũng mất đi năng lực của chúng bằng cách tan rã vào bản tánh căn bản của ta, là Phật tánh, chính nó kinh qua ba giai đoạn đã được đề cập ở trên. Một cách đồng thời, các đại tan rã. Thịt tan vào địa đại, vào lúc đó người hấp hối cảm thấy một cảm giác nặng nề và không thể chuyển động được nữa. Máu tan vào thủy đại và các chất lỏng trong thân thể chảy ra qua các khiếu mà không thể kiểm soát được. Khi hơi ấm tan vào hỏa đại thân thể trở nên giá lạnh. Khi hỏa đại tan vào gió (phong), sự tỉnh giác trở nên rất lờ mờ và thân thể lạnh giá hơn nữa. Khi năm đại trong thân thể tan trở về yếu tố căn bản, các năng lực giác quan tan rã một cách tương ứng.
Như thế, tôi đang thực sự nói về điều gì ở đây? Tôi đang nói về tiến trình mà mỗi một và tất cả mọi người trong chúng ta sẽ kinh qua, tuy nhiên ngay cả bây giờ khi các bạn nghe những lời này, các bạn có thể nghĩ rằng tôi đang nói về người nào khác đang hấp hối, nhưng đây chính là điều mà tất cả chúng ta phải trải qua.
Vào lúc chết, nghiệp tiêu cực của con người trội vượt hẳn lên và gây nên sự đau khổ ghê gớm. Đây là nỗi đau khổ mãnh liệt nhất mà các bạn sẽ luôn luôn kinh nghiệm. Người hấp hối có một vài năng lực để hiểu biết về sự tái sinh kế tiếp của họ và để phản ứng lại việc đó trong những giây phút cuối cùng này. Tâm thức mê lầm có thể biểu lộ theo một cách mà những lời cuối cùng người đang hấp hối thốt ra thì hoàn toàn tiêu cực và khó chịu. Nếu họ sắp đi xuống cảnh giới địa ngục thì họ có thể biểu lộ những khuynh hướng của cảnh giới địa ngục trong thái độ tinh thần và sự biểu lộ qua thân thể ngay trước khi chết. Nếu họ sắp đi tới cảnh giới ngạ quỷ hay cảnh giới súc sanh, họ có thể biểu lộ các khuynh hướng đó. Sẽ có các dấu hiệu và các biểu lộ. Người hấp hối có thể thực sự thấy được nơi tái sanh trước khi các dấu hiệu và biểu lộ này xảy ra và điều này sẽ trở nên rõ ràng hiển hiện. Ngài Milarepa nói : “Một người xấu thấy nơi tái sanh tương lai của mình và vào lúc đó vị thầy trở thành sự tương thuộc duyên sanh của chân lý không sai chạy về nhân và quả.”
Những người sắp đi vào cảnh giới địa ngục sẽ mọc lên một cách tượng trưng những chiếc sừng và răng nanh, và nhìn thấy Yama, Thần Chết đang đến dẫn tay họ tới cõi địa ngục, nơi đó họ sẽ bị thiêu đốt trong các loại địa ngục. Thậm chí họ sẽ có kinh nghiệm này trước khi tới đó. Đây không phải là câu chuyện nào đó mà tôi đang bịa đặt. Nó xảy ra như thế nhưng các bạn vẫn nghĩ rằng nó sắp xảy ra cho người nào khác. Nỗi đau khổ của cái chết thì không thể nghĩ lường.
Năm ngoái khi tôi ở Delhi, một hôm chúng tôi đã viếng thăm một vườn bách thú, ở đó có một cái chuồng nhốt ba con rắn khổng lồ. Vài con chim nhỏ được thả vào chuồng cùng với một ít hạt để chúng đủ sống cho tới khi các con rắn ăn thịt chúng. Những con rắn chắc chắn sẽ ngấu nghiến những con chim nhỏ bé đó vì chúng là con mồi của lũ rắn. Tuy nhiên, những con chim không có ý niệm gì về số phận của chúng. Và như thế, mặc dù mọi người nhìn vào chuồng có thể thấy rằng ngày mai các con chim sẽ chết, nhưng chính chúng thì hoàn toàn không biết gì về tình trạng nguy hiểm của chúng. Việc này gây ấn tượng cho tôi như một ví dụ cổ điển về thân phận của chúng sinh. Tất cả chúng ta đều thích dấn mình vào những vấn đề thế gian, cuộc đời chúng ta bị tiêu mòn bởi công việc và những hoạt động khác, và chúng ta không thấy được bản chất của sinh tử trong khi nó thật hiển nhiên. Không thấy được điều đó, người ta tiếp tục theo đuổi các hoạt động thế tục mà không có bất kỳ sự tỉnh giác nào về số phận của họ : cái chết đó đang tới gần vào bất cứ giây phút nào như một sự thật đối với những con chim trong cái chuồng đó. Thật buồn khôn tả khi nhìn thấy tình trạng nguy cấp và sự vô minh của chúng sinh. Quá rõ ràng là chúng sinh cần Pháp để họ có thể né tránh được Yama, Thần Chết, khi ông ta đến dắt tay họ đi. Có một cơ hội để chuẩn bị nếu như các bạn có thể gặp được Pháp và thực hành nó. Nếu các bạn không chuẩn bị, các bạn sẽ giống như một con cừu bơ vơ lạc lối, gặm cỏ thơm ngon trên những sườn dốc cao, xa bầy và những hình thức khác của đời sống, và khi nó đang vui hưởng bữa tiệc thì bất thần không biết từ đâu một con chó sói nhảy xổ ra và ăn nó ngấu nghiến. Đừng quên rằng Thần Chết đang đến gần. Vào lúc đó các bạn sẽ bị tràn ngập bởi bất kỳ nguyên nhân của cái chết nào. Nguyên nhân của cái chết sẽ là kinh nghiệm mãnh liệt nhất về nỗi đau khổ mà các bạn chưa từng có trong đời các bạn. Các bạn sẽ bị tràn ngập bởi các giai đoạn tan rã. Điều thiết yếu là phải chuẩn bị và làm việc như thế trong khi các bạn vẫn còn có thể.
Có hai giai đoạn đối với tiến trình tan rã : sự tan rã bên ngoài và sự tan rã bên trong. Sự tan rã bên ngoài là sự tan rã liên tục của năm đại, đó là địa, thủy, hỏa, phong và không đại. Điều này đã được giảng rõ. Vào lúc này, người hấp hối không thể phân biệt hay nhận ra các tri giác của giác quan. Điều này chỉ ra rằng các xuất hiện đang tan lẫn vào giai đoạn xuất hiện của ánh sáng đỏ. Hơi thở bên ngoài đã ngưng nhưng hơi thở bên trong vẫn còn hiện diện trong thân. Cái chết hãy còn chưa xảy ra. Như thể là có một ngọn nến hay đèn bơ nhỏ còn cháy trong trung tâm tim vì hơi thở bên trong đang hiện diện, và tâm thức vẫn còn ở trong thân, mặc dù người ấy không còn thở nữa. Tuy thế cái chết chưa xảy ra vì hơi thở bên trong vẫn còn.
Vào lúc này, sự tan rã bên trong xảy ra. Hạt giống (chủng tử) nguyên thủy mà chúng ta nhận từ cha chúng ta lúc thụ thai, một bindu trắng gồm tinh chất trong đỉnh đầu, đã tồn tại ở đó từ lúc thụ thai. Khi các đại tan rã và hơi thở bên ngoài ngưng lại, bindu trắng này nhỏ xuống qua kinh mạch chính giống như một ngôi sao băng đi vào trái tim. Người hấp hối kinh nghiệm điều này như một tia ánh sáng trắng, giống như mặt trăng xuất hiện trong một bầu trời trong trẻo và làm tràn đầy nó khiến mọi sự trở nên trắng ngần. Khi bindu hay giọt tinh chất đi vào tim chúng ta, ba mươi ba vọng tưởng liên kết với sự sân hận tạm thời bị ngưng lại. Nếu người hấp hối đã thành tựu cấp bậc chứng ngộ nào đó lúc sống, thì vào lúc này người ấy sẽ chứng ngộ Hóa thân và đạt được giải thoát bằng cách đi vào một trạng thái tỉnh giác thuần tịnh không thể thối chuyển được, là nơi họ sẽ được giải thoát khỏi vòng sinh tử. Đối với người đó, mọi vọng tưởng sẽ vĩnh viễn chấm dứt hay chuyển hóa thành sự giác ngộ. Tuy nhiên, một người bình thường kinh nghiệm một sự ngưng dứt tạm thời của những ý niệm được đặt nền trên sự sân hận vào giây phút giọt trắng đi xuống. Điều này được gọi là sự xuất hiện màu trắng tan hòa vào giai đoạn xuất hiện của gió.
Ngay khi giọt trắng đi tới trái tim, chủng tử nguyên thủy được nhận từ mẹ chúng ta vào lúc thụ thai đã tồn tại trong trung tâm rốn của ta suốt cuộc đời ta, nó cũng được gọi là chủng tử trứng hay chủng tử máu, đi lên kinh mạch trung ương và tan vào trái tim, hợp nhất với chủng tử trắng. Vào lúc này, có một tia sáng đỏ như thể mặt trời bất ngờ xuất hiện trong một bầu trời trong trẻo làm tràn đầy nó với một ánh sáng đỏ chói. Bốn mươi ý niệm kết hợp với sự tham dục bị ngưng lại. Nếu người hấp hối đã là một hành giả thành tựu trong cuộc đời, người ấy sẽ có khả năng đạt được giải thoát trong sự tỉnh giác Báo Thân của Không-Lạc và chứng ngộ trạng thái giải thoát bất thối chuyển. Đối với một người bình thường, kinh nghiệm về sự ngừng dứt của bốn mươi ý niệm được liên kết với tham dục này là tạm thời và chỉ xảy ra vào thời điểm chủng tử đỏ đi lên. Điều này được gọi là giai đoạn xuất hiện của màu đỏ tan vào giai đoạn cận-đạt đến bóng tối.
Khi hai chủng tử này hợp nhất ở trung tâm tim, chúng được kết dính lại với nhau và lập tức kinh nghiệm cận tử bắt đầu. Đây là một kinh nghiệm về bóng tối hoàn toàn, không có ý thức, vào lúc này bảy ý niệm được đặt nền trên sự mê lầm và vô minh bị dừng lại. Đây cũng là lúc mà một hành giả hảo hạng chứng ngộ Pháp Thân, đặc biệt là khi các thực hành Dzogchen đã được thành tựu. Nếu người hấp hối là một hành giả của giai đoạn phát triển thì người ấy, nhờ thói quen của sự thực hành deity yoga trong đời, sẽ có thể tập trung trên chủng tự hay các chữ mantra trong tim của deity (bổn tôn). Việc đi vào sự tỉnh giác thiền định của bổn tôn theo cách đó sẽ đưa đến giải thoát vào giây phút này. Nếu người hấp hối đã thực hành tsalung, thì nhờ thói quen của sự thực hành Không-Lạc trong một trạng thái của bốn hỉ lạc, họ sẽ đi vào trạng thái tỉnh giác trí huệ. Một hành giả bình thường hơn có thể nhớ lại sáu hồi niệm vào lúc này. Chúng là hồi niệm về bổn tôn, giới luật, tăng đoàn, đức hạnh và v.v… Dù có thể ở trong bất kỳ tình huống nào, các hành giả phải nhớ lại và sử dụng thói quen mạnh mẽ nhất của họ vào giây phút quyết định này. Nếu người hấp hối là một tăng hay ni, người ấy có thể nhớ lại các cam kết đã được lập ra để duy trì các nguyện hay giới luật nào đó. Nếu người hấp hối đã thực hành bố thí, họ có thể nhớ lại các hành động bố thí và hành vi đạo đức đó mà họ đã quen thuộc. Nếu người ấy đã từng là một hành giả trì tụng thần chú, người ấy có thể nhớ lại các thói quen của tâm. Nếu người ấy đã từng là một hành giả Dzogchen, người ấy có thể nhớ lại cái thấy (kiến) và đạt được giải thoát trong Pháp Thân bằng cách hợp nhất giác tánh bất nhị với Đức Phật Vajradhara hay Samantabhadra (Phổ Hiền). Sự hồi niệm này thì tối cao. Nếu người ấy đã là một hành giả mahayoga hay anu yoga, người ấy có thể thấu suốt kinh nghiệm của Đức Vajradhara và đạt giải thoát. Nếu người ấy đã trì tụng OM MANI PADME HUNG, thì riêng điều này đã có thể là một hồi niệm rất mãnh liệt của kinh nghiệm cận tử.
Trái lại, nếu người hấp hối không có các thói quen tích cực hay đức hạnh, thì sau khi các tia sáng trắng và đỏ xảy ra và hai chủng tử hợp nhất, trong kinh nghiệm cận tử về bóng tối tâm thức sẽ mê lạc vào a lại da, là thức nền tảng rộng khắp. Trái lại, một hành giả vào giây phút kinh nghiệm cận tử sẽ tri giác sự ló rạng của ánh sáng căn bản, kinh nghiệm tịnh quang, tinh khiết như một bầu trời không mây, rực rỡ và chói ngời. Kinh nghiệm đó giải thoát khỏi bất kỳ che chướng hay dấu vết che chướng nào. Nếu người ấy đã được đưa vào tịnh quang trong đời mình và quen thuộc với sự thiền định, thì người ấy có thể đã từng thể nhập tịnh quang được minh họa khiến khi tịnh quang mẹ xuất hiện, thì sẽ giống như một đứa trẻ nhận ra được mẹ nó và lập tức nối kết bằng cách nhảy vào lòng bà. Tịnh quang được minh họa, nhờ năng lực của sự nhận thức, chuyển hóa thành ánh sáng mẹ hay ánh sáng căn bản. Không có gì quan trọng hơn việc nhận ra ánh sáng mẹ vào lúc này.
Nhưng, điều này có thể hoàn toàn chỉ là lối nói hoa mĩ, chỉ là bàn luận suông. Nếu các bạn không thực hành, nghiệp của các bạn sẽ quá tiêu cực khiến không thể hiểu thấu điều này và các bạn sẽ hoàn toàn tiếp tục lang thang trong sinh tử. Không có thực hành các bạn hoàn toàn rất tầm thường và sẽ chỉ kinh nghiệm ánh sáng trắng, ánh sáng đỏ và sự tối sầm. Đây là một kinh nghiệm khó vượt qua đến nỗi, nói đúng ra, chỉ có các hành giả cao cấp nhất mới có thể thực sự chiến thắng giây phút này trong một ý nghĩa tuyệt đối và thành tựu thân cầu vồng. Trong tất cả những trường hợp cá biệt khác sẽ chỉ là những dấu vết vi tế của những mê lầm thuộc về nghiệp. Mọi chúng sinh trong ba cõi đều phải chết trong cách này, không một ai được miễn trừ tiến trình này. Ngay cả những lama giàu có nhất cũng phải ra đi theo lối đó. Chẳng có lợi lạc gì đối với các hoạt động mà bản thân các bạn dính líu vào để tích lũy của cải. Bằng cách đi vào con đường với cam kết chân thực và samaya (hứa nguyện) trong sạch, người ta hoặc hướng trực tiếp tới mục đích giải thoát hoặc lạc đường và trộn lẫn Pháp thanh tịnh với cái thấy bất tịnh cùng các hoạt động bất tịnh, do đó đổi hướng và tiến về sự tái sinh trong các cõi thấp. Đây là lý do vì sao rất cần sử dụng tốt đẹp sự tái sinh làm người quý báu này.
Các bạn đã nhận được các giáo huấn trực chỉ cốt tủy bắt nguồn từ Đức Padmasambhava nhưng ngoài việc ấy ra tình huống của các bạn thực sự là rất vô ích. Tuy nhiên, nếu các bạn có thể hoàn toàn nhận thức được sự quý báu của những giáo lý dẫn tới giải thoát này, thì lần lượt các bạn có thể thực sự đạt được giải thoát. Các bạn có thể nhận ra điều đó không? Các bạn có thể thiền định về nó? Đây có phải là điều mà các bạn thực sự nghĩ rằng các bạn có thể thực hiện? Xin hãy nhận ra cơ hội mà các bạn đang có, sự quý báu của các giáo lý này và xin hãy thực hành. Đừng chỉ là một kẻ khùng điên và tiêu phí cơ hội này. Các giáo huấn trực chỉ không bao giờ được xa lìa. Đức Phật A Di Đà không ở quá xa. Đức Phật nguyên thủy Phổ Hiền không ở quá xa. Nếu các bạn biết phải thiền định thế nào các bạn sẽ khám phá sự bất nhị và các bạn sẽ khám phá ra rằng không có sự phân cách giữa các bạn và chư Phật.
Bản tánh của tâm thì trống không, thoát khỏi mọi giới hạn. Nó không màu sắc, hình dạng hay các yếu tố phân biệt đối với bất kỳ loại nào và tuy thế nó lang thang trong sinh tử, kinh nghiệm nỗi khổ và tích tập nghiệp. Thực ra, tâm có năng lực để đạt được tự do và kinh nghiệm được đại lạc và hạnh phúc chân thật. Tất cả chín thừa của Phật Pháp hiện hữu là để cho bản tánh của tâm có thể được thấu suốt phù hợp theo các nhu cầu và khả năng của hành giả. Mỗi phái tìm kiếm để khám phá trạng thái vô ngã và định danh sự khám phá đó một cách thích hợp. Một vài phái gọi nó là bản tánh của tâm. Các Thanh Văn gọi nó là sự không có cá tính đối với một con người. Phái Yogachara, “Duy Thức” gọi nó là tâm không có bản ngã (vô ngã). Phái Trung Quán gọi nó là trung đạo. Các phái khác gọi nó là trí huệ siêu việt, tinh túy của các đấng Thiện Thệ, mahamudra (Đại Ấn), một bindu tinh túy, nền tảng rộng khắp, giác tánh bình thường hay tamal gyi shepa. Khi ta bắt gặp nó, bất chấp sự định danh của nó, không chút hồi niệm các sự kiện trong quá khứ, không cần đến sự tiên liệu các sự kiện trong tương lai, trong giây phút hiện đây, để mặc như nó là, tâm bình thường hay giác tánh (sự tỉnh giác) này không phải là cái gì trống rỗng hay hư vô mà đúng hơn nó hoàn toàn rõ ràng. Nó không là cái gì đặc biệt, phi thường vì sự biểu hiện của giác tánh thì vô hạn. Nó không tản mác bởi nó là nhất-vị. Tinh túy là Pháp Thân. Bản tánh là Báo Thân. Phẩm tính là Hóa Thân và sự không thể phân chia của ba điều đó là svabhavakaya (Thân Tự Tánh). Sự truyền dạy này được trao cho Lhacham Pema Sel trong đời Đức Padmasambhava. Bà đã giữ gìn nó và về sau đã hóa thân là Longchenpa là bậc đã ban các giáo lý Dzogchen kỳ diệu nhất. Đây là các giáo huấn tinh túy đến trực tiếp từ Đức Padmasambhava và chúng chỉ dạy cách thức đạt được giải thoát. Điều này được thành tựu nhờ thấu suốt cái thấy về giác tánh nội tại. Sau khi nhận được các truyền dạy và giáo huấn về bản tánh này, điều quan trọng là đưa chúng vào đời sống của các bạn bằng cách thực hành chúng. Một khi các bạn đã được dạy cách thiền định, quả là một phí phạm lớn lao nếu các bạn không thực hành.
Các giáo lý này là tâm yếu của Đại Thành tựu giả vĩ đại Karma Lingpa. Bởi chúng ta không biết được chúng ta sẽ còn sống vào ngày mai không nên bây giờ là lúc để chuẩn bị cho cái chết và cách tốt nhất để làm điều đó là thể nhập cái thấy Dzogchen. Cái thấy đó sẽ siêu vượt các giai đoạn tan rã vào lúc chết : tia sáng trắng, tia sáng đỏ, và sự thoáng ngất tối sầm, được theo sau bởi sự ló rạng của tịnh quang. Nếu chúng ta quen thuộc với giác tánh tịnh quang thì khi đó ta sẽ đạt được giải thoát trong ánh sáng căn bản. Nếu không, Bardo Pháp Tánh sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ có các cơ hội khác để nhận ra các cõi Phật thuần tịnh như sự phô diễn của các bổn tôn xuất hiện trước tiên trong sự biểu lộ an bình và sau đó trong biểu lộ phẫn nộ. Nếu các cõi Phật không được nhận ra và nếu sự giải thoát không xảy ra thì Bardo Trở thành sẽ rõ ràng và ta sẽ bị lôi vào các trạng thái tái sinh trong sinh tử trong tương lai. Cho tới khi tri giác mê lầm được giải thoát, các bạn sẽ tiếp tục khoác lấy các hình tướng và trải nghiệm thân xác các bạn đang bị thiêu đốt trong địa ngục hay bất kỳ kinh nghiệm nào của hiện thân vật lý, và cứ lặp đi lặp lại mãi. Nó sẽ không ngừng dứt cho tới khi sự mê lầm trong tâm bị cạn kiệt. Sự mê lầm trong tâm bị cạn kiệt nhờ thiền định. Nếu các bạn không thực hành, thì các bạn hy vọng điều gì? Làm thế nào tôi có thể giúp đỡ các bạn? Điều khiến tôi có phần e ngại là đã quá rộng rãi với những khám phá quý báu này, nhưng điều đó là xứng đáng nếu các bạn đưa những giáo lý này vào tâm khảm và thực hành chúng. Hãy thận trọng suy nghĩ điều này. Nếu các bạn không thiền định, thế thì không tốt. Nó làm suy đồi mọi sự. Mọi sự trở nên hư hỏng. Xin đừng lãng phí cơ hội này. Hãy nỗ lực thực hành.
CHƯƠNG 7
BARDO PHÁP TÁNH
Tối nay chúng ta sẽ thảo luận về Bardo Pháp tánh, sự tự-giải thoát nhờ cái thấy, nó tương tự như một đứa trẻ đang nghỉ ngơi trong lòng mẹ. Các giáo lý về Bardo Pháp tánh đặc biệt liên quan tới sự phô diễn của giác tánh nội tại của ta. Bản văn gốc nói : “Giờ đây, khi Bardo Pháp tánh hé mở đối với tôi, tôi sẽ từ bỏ tất cả các niệm tưởng sợ hãi và kinh khiếp. Tôi sẽ nhận ra bất kỳ điều gì xuất hiện như phóng chiếu của riêng tôi và nhận biết nó là một thị kiến của Bardo. Giờ đây tôi đã đi tới thời điểm quan trọng này tôi sẽ không sợ hãi những bậc an bình và phẫn nộ là những phóng chiếu của chính tôi.”
Thực ra, trước khi thảo luận về Bardo Pháp tánh, tôi muốn bàn thêm về sự chuyển di tâm thức, sự thực hành việc đưa tâm thức đi lên và ra ngoài kinh mạch trung ương. Trong truyền thống Longsal Nyingpo, ta quán tưởng chính mình là Đức Avalokiteshvara, trong trung tâm của ta là kinh mạch trung ương thẳng như một thân tre. Ta quán tưởng sinh khí và tâm mình là một trái cầu, kích thước bằng một trái trứng đầu tiên mà con gà mái đẻ ra, ở trong kinh mạch trung ương, ở khoảng trái tim. Ta quán tưởng Đức A Di Đà ở trên đỉnh đầu và tưởng tượng rằng tâm thức mình là một bindu ánh sáng. Bindu này thì nổi và rung động, được phóng lên và ra ngoài kinh mạch trung ương giống như một ngôi sao băng, hợp nhất với tâm Đức A Di Đà và trở nên không thể ly cách với Đức A Di Đà.
Có nhiều truyền thống về phowa. Kỹ thuật khác sẽ quán tưởng bản thân mình là Vajravarahi, duy trì sự tỉnh giác về ba kinh mạch, là kinh mạch trung ương và các kinh mạch trái và phải. Đức Phật Vajradhara sẽ được quán tưởng ngay trên đỉnh đầu ta và tâm thức được phóng lên qua kinh mạch trung ương đi vào tim Đức Vajradhara.
Trong truyền thống Nyingthig, ta quán tưởng chính mình là Vajrayogini, kinh mạch trung ương thẳng đứng như cành tre và tâm thức được bắn vọt lên và ra ngoài với âm thanh PHAT.
Trong một terma mà tôi đã khám phá, ta quán tưởng mình là dakini Yeshe Tsogyal. Guru Dewachenpo, tức Padmasambhava trong biểu lộ của đại lạc, được quán tưởng trên đỉnh đầu ta và được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm các đạo sư dòng truyền thừa. Sau khi dâng một bài cầu nguyện khẩn cầu đặc biệt, tâm thức, một bindu của năng lực ánh sáng, được phóng lên qua kinh mạch trung ương, ra ngoài đỉnh đầu ta ở đó nó hợp nhất với tâm của Guru Đại Lạc.
Theo truyền thống về sáu Bardo, ta quán tưởng thân mình như một thân ánh sáng gồm có năm màu cầu vồng, với kinh mạch trung ương và hai kinh mạch phụ ở hai bên. Ta quán tưởng tâm mình là một bindu ánh sáng ở trong kinh mạch trung ương. Khi ta tụng âm PHAT, tâm thức được phóng lên và ra ngoài đi vào tim Đức A Di Đà, ở đó nó tan ra. Đây là sự thực hành phowa với ba nhận thức.
Nếu các bạn có thể thành tựu kỹ thuật phowa tối cao, nhận ra giác tánh nội tại trống không vào lúc chết, niêm phong giây phút đó với cái thấy của Đại Viên Mãn, thì các bạn sẽ được giải thoát trong Pháp Thân. Nếu các bạn đã từng là một hành giả mahayoga thuộc giai đoạn phát triển thì vào lúc chết các bạn sẽ quán tưởng chính mình là vị bổn tôn mà các bạn đã liên hệ với chẳng hạn Vajrakilaya, Yamantaka v.v… và duy trì sự tỉnh giác về chủng tự trong trung tâm tim của các bạn với các chữ thần chú xoay tròn. Các bạn sẽ kinh nghiệm giây phút chết theo cách đó và đạt được giải thoát như một Báo Thân Phật.
Nhiều người trong các bạn cần nương cậy vào phowa với ba nhận thức vào lúc chết. Ba nhận thức này là nhận thức kinh mạch trung ương như con đường, tâm thức hành giả như kẻ du hành trên con đường và Dewachen, cõi Cực Lạc, như đích đến. Trọng tâm của thực hành này là đưa tâm thức ta đi lên và ra ngoài kinh mạch trung ương khiến nó hợp nhất với tâm Đức A Di Đà. Nếu các bạn không thể quán tưởng điều đó một cách rõ ràng, các bạn cần tưởng tượng rằng tâm các bạn không ly cách với tâm Đức A Di Đà. Phowa với ba nhận thức thì cực kỳ mạnh mẽ và đem lại các sự ban phước to lớn.
Bây giờ, các thực hành liên kết với Bardo Đời Này và Bardo Thiền định chuẩn bị cho ta kinh nghiệm về sự xuất hiện của Pháp tánh là phô diễn của sự thuần tịnh nguyên thủy. Trạng thái thuần tịnh nguyên thủy được thể nhập qua con đường trekchod – “sự cắt đứt để đi vào sự thuần tịnh nguyên thủy”. Một khi các bạn chứng ngộ cái thấy nhờ trekchod, thì các bạn có thể thể nhập rigpa như con đường tošgal – “sự vượt qua với sự hiện diện tự nhiên”. Theo cách này, các bạn có thể đạt được giải thoát trong đời bạn vào lúc chết, hay khi tịnh quang mẹ ló rạng và được nhận ra. Các bạn cũng có thể đạt được giải thoát khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện và được nhận ra như sự phô diễn của giác tánh của chính các bạn. Một nền tảng vững chắc của sự thực hành trong đời này cho phép các bạn tự quen thuộc với các kỹ thuật này. Không có nó, sự giải thoát sẽ không xảy ra. Nhưng chỉ đơn thuần quen thuộc với thực hành tošgal sẽ bảo đảm sự nhận ra bản tánh của sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ và các bạn sẽ không còn tái sinh trong vòng sinh tử nữa. Đây là một thực hành sâu xa gieo trồng các hạt giống giải thoát rất sâu xa trong tâm thức các bạn.
Giáo lý về Bardo Pháp tánh có bốn phần. Phần thứ nhất là để cho ba cửa (thân, ngữ, tâm) nghỉ ngơi trong sự hòa hợp của chính chúng, để mặc chúng an dịu như một giòng sông trong sự hòa điệu của riêng chúng. Phần thứ hai, sử dụng các giáo huấn tinh yếu của đạo sư, là nghỉ ngơi trong bản tánh của các sự vật, cách thức chúng thật sự an trú. Thứ ba là nghỉ ngơi tự nhiên; để thành tựu điều này, có bốn loại sự dán chặt thiền định, trong đó người ta thiền định một cách tự nhiên về sự cắt đứt đến cái thuần tịnh nguyên thủy. Phần thứ tư là thâm nhập vào bản tánh của tâm bằng cách vượt qua với sự hiện diện tự nhiên – sự hiện diện tự nhiên của ying, thigle và rigpa. Như thế, ta đạt được thân cầu vồng Pháp Thân.
Các vấn đề then chốt của ba cửa thân, ngữ và tâm thì thiết yếu trong việc giữ gìn sự thực hành của ta hoàn toàn thanh tịnh. Đối với thân, ta có ba tư thế căn bản trong tošgal, nó tương ứng với ba thân. Thứ nhất là tư thế hóa thân, nó giống như tư thế của một hiền nhân. Thứ hai là tư thế báo thân, nó giống như tư thế của một con voi đang ngủ. Thứ ba là tư thế pháp thân, nó giống như tư thế của một con sư tử tuyết ngồi thẳng đứng trên cặp đùi của nó.
Trong thực hành Troma, tư thế báo thân là tư thế bảy điểm của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Ba tư thế của thân thì khác biệt theo các truyền thống khác nhau. Tư thế pháp thân sư tử tuyết thật tuyệt hảo. Có nhiều trích dẫn về tầm quan trọng của các sự ban phước chỉ có được từ các tư thế. Các trích dẫn này có thể được tìm thấy trong các bản văn như Dra Thal Gyur, mười bảy Tantra và Mutig Trengwa, hay Chuỗi Ngọc. Sự giảng dạy về các tư thế mà tôi đưa ra ở đây phù hợp với terma của ngài Karma Lingpa. Theo truyền thống, các giáo lý tošgal được ban cho bảy đệ tử mỗi lần và sự thực hành được thực hiện một cách lý tưởng khi bầu trời trong trẻo và lặng gió. Thực hành này phải được thực hiện ở một nơi cô tịch.
Trong tư thế pháp thân sư tử tuyết, các bạn đặt hai bàn chân cạnh nhau. Nắm bàn tay lại thành kim cương quyền, các bạn đặt chúng ở phía trước chân mình, vươn thân trên lên để nó thật thẳng. Đầu các bạn hơi cúi xuống. Khi thân thẳng thắn, các kinh mạch thẳng và tâm thức trong sáng, điềm tĩnh và thoát khỏi các vật chướng ngại trong các kinh mạch năng lực. Sau đó, bằng nhãn quan, cái nhìn của các bạn được giữ trong cách thế sẽ được mô tả về sau. Ngay bây giờ chúng ta sẽ tập trung vào các tư thế.
Tư thế thứ hai là tư thế báo thân của một con voi đang ngủ. Trong tư thế này, các bạn cúi mình xuống trên đầu gối, hai khuỷu tay trên mặt đất và cằm nằm trong lòng hai bàn tay. Đầu các bạn hơi nâng lên.
Tư thế thứ ba là tư thế hóa thân của một hiền giả. Trong tư thế này, các bạn ngồi với đôi bàn chân trên mặt đất và đầu gối hướng lên. Các khuỷu tay chạm vào đầu gối, chân các bạn cạnh nhau, và hai tay được xếp chéo lại, tay phải trên tay trái với các ngón tay chạm vai. Xương sống cần thật thẳng.
Đây là ba tư thế của thực hành tošgal giúp cho bản tánh trí huệ nguyên thủy bẩm sinh được nhận thức một cách trực tiếp. Nhờ các tư thế này mà bản tánh trí huệ bẩm sinh của ta hiển lộ tự nhiên. Vấn đề then chốt của thân là giữ lấy một trong những tư thế. Hãy để nó tự nhiên.
Vấn đề then chốt của ngữ có ba điểm : thứ nhất là giảm thiểu sự trò chuyện, thứ hai là giữ chánh niệm trong ngôn ngữ của ta và thứ ba là hoàn toàn loại trừ ngôn ngữ theo cách tiệm tiến. Vấn đề căn bản ở đây là ngôn ngữ không bao giờ chấm dứt, vì thế hãy cắt đứt lời nói không cần thiết. Trong khi thiền định đừng nói năng bất cứ điều gì.
Vấn đề then chốt của tâm là thể nhập giác tánh thuần tịnh, duy trì sự trong sáng không phóng tâm và với mức độ tập trung nào đó. Đừng đi vào những ý niệm. Chỉ mặc cho tâm ngơi nghỉ.
Vấn đề then chốt để giữ gìn sự tỉnh giác của ba cửa là an trụ trong tri giác trực tiếp. Ở đây ta đang đi vào sự tự-tỉnh giác về bản tánh của nó như ba thân. Sự phô diễn bẩm sinh của giác tánh là cái thấy về thigle (bindu), các phần tử xuất hiện một cách khách quan trong không gian trước mặt.
Sau đó chúng ta có vấn đề then chốt để thực hành. Lối vào ban đầu đối với sự thực hành là nhờ nhãn quan và cách nhìn thích hợp. Ta nên cố gắng giữ con mắt thật yên. Trước tiên, có cách nhìn của pháp thân là nhìn lên không gian với một tiêu điểm thật yên tĩnh. Việc duy trì cái nhìn pháp thân này tự động cắt đứt tri giác mê lầm. Thứ hai là cách nhìn báo thân, là nhìn thẳng vào không gian trước mặt. Cách nhìn này đem lại tri giác thuần tịnh về trí huệ nguyên thủy. Thứ ba là cách nhìn hóa thân, là nhìn hướng xuống cho ta khả năng kiểm soát sinh khí và tâm vi tế của ta. Đây là ba cách nhìn trong khi thực hành tošgal.
Có hai đối tượng bên ngoài mà ta tập trung vào bằng cái nhìn : phạm vi bên ngoài và phạm vi bên trong. Phạm vi bên ngoài là không gian không vướng bận bởi bất kỳ chướng ngại nào như những đám mây hay các vật thể được tạo dựng. Phạm vi bên trong là ánh sáng chói. Một lần nữa, phạm vi bên ngoài là không gian tự do đối với mọi dấu vết hay sai sót nào và phạm vi bên trong là ánh sáng thuần tịnh chính là giác tánh bẩm sinh của ta. Hai phạm vi này được hợp nhất nhờ sự thực hành. Ta dùng các đối tượng bên ngoài như mặt trời, mặt trăng hay một ngọn nến khi thực hành.
Cuối cùng, ta phải kiểm soát sinh khí. Phải biết cách nín khí (hơi), cách thở ra, và cách kiểm soát hơi thở bình thường trong ba giai đoạn này. Giáo lý này phù hợp với Bardo Pháp tánh bởi vì nếu thành tựu, khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện, ta sẽ không sợ hãi.
Bây giờ, tôi muốn quay trở lại việc thảo luận về các dấu hiệu của cái chết. Các dấu hiệu của cái chết rất cần được nhận ra khi cái chết đang nhanh chóng đến gần. Là chúng sinh trong sáu cõi, chúng ta không thể tránh khỏi việc gặp gỡ cái chết. Cái chết xảy đến bởi một trong hai lý do : sự cạn kiệt của nghiệp hay sự tấn công của các điều kiện, các tình huống hay các trở lực bất ngờ. Khi cái chết xảy đến do sự cạn kiệt của nghiệp và sinh lực, nếu là một tình huống may mắn thì ta có thể chết từ từ trên giường có bạn hữu và những thành viên trong gia đình vây quanh. Tình huống này không ít thì nhiều có thể thoải mái hơn, và các giai đoạn của cái chết sẽ trở nên rõ ràng trong một trật tự tiệm tiến liên tiếp. Một cái chết bất ngờ thì không nhất thiết là do sự cạn kiệt của nghiệp. Đúng hơn, nó phải thực hiện với sự tấn công của một trở lực lấy đi mạng sống của ta, như một tai nạn xe hơi hay một xáo trộn về các đại trong việc bị sét đánh. Khi ấy không có các giai đoạn tan rã nhưng thật đột ngột, ta có kinh nghiệm về trạng thái không ý thức là giai đoạn sau cùng của ba giai đoạn tan rã : sự xuất hiện của màu trắng, sự xuất hiện của màu đỏ và sự thoáng ngất tối sầm đột ngột vào lúc chết. Trong trường hợp cái chết thình lình, ba giai đoạn đó xảy ra nhưng chúng sẽ không được nhận ra. Kinh nghiệm sẽ rất thô lậu và nặng nề, và ta sẽ lập tức rơi vào trạng thái thoáng ngất, không hiểu biết chút gì về điều xảy ra và sau đó tỉnh lại trong trạng thái trung ấm. Cách thức chết này thật khó khăn bởi nỗi đau khổ và vô minh to lớn mà nó đem lại. Khi các giai đoạn tan rã không rõ ràng thì còn khủng khiếp và sợ hãi hơn nữa trong bardo. Tốt hơn là ta có cơ hội để chết chậm rãi, trải qua một thời gian ở nơi mà ta có sự tỉnh giác nào đó về các giai đoạn tan rã. Nếu các bạn gặp cái chết bất thần thì cho dù các bạn là một hành giả Pháp, các bạn sẽ không có thì giờ để chuẩn bị bằng cách cử hành các bài khẩn nguyện và các thực hành khác mà có thể các bạn đã tu tập suốt đời mình. Các bạn sẽ không được tự do để tự quán tưởng mình là một bổn tôn bởi các bạn sẽ bị tóm lấy vào giây phút chết đó. Đây là lý do khác của việc tại sao điều quan trọng là các hành giả Dzogchen phải duy trì sự tỉnh giác về giác tánh nội tại và an trụ trong cái thấy (kiến) ở mọi lúc.
Nếu bản thân các bạn quen thuộc với pháp phowa trong đời các bạn, quen thuộc việc quán tưởng tâm các bạn như một quả cầu ánh sáng trí huệ được phóng thẳng lên kinh mạch trung ương như một ngôi sao băng và thoát ra đỉnh đầu các bạn đi vào cõi thuần tịnh hay trái tim của Đức Phật, nếu các bạn đã từng phát triển một thói quen mạnh mẽ là đưa tâm thức mình đi lên và ra ngoài, và lập đi lập lại điều này, thì có thể ngay cả trong trường hợp một cái chết bất ngờ, đây sẽ là nơi mà tâm thức có thể xuất ra khỏi thân thể. Một hành giả Dzogchen cần luôn luôn duy trì sự tỉnh giác vào mọi lúc. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu các bạn may mắn, các bạn sẽ không chết bất ngờ trong đời này và sẽ có cơ hội để chết trên giường các bạn, với thuốc thang hảo hạng, có các bác sĩ, y tá và những người thân yêu ở xung quanh. Các bạn sẽ có tự do để thực hiện sự thực hành của mình. Và trong cách này, các bạn sẽ có cơ hội để quán tưởng các giai đoạn của sự tan rã. Ở mặt khác, tôi nói cho các bạn rõ là ngay cả việc tưởng tượng các giai đoạn này cũng là điều cực kỳ khó khăn. Vào lúc chết, nếu các bạn không có sự tỉnh giác hay căn bản của sự thực hành, thì trong trường hợp một cái chết bất ngờ, các bạn sẽ chỉ rơi vào một trạng thái mất ý thức còn nặng nề hơn bất kỳ giấc ngủ sâu nào mà các bạn từng kinh nghiệm. Khó mà đảo ngược lại được, cho dù các bạn đang chết từ từ. Nếu các bạn không tỉnh giác về sự tan rã, các bạn sẽ bị đánh bại bởi sự hôn trầm nặng nề của tiến trình hấp hối. Sẽ là một sự tràn ngập khủng khiếp khi ba giai đoạn xảy ra. Các bạn sẽ không được tự do để kiểm soát nó trừ khi các bạn có thói quen về Pháp rất mạnh mẽ. Cực kỳ khó khăn để làm điều gì đó trong lúc này. Nó không giống như bất kỳ giây phút nào khác. Tâm thức bị tràn ngập. Dù ta chết bởi sự cạn kiệt của nghiệp hay bởi một điều kiện (duyên) bất ngờ, thì trong ý nghĩa nào đó chúng cũng giống nhau ít nhiều. Các bạn phải tu tập và chuẩn bị bất cứ điều gì.
Sự cạn kiệt của nghiệp cũng có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Các bạn có thể chết khi các bạn còn trẻ hay khi già đi. Có thể vào bất cứ lúc nào. Khi thần chết đến thăm các bạn, chào hỏi, và đưa các bạn sang trạng thái tái sinh kế tiếp, các bạn sẽ kinh nghiệm kết quả của những nguyên nhân mà các bạn đã tích tập trong đời này. Thời gian mà các bạn dâng hiến cho sự thực hành Pháp sẽ là kho công đức các bạn mang theo mình. Công đức này sẽ kéo dài bao lâu mà năng lực của nó tồn tại, nó được đặt nền trên sức mạnh của sự tích tập của nó. Đó là những gì sẽ thúc đẩy các bạn đi vào trạng thái tái sinh kế tiếp của các bạn, dù là tái sinh như một vị trời, người hay bất kỳ loại thân tướng nào có thể. Rõ ràng là các bạn phải nhận thức rằng karma (nghiệp) là thật có. Được đặt nền trên định luật nhân quả, kết quả của sự thực hành Pháp là đức hạnh và hạnh phúc.
Có nhiều người trong căn phòng này tối nay, và mọi người trông rất khác biệt nhau. Ai nấy đều có vẻ khác nhau. Mọi người có những thái độ khác nhau, hiểu biết các giáo lý bằng những cách khác nhau, có một đời sống gia đình khác nhau, mức độ giàu có khác nhau và v.v… Căn nguyên của mọi sự này là nghiệp. Thọ mạng mà các bạn sẽ trải qua, dù dài hay ngắn, thì hoàn toàn do bởi nghiệp của các bạn, và chỉ có nghiệp của các bạn là sẽ quyết định các bạn sống thọ bao lâu và các bạn sẽ có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cho giây phút quan trọng đó.
Ở Tây Tạng, hầu hết mọi người chết vì ăn uống không thích hợp. Tôi không biết trong quốc gia này đa số các bạn chết ra sao, nhưng đó là nguyên nhân cái chết của phần lớn người Tây Tạng. Dù bất kỳ tình huống nào, điều đầu tiên sẽ xảy ra cho người hấp hối là họ sẽ không nghe rõ ràng các lời nói chuyện. Mọi âm thanh sẽ trở nên mơ hồ, và khi thời gian qua đi người hấp hối sẽ không hiểu được điều gì diễn ra quanh họ. Đây là sự bắt đầu của tiến trình chết. Sau đó thịt tan vào địa đại. Các chất lỏng tan vào thủy đại. Rồi hơi ấm trong thân tan vào hỏa đại. Khi tâm thức tan vào không gian (không đại), đó chính là giây phút các kinh nghiệm về “con đường trắng”, “con đường đỏ”, và “con đường đen” xảy ra.
Như thế, đi ngược lại tiến trình, thịt, xương và mỡ của chúng ta, tất cả những thứ ấy bắt nguồn từ địa đại tan trở lại vào địa đại. Khi các chất lỏng tan trở lại vào nước, chúng chảy ra ngoài thân thể mà không kiểm soát được. Hơi ấm của thân thể tan vào hỏa đại. Hơi thở tan vào gió và gió-ở khắp lưu hành khắp trong thân thể ta tan vào gió của chất tinh túy của đời sống. Vào lúc này hơi thở bên ngoài chấm dứt. Điều này xảy ra trước sự ngưng dứt của hơi thở bên trong, vào lúc đó 84.000 loại mê lầm chấm dứt. Sau đó các loại gió (khí) khác tan rã. Có năm loại gió (khí) chính. Gió-ở khắp tan thành gió của đời sống. Sau đó là sự tan rã của gió tràn lên, gió dồn xuống, và các gió hơi ấm và hấp thu, tất cả chúng đều tan rã. Khi những gió này tan rã ta không bất có bất kỳ kinh nghiệm cảm xúc nào nữa. Tiến trình tan rã này xảy ra cho tất cả chúng sinh trong vòng sinh tử nhưng khi họ không nhận ra tiến trình và không có sự tỉnh giác, họ lại tiếp tục tái sinh và cứ lập đi lập lại như thế. Trong sự tái sinh đó, họ tích tập thêm nghiệp tiêu cực và nhận ra tái sinh khác. Chúng sinh bị mắc bẫy trong vòng tái sinh bất tận này được đặt nền tảng trên nghiệp tiêu cực. Cực kỳ quan trọng là phải có sự tỉnh giác nào đó về tiến trình này để các bạn có thể duy trì tỉnh thức trong nó và đạt được giải thoát nhờ sự tỉnh giác đó.
Hạt giống (chủng tử) mà ta nhận từ người cha lúc thụ thai, nó từ đỉnh đầu đi xuống kinh mạch trung ương. Lúc đó ba mươi ba ý niệm được đặt nền trên sự sân hận bị ngưng lại và có kinh nghiệm về tia sáng trắng, nơi đó mọi sự trở nên trắng như một vầng trăng tròn xuất hiện trong không gian. Khi điều này xảy ra ta sẽ không tỉnh lại từ tiến trình hấp hối. Vào giai đoạn này, không thể thay đổi gì được nữa. Rồi hạt giống đỏ được nhận từ người mẹ lúc thụ thai đi lên kinh mạch trung ương tới tim. Điều này được kinh nghiệm như một tia sáng đỏ, giống như một mặt trời sáng chói, và vào lúc đó bốn mươi ý niệm được đặt nền trên sự tham muốn bị ngưng lại. Khi hai hạt giống này được hợp nhất ở trung tâm tim, ta kinh nghiệm sự thoáng ngất tối đen của giây phút chết. Khi hạt giống trắng rơi từ đỉnh đầu xuống trái tim thì cũng có một kinh nghiệm về hỉ lạc đang tràn ngập và không giống bất kỳ hiện tượng nào xảy ra trong các trạng thái tỉnh giác khác. Ta hoàn toàn bị kiệt quệ bởi kinh nghiệm hỉ lạc này. Khi hạt giống đỏ đi lên trái tim, lúc tia sáng đỏ xảy ra, ta có kinh nghiệm về sự trong sáng tương ứng với sự tham muốn. Khi hai hạt giống hợp nhất trong tim, sự thoáng ngất đen tối xảy ra, có một kinh nghiệm mãnh liệt về bóng tối dày đặc. Vào lúc đó, các ý niệm được liên kết với sự mê lầm bị ngưng lại và vào lúc đó ta chết.
Kinh nghiệm hỉ lạc xảy ra tương tự như sự hỉ lạc được kinh nghiệm trong hoạt động tính dục. Khi tâm thức được thụ thai trong tử cung của bà mẹ, trong hành vi tính dục của cha mẹ, do khuynh hướng nghiệp nó đi vào miệng người cha, đi xuống và qua cơ quan của cha, đi vào cơ quan của mẹ, tan hòa trong hạt giống của mẹ và sự thụ thai xảy ra. Tâm thức kinh nghiệm hỉ lạc vào lúc thụ thai. Đây cũng là loại hỉ lạc được kinh nghiệm bởi người hấp hối khi hạt giống trắng rơi xuống tim. Nó được gọi là kinh nghiệm ban đầu-đồng xuất hiện về hỉ lạc, nó chỉ lập lại chính nó vào lúc chết. Đối với một hành giả mật thừa đã quen thuộc với các thực hành tương ứng với quán đảnh thứ ba, sự thực hành anu yoga quét sạch các khuynh hướng vi tế hấp dẫn tới kinh nghiệm hỉ lạc này. Một hành giả Dzogchen có phẩm chất thực hành với một phối ngẫu có thể tạo nên kinh nghiệm hỉ lạc này để thấu suốt bản tánh của nó và tịnh hóa các khuynh hướng trong một chiều hướng bình thường. Điều này được thành tựu qua sự thực hành được gọi là thực hành Không-Lạc của bốn niềm vui. Sự thực hành này thiết lập các tình huống nhờ đó ta có thể tẩy bỏ các thói quen của hỉ lạc bình thường. Đây là năng lực của sự thiền định thuộc giai đoạn thành tựu.
Khoảng thời gian khi tâm thức kinh nghiệm sự thoáng ngất thường kéo dài khoảng ba ngày, mặc dù trong trường hợp của một hành giả nó có thể kéo dài bảy ngày hay hơn nữa. Một khi trạng thái này chấm dứt, người hấp hối kinh nghiệm sự ló rạng của ánh sáng căn bản xuất hiện như con đường đi tới giải thoát. Nếu họ đã là một hành giả Dzogchen và đã thiền định về giác tánh nội tại trống không, thì thậm chí chỉ ba phút của sự thiền định đó cũng được nhân đôi lên vào lúc này trong Bardo. Nó cho ta một cơ hội tốt hơn để đạt được giải thoát khi tịnh quang mẹ xuất hiện và được nhận ra. Việc nhận ra tịnh quang thì thật huy hoàng bởi vì toàn bộ nền tảng của trái đất, tất cả các hiện tượng, chuyển hóa thành ánh sáng xanh dương tinh tế chói lọi và ta nhận thức được mình là thành phần của sự phô diễn vĩ đại này của ánh sáng xanh dương, là cái gì hoàn toàn thanh tịnh, nguyên sơ và tinh khiết. Nó là một màu xanh dương đầy khí lực tỏa khắp mọi phương diện của các hiện tượng. Nhận ra kinh nghiệm này nhờ sự thiền định của ta về giác tánh nội tại trống không có nghĩa là ta sẽ nhận ra được tịnh quang mẹ và đi lên mười cấp bậc cùng năm con đường đạt tới giải thoát trong Báo Thân, sự đánh thức Pháp Thân. Việc quen thuộc với và bắt gặp tịnh quang mẹ này khi nó ló rạng là điều quan trọng duy nhất mà các bạn có thể học hay thực sự thực hành trong đời. Điều quan trọng là mỗi người trong các bạn cần thấu suốt và trở nên quen thuộc với các giai đoạn tan rã và hiểu rõ rằng cái tiếp theo sau đó là sự ló rạng của ánh sáng căn bản. Nếu điều này được nhận ra, đó là cơ hội của các bạn để đạt được giác ngộ. Nếu các bạn biết cách thành tựu nơi an nghỉ bất biến này, thì đây là cái gì tách lìa vô minh với sự giải thoát. Đây là ranh giới mà các bạn vượt qua từ sinh tử tới niết bàn. Đây là sự chứng ngộ sự thuần tịnh nguyên thủy. Tôi không thể nhấn mạnh tầm quan trọng của điều này. Mọi việc tu tập của các bạn, mọi sự các bạn làm trên con đường tâm linh đều nằm trong sự chuẩn bị cho giây phút đó. Nó là một giây phút tự nhiên. Các bạn phải biết cách gặp gỡ nó để đạt được giải thoát. Sau giây phút đó, các hiện thân và các phân tử của ánh sáng xuất hiện và nhờ năng lực của thực hành trekchod và tošgal của các bạn, các bạn có một cơ hội để đạt được giải thoát. Bằng năng lực của thực hành trekchod và tošgal, các bạn có thể đạt được giải thoát vào giây phút ánh sáng căn bản ló rạng nhờ sự nhận ra giác tánh nội tại trống không.
Không gì tốt đẹp hơn điều này. Cái gì có thể tốt hơn? Giả sử các bạn học với một trăm đạo sư, các bạn chẳng bao giờ có thể gặp được giáo lý nào cao hơn giáo lý này. Không gì cao hơn Dzogchen. Tại sao lại còn lo thực hành giáo lý gì khác? Nếu các bạn cho rằng có thứ gì tốt đẹp hơn nó thì hay hơn cả là các bạn có thể nhảy xuống biển.
Trước khi chết, các bạn cần thấu suốt rằng bản tánh của mọi hình tướng là sự phô diễn của rigpa, giác tánh nội tại trống không. Các bạn cần duy trì cái thấy Dzogchen để các bạn không lạc mất chỗ của mình, để các bạn không bỏ lỡ cơ hội thành tựu nơi an trú bất biến này. Các bạn nên biết rằng ngoài nền tảng giác tánh nội tại và sự phô diễn của nó, mọi sự đều là vô minh. Tịnh quang nền tảng, ánh sáng căn bản, là sự xuất hiện xanh dương tỏa khắp của không gian, thì không có các giới hạn và biên cương dù thế nào đi nữa. Ngay cả thân thể bạn cũng không là gì khác hơn không gian. Nó giống như sự chiếu sáng của mặt trời và mặt trăng nhưng không có vật gì trong đó. Nó là kinh nghiệm về giác tánh bẩm sinh trống không mà bản thân các bạn phải tự làm quen thuộc nhờ sự thực hành. Nó là kinh nghiệm về Pháp Thân. Tất cả các yogin, yogini, tulku, lama Dzogchen vĩ đại, tất cả những hành giả xuất sắc đó đều trải qua đời mình trong sự thiền định, hộ trì giác tánh nội tại của con đường. Hãy biết rằng khi ánh sáng căn bản, tịnh quang mẹ, tự phô diễn, nó huy hoàng một cách tuyệt đối, và khi các ngài nhận ra nó, các ngài hoàn toàn giải thoát trong cõi thanh tịnh của Pháp Thân. Các bạn có hiểu điều đó không? Tôi tự hỏi rằng các bạn có hiểu điều đó không và các bạn có nghĩ rằng các bạn muốn thiền định, có nghĩ rằng các bạn có khả năng để tự chuẩn bị bằng cách thiền định về giác tánh nội tại trong đời này để các bạn sẽ nhận ra được ánh sáng mẹ khi nó xuất hiện vào lúc chết. Đó có phải là điều mà các bạn có thể?
Một bậc đã được giải thoát trong ánh sáng căn bản vào lúc chết sẽ biểu lộ các dấu hiệu vật lý của sự thành tựu đó. Thân các ngài sẽ được đánh dấu với những chữ OM AH và HUNG. Các cầu vồng sẽ xuất hiện vào lúc chết và trong tro hỏa thiêu của các ngài sẽ hiện ra những xá lợi. Các bạn có tin điều đó không? Một trong những bậc thầy của tôi, ngài Akong Khenpo, đã sống đến chín mươi tuổi. Ngài là một yogi Dzogchen vĩ đại, là một khenpo ở Tu viện Tarthang và là một đệ tử tâm truyền của Dodrup Tenpei Nyima. Ngài là một đại thành tựu giả vĩ đại và bị giết chết khi quê hương ngài bị chiếm đóng. Khi Ngài mất, ngài có chữ HUNG ở trung tâm tim của ngài, trông nó như thể được vẽ bởi một bàn tay con người. Chữ này được vẽ bằng máu và được chạm nổi trên thi hài của ngài. Có một ngakpa khác có chữ dakini trên thi hài : các chữ BAM HA RI NI SA và các chữ khác. Các bạn có đức tin nơi các hành giả Dzogchen vĩ đại như các vị này và nơi các thành tựu của họ không?
Ánh sáng chói ngời này xảy ra trong bardo vào lúc chết và bản thân các bạn có thể quen thuộc với nó trong đời các bạn mỗi đêm khi các bạn đi ngủ. Các bạn có thể thực hành sự nhận ra các giấc mộng của mình hơn là rơi vào một trạng thái hôn trầm của giấc ngủ và giấc mộng bình thường. Nếu các bạn có thể thực sự có một giấc mộng minh bạch, các bạn nên tăng trưởng khả năng của mình để làm điều đó, khiến cho cái thấy Dzogchen và sự thực hành thiền định của các bạn là những gì các bạn thực hiện vào ban ngày, sẽ được đem vào trạng thái mộng. Khi ấy thay vì các giấc mộng các bạn sẽ có thể duy trì giác tánh trống không suốt ngày và đêm. Các bạn có nghĩ rằng mình có thể làm được điều đó? Nếu các bạn có thể, nó có nghĩa là các bạn sẽ nhận ra ánh sáng mẹ vào lúc chết. Nếu các bạn nghĩ rằng mình có thể làm được điều đó, thì ngay bây giờ các bạn có thể chuẩn bị cho sự giải thoát trong bardo bằng cách thành tựu giác tánh rigpa trong trạng thái mộng. Vào lúc chết, các hiện tượng của bardo này mà tôi đã giảng cho các bạn thì giống như các hiện tượng của trạng thái mộng. Tôi muốn tất cả các bạn hiểu điều này thật rõ ràng. Chúng là những kinh nghiệm rất giống nhau. Nếu các bạn có thể nhận ra và kiểm soát nó trong trạng thái mộng, thì các bạn sẽ nhận ra nó vào lúc chết. Tôi muốn biết các bạn có thể thực hiện điều này hay không. Ở đây khi trước có ai đã từng nhận ra một giấc mơ không? (Một vài người trả lời “có”) Thật không? (Tiếng cười). Khi các bạn nghĩ về các hiện tượng hay những sự xuất hiện vào ban ngày và các sự xuất hiện vào ban đêm, các sự xuất hiện trong trạng thái mộng, các bạn bất lực trong việc kinh nghiệm chúng. Cũõng thế, khi các bạn chết và ở trong bardo, các bạn bất lực trong việc kinh nghiệm các hiện tượng. Các bạn có nghĩ là có một sự liên quan không?
CHƯƠNG 8
BARDO PHÁP TÁNH
Tối nay chúng ta sẽ tiếp tục với Bardo Pháp tánh. Tôi đã giảng chút ít về ánh sáng căn bản hay ánh sáng mẹ. Đứa con, hay ánh sáng con đường hợp nhất với mẹ, ánh sáng nền tảng, và trong lúc đó sáu pháp cao cả của Dzogchen được hoàn thành. Ta thành tựu thân cái bình mãi mãi trẻ trung trong trạng thái thuần tịnh nguyên thủy tinh khôi.
Nếu ánh sáng đó không được nhận ra thì trong không gian màu xanh dương sáng chói này, Đức Phật Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) xuất hiện từ cõi Hiển lộ Sâu rộng ở trung tâm. Ngài có màu trắng và vây quanh ngài là một hội chúng các bổn tôn nam và nữ sáng chói như một triệu mặt trời cùng chiếu rọi đồng thời lên mặt ta. Hội chúng chói lọi đến nỗi các bạn khó có thể nhìn thấy. Hãy thử tưởng tượng xem nó có thể tràn ngập rộng khắp thế nào. Từ trái tim của Đức Phật Vairocana trong sự hợp nhất với vị phối ngẫu của ngài, Nữ Hoàng Không gian Kim cương, phát ra một tia sáng màu xanh dương, trí huệ nguyên thủy của Pháp giới. Tia sáng này hướng trực tiếp đến các bạn, móc vào hay nối kết với trái tim các bạn. Cùng lúc đó một tia ánh sáng trắng rất nhạt cũng đi vào trái tim các bạn. Đó là con đường đi tới cõi trời (thiên giới). Bằng cách chỉ tập trung vào ánh sáng xanh dương chói ngời, trí huệ nguyên thủy của Pháp giới, các bạn sẽ nối kết với trái tim của Đức Phật Vairocana và đạt được giải thoát, trở thành một Báo thân Phật trong cõi Phật Trung tâm được gọi là Hiển lộ Sâu rộng. Nếu các bạn không nhận ra sự hiển lộ này, nó tan biến và kinh nghiệm kế tiếp xuất hiện.
Từ phương đông, một ánh sáng trắng sáng chói tràn ngập, Đức Phật Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa) xuất hiện, được vây quanh bởi hội chúng của ngài gồm các bổn tôn nam và nữ. Một lần nữa ánh sáng trắng chói ngời này như một triệu mặt trời chiếu sáng trực tiếp trên mặt các bạn. Đức Phật Vajrasattva ở trung tâm của sự phô diễn ánh sáng chói lọi này, trong sự hợp nhất với vị phối ngẫu của ngài là Đức Phật-Locana, Phật Nhãn. Từ trái tim Phật Vajrasattva phát ra một tia sáng trắng chói sáng như-gương tan hòa vào trái tim các bạn. Đồng thời, một ánh sáng có màu xám như màu khói là con đường đi tới cõi địa ngục cũng đi vào trái tim các bạn. Bằng cách tập trung vào ánh sáng chói sáng như-gương, các bạn sẽ lập tức đạt tới giải thoát như một Báo thân Phật trong cõi thuần tịnh Hỉ Lạc Hiển lộ. Nếu các bạn không nhận ra Đức Phật Vajrasattva và ánh sáng của trí huệ như-gương đang vẫy tay ra hiệu cho các bạn đi tới giải thoát trong cõi thuần tịnh phương đông thì nhanh như một ngôi sao băng vụt qua, sự xuất hiện biến mất.
Vào ngày thứ ba, từ phương nam, ánh sáng màu vàng tràn ngập mọi hướng trong không gian. Ở trung tâm của sự phô diễn màu vàng là Đức Phật Ratnasam-bhava (Bảo Sanh) trong sự hợp nhất với vị phối ngẫu Mamaki của ngài. Từ trái tim ngài phát ra ánh sáng vàng của trí huệ nguyên thủy thuộc tánh bình đẳng, ánh sáng vô-phân biệt, nối kết trực tiếp với trái tim các bạn. Cùng với nó là một ánh sáng xanh dương nhạt, là con đường đi tới cõi người, cũng nối kết với trái tim các bạn. Nếu các bạn có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Phật Ratnasam-bhava và tập trung ở ánh sáng vàng chói lọi, các bạn sẽ đi vào trái tim ngài và đạt được giải thoát như một Báo Thân Phật trong cõi thuần tịnh Ân phước Vinh quang.
Vào ngày thứ tư, Đức Phật Amitabha (A Di Đà) xuất hiện từ phương tây. Có một sự phô diễn rộng lớn của ánh sáng đỏ tràn ngập không gian từ mọi phía. Ở trung tâm của ánh sáng này là Đức Phật A Di Đà trong sự hợp nhất với vị phối ngẫu Pandaravasini – Bậc Mặc Áo Trắng – của ngài cùng xuất hiện với hội chúng các bổn tôn của Liên Hoa bộ và vây quanh bởi sáu hội chúng nữa chói sáng rực rỡ giống như một triệu mặt trời. Từ trái tim Đức Phật A Di Đà, một giòng ánh sáng đỏ của trí huệ nguyên thủy của giác tánh phân biệt, nối kết với trái tim các bạn và đi cùng với nó là một ánh sáng vàng rất mờ, là con đường đi tới cõi ngạ quỷ, cũng nối kết với trái tim các bạn. Vào lúc này, đừng chú tâm tới màu vàng mờ đục của cõi ngạ quỷ. Hãy chỉ tập trung vào sự hiển lộ ánh sáng đỏ chói lọi của tâm Đức Phật A Di Đà, trí huệ của giác tánh phân biệt, đi vào trái tim Đức A Di Đà và đạt sự giải thoát như một Báo Thân Phật trong cõi Cực Lạc. Nếu các bạn không nhận ra Đức Phật A Di Đà thì nhanh như một vì sao băng vụt qua, sự hiển lộ biến mất.
Vào ngày thứ năm, Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu) có màu xanh lá cây, xuất hiện và được hội chúng của ngài gồm các bổn tôn nam và nữ thuộc Nghiệp bộ vây quanh. Sự phô diễn chói lọi của ánh sáng sẽ tràn ngập không gian như một triệu mặt trời sáng chói. Từ trái tim Đức Phật Amoghasiddhi, hợp nhất với vị phối ngẫu Samaya-Tara của ngài, phát ra một giòng ánh sáng xanh lá cây chói lọi, ánh sáng của trí huệ nguyên thủy của hành động thành tựu viên mãn. Nó nối kết với trái tim các bạn và đi cùng với nó sẽ là một ánh sáng đỏ dịu là con đường đi tới cõi trời ganh tị cũng nối kết với trái tim các bạn. Bằng cách tập trung vào ánh sáng xanh lá cây chói sáng này, các bạn sẽ hợp nhất với Đức Phật Amoghasiddhi và đạt được giải thoát như một Báo Thân Phật trong cõi thuần tịnh của Hoạt Động Thành Tựu Viên Mãn.
Đây là các cõi thuần tịnh của năm vị Phật Thiền và hội chúng của các ngài. Các cõi này chỉ được nhận ra bởi các hành giả mật chú. Ngay cả những người đã từng thực hành con đường Bồ tát và đã giữ giới luật tu sĩ sẽ thấy là khó có thể đạt tới giải thoát vào lúc này. Chỉ những người đã thực hành mahayoga của giai đoạn phát triển, anuyoga của giai đoạn thành tựu và atiyoga bất nhị là sẽ không gặp khó khăn vào lúc này. Duy chỉ một hành giả mật chú đã thể hiện tri giác thanh tịnh về sự hiện hữu hiện tượng là sẽ nhận ra các xuất hiện này và đạt được giải thoát.
Khi nói đến các thời kỳ này như chánh định hay sự nhập định, kinh nghiệm về thời gian thì gấp đôi thời gian của cõi người. Nếu các bạn ở trong sự nhập định một giờ đồng hồ trong đời các bạn thì sự nhập định trong bardo sẽ tương đương khoảng hai giờ. Nếu các bạn đã an trú một giờ trong giác tánh nội tại trống không mà không phóng tâm trong đời các bạn, thì nó sẽ kéo dài hai giờ trong bardo.
Vào ngày đầu tiên, có sự xuất hiện của Đức Phật Vairocana. Ngày thứ hai, Đức Phật Vajrasattva xuất hiện. Ngày thứ ba, Đức Phật Ratnasambhava xuất hiện. Vào ngày thứ tư, Đức Phật Amitabha xuất hiện. Vào ngày thứ năm, Đức Phật Amoghasiddhi xuất hiện.
Vào ngày thứ sáu, tất cả năm Đức Phật Như Lai và sáu các Đức Phật của sáu cõi sinh tử đồng thời xuất hiện. Nếu ta nhận ra Đức Phật này ta sẽ được giải thoát trong năm cõi Phật, một cách tương ứng.
Vào ngày thứ bảy, có sự xuất hiện của các vị vidyad-hara. Nếu ta nhận ra các vidyadhara, ta sẽ đạt được giải thoát trong cõi Phật trung tâm Hiển lộ Sâu rộng. Điều này kết thúc sự xuất hiện của bốn mươi hai bổn tôn hòa bình của Báo Thân hiện ra trong tim các bạn và xuất hiện trước các bạn. Các ngài là sắc tướng thuần tịnh của những phóng chiếu của chính các bạn vì thế hãy nhận ra các ngài như thế. Tất cả những thị kiến này xuất hiện từ trung tâm tim của các bạn.
Sau khi sự xuất hiện của các bổn tôn hòa bình đã xảy ra, năm mươi tám bổn tôn phẫn nộ sẽ xuất hiện. Các ngài là những biến hóa của các bổn tôn hòa bình. Các ngài xuất hiện như sau : Đức Phật Heruka, Vajra Heruka, Ratna Heruka, Padma Heruka và Karma Heruka.
Vào ngày thứ tám, Đức Phật Heruka sẽ hiện ra từ trong óc các bạn. Ngài có màu đen-đỏ với ba đầu, sáu tay và bốn chân, ngài la hét HA và HUNG và những âm thanh phẫn nộ khác. Ngài đeo tám vật trang sức của mộ địa, đứng trong một đống lửa trí huệ nguyên thủy chói lọi sáng như một triệu mặt trời. Ngài có năng lực di chuyển trái đất. Âm thanh của các tiếng rít nhức óc và các tiếng thét khiếp đảm vang dội từ mọi phía. Đây là một hiển lộ kinh hoàng và khủng khiếp và trừ phi đã từng là một hành giả của các thực hành bổn tôn phẫn nộ, các bạn sẽ quay mặt đi với sự xuất hiện đó nhanh chóng như các bạn có thể tưởng tượng. Nhưng nếu các bạn đã thực hành Vajrakilaya hay Yamantaka hoặc bất kỳ các bổn tôn nào khác, thì các bạn sẽ nhận ra sự xuất hiện này như con đường của sự thực hành và hợp nhất với hiển lộ phẫn nộ đó, phù hợp với các đặc tính rõ ràng của ngài. Những người từng thực hành bổn tôn như Chara-samvara, Guyasamaja, Kalachakra, Hevajra, Vajrasattva v.v… – nếu họ chỉ đơn thuần tập trung mạnh mẽ nơi bổn tôn của họ khi ngài xuất hiện vào lúc đó, họ sẽ đi thẳng đến cõi thuần tịnh thuộc Báo Thân và đạt được giải thoát.
Vào ngày thứ chín, sự hiển lộ uống máu của Kim Cương bộ, Đức Vajra Heruka sẽ hiện ra từ góc phía đông của não bộ các bạn. Ngài có màu xanh dương đậm với ba đầu sáu tay.
Vào ngày thứ mười, sự hiển lộ uống máu của Bảo Sanh bộ. Đức Ratna Heruka sẽ xuất hiện trước các bạn từ góc phía nam não bộ của bạn. Thân ngài màu vàng đậm.
Vào ngày thứ mười một, Đức Padma Heruka sẽ xuất hiện từ góc phía tây não bộ của các bạn. Ngài màu đỏ đậm với ba đầu, sáu tay và bốn chân.
Vào ngày thứ mười hai, Đức Karma Heruka sẽ hiện ra từ góc phía bắc não bộ của các bạn và xuất hiện trước các bạn. Thân ngài có màu xanh lá cây đậm với ba đầu, sáu chân và bốn tay.
Đây là cách hiển lộ phẫn nộ của năm vị Phật và các phối ngẫu của các ngài sẽ xuất hiện theo thứ tự liên tiếp và nếu không được nhận ra các ngài sẽ nhanh chóng tan biến như đã xuất hiện. Sau tám sự xuất hiện này, tám gaury, tám pisaci, tramen và tám dakini đầu sư tử xuất hiện. Đây là tất cả bổn tôn phẫn nộ xuất hiện với một đầu và hai tay, hai mươi tám wangchukma cũng sẽ xuất hiện. Bốn yogini canh cửa sẽ xuất hiện. Vị gác cửa phía đông, màu trắng, có một đầu-chim cu cu và cầm một cái móc sắt. Vị canh cửa ở phương nam, màu vàng, có một đầu dê và cầm một dây thòng lọng. Vị canh cửa phương bắc, màu xanh lá cây đậm, có một đầu rắn và cầm một cái chuông. Vị canh cửa phương tây, màu đỏ, có một đầu sư tử và cầm một dây xích sắt. Họ xuất hiện theo thứ tự liên tiếp.
Tất cả các bạn là các hành giả Kim Cương thừa may mắn, cần phải nhận ra cái này là Bardo Pháp tánh khi nó xuất hiện và nhận ra nó là một phô diễn của giác tánh giác ngộ của chính các bạn. Điều này cũng xuất hiện cho tất cả chúng sinh trong sáu cõi, thậm chí với cả một con kiến bé tí, nhưng vấn đề là họ có thể nhận ra nó hay không. Nếu không, thì sẽ phải tiếp tục lang thang trong sanh tử luân hồi. Bốn mươi hai bổn tôn hòa bình này an trú trong tim các bạn, được bao hàm trong thân cái bình ở trung tâm tim. Các ngài là một phô diễn hay bản tánh tỉnh giác nội tại của chính các bạn, an trụ ở đó như thân của Phật tánh các bạn, thân này là một hiện thân mãi mãi trẻ trung không biết tới những giới hạn của sinh, lão, bệnh, tử.
Khi các bạn thực hành tošgal, liên kết với các hạt ánh sáng và giác tánh nội tại, các bạn đang chuẩn bị để nhận ra các sự xuất hiện trên con đường trong đời này. Khi các sự xuất hiện này phát sinh trong bardo, chúng phát sinh bởi vì khi các bạn rời bỏ thân thể mình, cái bình mãi mãi trẻ trung trong tim các bạn mở tung ra, thân thể các bạn thôi hoạt động và thức các bạn được tự do. Các hình ảnh xuất hiện trong mọi nơi chốn trong không gian như sự phô diễn của tâm các bạn không chút giới hạn. Vì thế hãy nhận ra chúng và hòa lẫn với chúng.
Các bổn tôn phẫn nộ trú trong trung tâm trống rỗng trong não bộ của các bạn. Vào lúc các bạn chết, các ngài sẽ xuất hiện như sự phô diễn đã từng ở đó trong đời các bạn. Hãy nhận ra các ngài và hãy giải thoát. Tất cả chúng sanh vô hạn như không gian, đều sở hữu các ngài bởi tất cả họ đều có Phật tánh, ánh sáng chói đồng-xuất hiện toàn khắp và không biết tới giới hạn nào.
Bây giờ các con trai và con gái may mắn, các bạn đã có được sự giới thiệu này, hãy nhận ra bản tánh của các bạn và hãy đạt tới giải thoát. Hãy để các dấu hiệu xuất hiện, chúng sẽ giải thoát các bạn khỏi những mê lầm của sanh tử. Hãy thâm nhập Phật tánh là cái không biết gì về các biên giới. Tôi đã ban tặng các bạn những giáo lý về Bardo Pháp tánh, vì thế đừng quên chúng.
Bây giờ, các bạn nói với tôi rằng các bạn có thể nhận ra được những giấc mơ của các bạn. Một số trong các bạn đã có thể thành tựu điều này. Tôi không thể, nhưng các bạn có thể, thật tốt đẹp cho các bạn. Hãy tiếp tục với sự thiền định quân bình của các bạn.
CHƯƠNG 9
SỰ XEM XÉT LẠI VỀ SÁU BARDO
Tôi muốn xem lại một cách vắn tắt sáu bardo. Bardo Đời Này là kinh nghiệm ta có từ khi sinh ra cho tới lúc chết. Đây là điều thật có đối với tất cả chúng sinh trong sáu cõi. Chúng sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời ganh tị và trời trường thọ, từ khi họ được thọ thai cho tới lúc chết thì ở trong Bardo Đời Này. Các bạn có hiểu điều đó không? Bardo mà ngay bây giờ chúng ta đang ở trong đó là Bardo Đời Này, và trong thời kỳ này chúng ta kinh nghiệm hai Bardo khác. Đó là Bardo Trạng thái Mộng và Bardo Thiền định. Chỉ có chúng sinh trong cõi người và có thể có một ít các vị trời và rồng là có kinh nghiệm về Bardo Thiền định. Trong chúng sinh ở cõi người, rất ít ai thực sự có kinh nghiệm Bardo Thiền định. Bardo Trạng thái Mộng cũng được kinh nghiệm bởi con người. Chúng sinh trong địa ngục và các ngạ quỷ không ngủ và vì vậy không có kinh nghiệm về Bardo Trạng thái Mộng. Một số súc sinh ngủ và một số thì không, vì thế kinh nghiệm về Bardo Trạng thái Mộng không là một việc xảy ra thường lệ đối với họ. Chúng sinh trong các cõi địa ngục, từ lúc sinh ra cho tới khi nghiệp của họ cạn kiệt, có thể dài bằng một triệu năm của loài người, không ngủ đến một nháy mắt và không biết điều gì hơn là sự đau khổ ghê gớm. Họ không bao giờ kinh nghiệm sự thỏa mãn hay vui thích của việc dùng thực phẩm và thực ra, họ không kinh nghiệm được sự thoải mái bất kỳ lúc nào. Trong toàn bộ thời gian ở trong các cõi địa ngục, họ chỉ kinh nghiệm nỗi khổ mãnh liệt. Cũng thế, các ngạ quỷ không bao giờ ngủ và chỉ kinh nghiệm đau khổ trong cõi ấy. Họ cảm thấy đói và khát mà không bao giờ được thỏa mãn. Nếu một con người sống năm mươi năm thì khoảng hai mươi năm trong những năm đó được dùng để theo đuổi các sinh hoạt hàng ngày. Nếu một người sống đến một trăm năm mươi năm thì năm mươi năm trong số đó được dùng để ngủ. Con người gần như tiêu mất nửa thời gian của họ để ngủ. Các bạn có hiểu điều đó không?
Chính trong đại kiếp đầu tiên của thời gian, con người có thọ mạng dài lâu. Thực ra, đó là một thời gian kỳ diệu. Hoa màu hiển hiện tự nhiên vì thế không cần phải trồng trọt hay thu hoạch mùa màng. Thực phẩm thật dồi dào. Quần áo mọc lên tự nhiên từ các lá cây. Áo lụa thêu kim tuyến phẩm chất hảo hạng nhất hiện ra một cách tự nhiên. Trong bầu trời không có mặt trời hay mặt trăng. Vào lúc đó, thân thể con người chói lọi ánh sáng. Một thân người hoàn toàn soi sáng được một căn phòng tối. Một trăm người có thể chiếu sáng toàn bộ một quốc gia. Mặt đất tràn đầy vàng và ngọc quý, các viên ngọc như ý và nhiều vật kỳ diệu. Kiếp đầu tiên này được gọi là Kiếp Dzogden. Không có kẻ thù, kẻ cướp, kẻ sát nhân hay kẻ trộm. Mọi sự đều toàn hảo. Như thế sau rất nhiều năm, dần dần mặt trời và mặt trăng xuất hiện trên bầu trời và có các mùa. Hoa màu phải trồng trọt, đôi khi chúng dồi dào và những lúc khác thì khan hiếm. Sự đau yếu, bệnh tật, kẻ thù và các hoàn cảnh bất lợi xuất hiện. Thọ mạng con người suy giảm và giờ đây vào thời gian hiện tại, được gọi là thời đại suy thoái, thọ mạng con người vào khoảng năm mươi năm. Nếu các bạn lấy ra một trăm người, có thể ba mươi người trong số đó sống bảy mươi tuổi hay già hơn và số còn lại thì tới năm mươi hoặc ít hơn. Đây là một thời đại suy thoái và cái chết xảy đến nhanh chóng.
Như chúng ta đã thảo luận trước đây, có hai nguyên nhân của cái chết, sự cạn kiệt của nghiệp và sự tấn công bất ngờ của các chướng ngại. Bất kỳ trường hợp nào xảy ra – một sự cố bất ngờ trong đó các bạn bị áp đảo bởi bệnh tật, một biến động của các yếu tố (các đại), hay chiến tranh – các bạn đang đến gần cái chết và các bạn cần chuẩn bị sẵn sàng. Đây là điều tôi đã cố gắng giới thiệu cho các bạn, và tôi muốn tất cả các bạn nhận ra rằng cái chết đang nhanh chóng đến gần và giờ đây các bạn cần nhớ lại Pháp, trước khi chết, và tự chuẩn bị. Nếu không thì mọi sự chúng ta đã làm trong ít ngày qua này sẽ thực sự rất vô nghĩa.
Điều trọng yếu là tỉnh thức về các giai đoạn tan rã, được gọi là sự xuất hiện, tăng trưởng và đạt đến. Đây là tia sáng trắng, tia sáng đỏ và kinh nghiệm cận tử ở đó tâm thức thoáng ngất đi. Sau đó là sự ló rạng của ánh sáng, một trạng thái được ám chỉ là ánh sáng căn bản của sự hoàn toàn đạt đến. Nếu các bạn có thể nhận ra kinh nghiệm tịnh quang mẹ thì các bạn sẽ gặp gỡ Pháp Thân và đạt được giải thoát từ chốn sinh tử. Nếu các bạn tiếp tục đi vào Bardo Pháp tánh, các bạn sẽ kinh nghiệm sự phô diễn toàn khắp của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện. Điều quan trọng là nhận ra rằng mọi sự đều là một biểu lộ của bản tánh các bạn. Nếu các bạn có các thangka và các bức tượng, hoặc cơ hội để ở gần chúng, thì điều này sẽ có ích lợi vì các bạn có thể tự quen thuộc với các hình ảnh của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ. Các bạn nên tôn kính các hình ảnh này. Nếu các bạn có thể nhận ra năm vị Phật và hội chúng của các ngài trong Bardo Pháp tánh, điều này sẽ đem lại lợi lạïc lớn lao cho các bạn bởi các bạn sẽ có cơ hội đạt được giải thoát. Các bổn tôn này là những người dẫn đường của các bạn để đi đến giải thoát và các bạn nên nghĩ tưởng như các ngài đến để hộ tống các bạn đi đến trạng thái giải thoát. Hãy có đức tin và lòng sùng mộ ở các ngài.
Khi tôi đi vào một giảng giải về Bardo Trở thành, sự kết thúc của Bardo chuyển di, tôi muốn các bạn lắng nghe cẩn thận. Khi Bardo Đời Này, Bardo Trạng thái Mộng, Bardo Thiền định và Bardo Vào Lúc Chết đã qua đi, ta đi vào Bardo Pháp tánh và sau đó vào Bardo Trở thành. Bardo Trở thành xảy đến ngay trước trạng thái tái sinh kế tiếp của ta và là một bardo ở đó ta thực sự đang lang thang trong một trạng thái vô minh trong thời kỳ trung gian. Các câu kệ gốc viết : “Giờ đây khi Bardo Trở thành trở nên rõ ràng với tôi, tôi sẽ tập trung tâm thức một cách nhất tâm và nỗ lực để kéo dài các kết quả của nghiệp tốt, đóng lại lối vào tử cung và nghĩ tưởng về cách kháng cự. Đây là lúc mà sự nhẫn nại và tư tưởng thanh tịnh được cần đến. Hãy từ bỏ sự ganh tị và hãy thiền định về đạo sư cùng vị phối ngẫu của ngài.”
Bardo Trở thành xuất hiện khoảng bảy ngày sau khi chết. Chắc chắn là nó sẽ xảy ra ít nhất ba ngày sau cái chết và lý do của những độ dài biến đổi của thời gian là bởi các hành giả kinh nghiệm Bardo Pháp tánh chậm hơn nữa khi họ gặp gỡ sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện. Trong hầu hết các trường hợp, Bardo Trở thành sẽ xảy ra khoảng bảy ngày sau cái chết. Đối với một người bình thường không từng thực hành trong đời này, Bardo Pháp tánh được kinh nghiệm như sự xuất hiện của hàng trăm và hàng ngàn mặt trời chiếu sáng đồng thời từ mọi hướng với các tia sáng có màu sắc khác nhau, cực kỳ chói lọi. Các màu sắc cầu vồng xuất hiện và từ trong sự phô diễn chói lọi của ánh sáng này hội chúng rộng lớn không thể nghĩ bàn gồm các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện. Các hiện tượng này có thể tiếp tục vài ngày và sẽ bất thần chấm dứt giống như mặt trời lặn, và sau đó ta sẽ kinh nghiệm bóng tối. Sẽ là một bóng tối bất ngờ, và tâm thức bardo có thể kinh nghiệm nó như sự sụp đổ của một trái núi hay tòa nhà lớn.
Rồi tâm thức bardo sẽ kinh nghiệm chính mình như một thân tâm thức. Nó sẽ nhìn thấy một căn nhà với nhiều lối vào khác nhau. Nếu nó có chiều hướng đi về các lối vào tầng hầm, các con đường sẽ dẫn đến các cõi địa ngục và ngạ quỷ. Nếu nó đi vào các lối vào bên tay phải, chúng dẫn tới các cõi trời ganh tị và trường thọ. Nếu nó bị hấp dẫn đi vào các lối bên trái, chúng dẫn tới cõi người.
Vì mọi người phải chết, tôi sẽ dạy cho các bạn thật rõ ràng và chính xác điều các bạn phải làm vào lúc chết. Hãy nghe kỹ điều này. Sau khi cái chết xảy ra, tâm thức vẫn ở trong thân xác, tử thi, ít nhất hai hay ba ngày. Sau thời gian ba ngày, tâm thức tự kinh nghiệm mình ra khỏi cái xác như một đứa bé trần truồng tám tuổi. Nó nhìn cái xác của mình và tình huống nó vừa lìa bỏ. Ngay cả trước đây ta bị mù, câm hay điếc trong đời, vào lúc này tất cả các khả năng sẽ được kinh nghiệm là hoàn hảo. Ta có thể nhìn thấy các thành viên trong gia đình và bằng hữu của mình nhưng họ không thể nhìn thấy người đã chết. Họ không thể nhìn thấy tâm thức bardo này. Vào lúc này trong bardo, xuất hiện bên tay phải của thân tâm thức là một người đàn ông màu trắng với một cái túi đựng đá và sỏi trắng ở trên lưng. Các viên sỏi này biểu thị đức hạnh mà ta đã tích tập từ xa xưa cho tới lúc này. Bên trái sẽ là một ma quỷ đồng-xuất hiện, màu đen, với một túi sỏi trên lưng biểu thị các ác hạnh mà ta từng tích tập. Hai người này, trắng và đen, mang trọng lượng của các hành vi thuộc về nghiệp của ta đối với tất cả vô số chúng sinh ở trong cả sáu cõi. Hai người này, cầm một cái bảng đá ghi các tích tập đức hạnh và ác hạnh của ta, xuất hiện với mọi chúng sinh vào giai đoạn này trong tiến trình chết và sẽ thực sự đi cùng thân tâm thức trong bardo như các người hộ vệ hay bảo hộ. Nếu ta sắp tái sinh trong địa ngục thì Shinje, Tử Thần, sẽ đến và hộ vệ ta đi tới cõi đó. Hai cai ngục đến từ cõi địa ngục, một với cái đầu khỉ không đuôi và một với đầu trâu nước, họ nắm cổ ta và dẫn ta đi xuống bảy tầng dưới mặt đất, ở dưới các tầng nước đến đô thị to lớn của cõi địa ngục. Thần Chết xuất hiện tay cầm một tấm gương phản chiếu mọi nơi tái sinh trong tương lai của ta. Điều này sẽ biểu thị rõ ràng dù ta sắp tái sinh là một vị trời, người hoặc bất kỳ loài nào.
Như thế, sau một thời gian, chúng sinh với một thân tâm thức trong bardo sẽ trở về thăm gia đình họ, nơi họ đã sống, để xem có phải họ đã thực sự chết hay không. Khi chúng sinh bardo đó khám phá ra rằng quả thực mình đã chết, họ sẽ yêu cầu các thành viên trong gia đình họ vui lòng thực hành Pháp nhân danh họ. Nhưng họ không thể được nghe và họ sẽ chỉ kinh nghiệm nỗi đau khổ ghê gớm. Không ai muốn có các kinh nghiệm này. Ngay cả các lama và hành giả Pháp cũng không mong đợi điều này. Nhưng tôi có thể chỉ cho các bạn rằng chắc chắn điều này đang đến. Nếu nó không đúng thì các giáo lý mà tôi đã từng chia sẻ với tất cả các mọi người trong suốt đời tôi chỉ là điều nói láo.
Sau đó thân tâm thức trong bardo bắt đầu tìm kiếm một thân thể. Nó trở nên bị ám ảnh với nhu cầu cần có một thân thể : một thân người, thân súc sinh, thân trời. Nó đang tìm kiếm một thân xác vì không thể chịu đựng nổi việc tiếp tục như tâm thức bardo này. Cũng giống như ở trong trạng thái mộng. Nó muốn thoát khỏi nỗi khổ ghê gớm đó. Kinh nghiệm thì tương tự như lúc các bạn kêu khóc không thể ngưng được và cảm thấy thống khổ dữ dội. Tâm thức liên tục cảm nhận theo lối này khi nó điên cuồng tìm kiếm cho ra nơi tái sinh của nó, mà có thể là bất kỳ nơi nào trong sáu cõi tùy thuộc vào các tích tập nghiệp của nó. Sau bốn mươi chín ngày, vào lúc nào đó, tâm thức bardo sẽ đi vào một trong sáu cõi. Nếu ta đã từng thực hành Pháp trong đời mình, nhận lãnh các giáo lý về những lợi lạc của đức hạnh và các lỗi lầm của ác hạnh nhưng không thực sự tin tưởng các giáo lý đó và không thực hành chúng (hoặc chống đối chúng), thì nhất định ta sẽ tái sinh vào một trong tám cõi địa ngục và đau khổ khủng khiếp.
Nếu các bạn thực hành Pháp và đặc biệt là Pháp Đại Viên Mãn, thì các bạn không cần kinh nghiệm Bardo Trở thành. Thay vào đó, các bạn sẽ kinh nghiệm ánh sáng căn bản, và trong trạng thái đó ba cõi thấp không hiện hữu. Không có Pháp nào tốt đẹp hơn Dzogchen. Các bạn muốn hay không muốn thiền định về nó? Nếu các bạn muốn thiền định về nó, thì các bạn phải thực hành con đường trekchod và tošgal, căn bản của sự cắt đứt để đi đến sự thuần tịnh nguyên thủy, trekchod, và con đường vượt qua với sự hiện diện tự nhiên, tošgal. Bằng pháp cắt đứt để đi tới sự thuần tịnh nguyên thủy, các bạn chứng ngộ bản tánh của tánh Không. Các bạn chứng ngộ rằng tất cả những sứ giả của cái chết là sự phô diễn của tri giác mê lầm. Vào lúc đó, bởi năng lực của cái thấy và sự chứng ngộ Dzogchen của các bạn, ngay lập tức mọi sự xuất hiện như mặt trời chói lọi ánh sáng, và không có bardo. Các bạn chỉ đơn giản chứng ngộ rằng nó là sự phô diễn của bản tánh bẩm sinh của tâm. Nhờ sức mạnh của thực hành tošgal của các bạn, thể hiện các phần tử bindu và sự tỉnh giác nội tại, hiểu được trí huệ nguyên thủy tự biểu lộ như các kaya (thân) ra sao, hay các hiện thân của giác tánh giác ngộ, các bạn có thể nhận thức các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ như sự phô diễn của giác tánh nội tại tự-sinh. Ngay lập tức các bạn tan hòa trong sự hợp nhất không hai với sự phô diễn và tức khắc đi vào một cõi thanh tịnh.
Đừng đến hỏi tôi rằng : “Bây giờ tôi cần thực hành Pháp nào? Tôi nên làm gì? Tôi thực hành sáu bardo thế nào? Xin chỉ cho tôi phải làm gì. Bước kế tiếp của tôi trong sự thực hành là gì?” Tôi không muốn nghe điều đó, bởi tôi đã nói với các bạn nhiều lần là Pháp duy nhất mà các bạn cần thực hành là Dzogchen. Nếu các bạn thực hành Dzogchen và thành tựu nó, các bạn sẽ không đau khổ trong bardo. Các bạn sẽ chứng ngộ rằng mọi tri giác trong bardo là các tri giác mê lầm và các bạn sẽ được giải thoát trong bản tánh bẩm sinh của chính các bạn. Không một ai, kể cả các lama, muốn đi tới những kinh nghiệm khiếp hãi, kinh khủng, nhưng nếu các bạn không thực hành và thành tựu Dzogchen thì điều đó chắc chắn xảy ra. Như ngài Patrul Rinpoche nói : “Ba cõi thấp của sự hiện hữu là những nơi chốn của nỗi khổ to lớn và nếu người nào đã tích tập đầy đủ nghiệp xấu để nhận một tái sinh như thế thì người ấy sẽ chắc chắn đi tới đó. Dewachen, Cõi Cực Lạc là một nơi chốn của hạnh phúc vĩ đại và nếu ai đã tích tập đầy đủ đức hạnh để kinh nghiệm kết quả đó thì người ấy chắc chắn sẽ kinh nghiệm nó.”
Vì tất cả chúng ta phải chết, mỗi một và mọi người trong chúng ta sẽ có kinh nghiệm này và nó cực kỳ khó khăn. Nó khó khăn đến khó tin. Người quá cố trong bardo sẽ than khóc từ sâu thẳm hiện thể của họ về việc họ hối tiếc ra sao, đặc biệt là khi họ nhận ra là họ đang đi vào các cõi thấp. Và khi họ kêu khóc với những người mà họ nghĩ là có thể cứu giúp họ, các người trong gia đình và những người thân yêu, thì không ai sẽ nghe họ, và sẽ không ai đáp lại những kêu gọi đau đớn của họ. Đó là điều vô ích.
Có một câu chuyện ở Ấn Độ về hai người hàng xóm. Một người là đàn ông giàu có đã trải cả đời làm nghề thợ rèn. Ông ta có bảy người con trai. Hàng xóm của ông là một bà già chất phác có một người con gái. Cả hai qua đời cùng một lúc, và khi họ đang lang thang trong trạng thái bardo, người thợ rèn bảo bà già : “Các con trai tôi có đủ của cải để tiến hành các thiện hạnh bằng cách cúng dường cho các đối tượng quy y và bố thí cho người nghèo khổ như các sự hồi hướng. Tôi tin rằng nhờ các thiện hạnh của chúng, tôi sẽ tái sinh trong cõi người. Tôi hy vọng nhờ sự hồi hướng công đức đó bà cũng sẽ được lợi lạc.” Bà già nói : “Tôi chỉ có một đứa con và nó là một hành khất chẳng có gì để cúng dường. Tôi không hy vọng kết quả nào vì nó không có gì cúng dường.” Sau đó người thợ rèn nói với bà lão : “Tại sao chúng ta không đi đến cõi người và xem các con tôi đang làm thế nào?” Khi hai người đi tới, họ thật ngạc nhiên khi thấy bảy người con trai, ngay vài tuần sau khi cha chết, đang cử hành các tiệc cưới thật to. Dường như họ đã hoàn toàn quên mất cha mình. Thật là bàng hoàng. Người con gái duy nhất của bà lão không có của cải gì để cúng dường, nhưng cô có một trái tim trong sạch và bị tràn ngập bởi cái chết của mẹ cô. Vì thế cô gom góp vài miếng đá phiến, trên đó cô đặt những nhúm gạo. Cô thâu thập những viên đá, rửa sạch và dùng chúng như các vật cúng dường tượng trưng cho các chén nước. Và sau đó cô tìm các viên đá tương tự, rửa sạch và cúng dường chúng như các ngọn đèn bơ với loại dầu có phẩm chất rất xấu. Cô khóc thổn thức và khi kêu khóc, cô tụng đọc nhiều thần chú. Cô kêu gào : “Bà mẹ khốn khổ của tôi, bà hẳn là đang đau khổ khủng khiếp và tôi chẳng có gì để làm vật cúng dường cho bà.” Mặc dù các vật chất mà cô cúng dường thì nhỏ nhoi và kém tệ phẩm chất nhưng chúng đã được cúng dường với một trái tim hết sức trong sạch và lòng sùng mộ nhất tâm đối với mẹ cô. Điều này có lợi lạc to lớn, và kết quả là bà mẹ tái sinh làm người. Bảy người con trai khi chết bị rơi vào cõi địa ngục. Câu chuyện này được tìm thấy trong Tam Tạng, các pho sách được tuyển tập của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta nên nỗ lực thực hành với động lực trong sạch.
Cái chết chắc chắn sẽ tới và sau đó tâm thức lang thang vơ vẩn. Nó lang thang phù hợp với nghiệp của người chết. Bây giờ là lúc để thực hành. Tôi đã dạy Pháp cho các bạn giống như tôi dạy cho các con trai và con gái của riêng tôi. Nếu các bạn không thực hành, điều đó sẽ không ảnh hưởng đến tôi, và nếu các bạn thực hành và trở thành một hành giả xuất sắc, điều đó cũng không ảnh hưởng tốt hay xấu cho tôi. Toàn bộ trách nhiệm là của các bạn.
Tôi sẽ kể cho các bạn một câu chuyện đã xảy ra sau khi người Cộng sản đến Tây Tạng nơi miền tôi sống. Cả vùng gần như thiếu ăn và một người dân làng đã chết. Vì mọi sự cực kỳ khó khăn do những hoàn cảnh, dân chúng đã vất cái xác xuống một trong những con sông chính. Cái xác biến mất và sau đó trở lại nơi trước đây nó bị ném xuống. Việc này xảy ra ba lần. Rồi nó trở thành một cái xác sống lại, một cái xác sống rất mạnh mẽ. Trước khi chết, người quá cố có chiều cao trung bình, nhưng khi thành cái xác sống thì những người có chiều cao như cái xác khó có thể đứng tới cổ nó. Rồi dân làng đào một cái hố, nhưng vì họ không có gì để thiêu đốt nó và mặc dù chỉ ngửi thấy cái xác hơi có mùi họ ném cái xác xuống hố và lấp lại bằng đá và bùn. Sau sáu ngày, cái xác sống xuất hiện và dân chúng trong vùng cho rằng không còn giải pháp nào khác, đã nỗ lực chặt cái xác thành nhiều mảnh bằng rìu và kiếm. Khi họ chặt cái xác, các mảnh nối liền lại, tập hợp lại và cái xác vẫn nguyên vẹn. Các dân làng đến gặp tôi và nói : “Đây là loại năng lực thậm chí còn siêu việt hơn loại mà một hành giả Chošd hảo hạng phải đối phó và vì vậy có lẽ bây giờ tới lượt ngài. Ngài là một terton và là một đại lama đã chứng ngộ, vì thế xin giải thoát chúng con khỏi tình huống ghê sợ khủng khiếp này.” Rồi, cùng chín hay mười hành giả đi với tôi, chúng tôi bắt đầu thực hành và, như một tục lệ ở Tây Tạng, các mảnh của cái xác được phân phối cho những con chim kên kên. Việc này đã thất bại. Rồi thì đêm đó khi chúng tôi đang ngủ, cái xác xuất hiện, vồ lấy tôi và tấn công tôi. Và bằng giọng nói của người này, hắn chỉ gầm lên : “Mọi nỗ lực của ông đều vô ích.” Giờ đây, tôi phải nói rằng tôi đã từng có các kinh nghiệm khắc nghiệt nhất trong các ngục tù, nhưng chưa bao giờ tôi có một kinh nghiệm ghê sợ như lúc đó. Đây là một loại tình huống có thể xảy ra nếu tâm thức các bạn hoàn toàn lang thang trong bardo. Mọi chuyện sẽ xảy ra, và riêng tôi đã từng kinh nghiệm một số trong đó.
Tôi đã phải đối phó với nhiều tình huống nghiêm trọng liên quan tới cái chết. Có lần một bà già qua đời, và gia đình bà bọc tử thi trong một chiếc mền len, cột chặt lại bằng dây thừng, và thắp hàng trăm ngọn đèn bơ trong nhà cho sáng. Khoảng nửa đêm, tôi thức dậy và nhìn lên bệ thờ là nơi nhiều ngọn đèn bơ được thắp. Tôi thấy một cái bóng di chuyển và nhìn quanh xem có thể có ai đang trông coi điện thờ hay châm thêm vào các đèn bơ hay không. Tôi quan sát chỗ tử thi nằm, bàn tay phải nó dơ thẳng lên từ dưới cái mền. Tôi đánh thức thị giả của tôi dậy, ông ta là một lama và là hành giả xuất sắc, hơi già hơn tôi, và kể cho ông điều gì đã xảy ra và nói bây giờ không phải là lúc để ngủ. Chúng tôi đã thực hành cả đêm và đến sáng thì hoàn tất một vài nghi lễ và cái xác được đưa tới lò thiêu. Về cơ bản, tôi đã từng chứng kiến nhiều cách khác nhau mà cái xác phản ứng lại khi nó mang hình thức của một cái xác sống. Nó thực sự xảy ra vì thế xin đừng cho rằng khi các bạn chết nó sẽ là một thời điểm an bình. Có thể không nhất thiết là như vậy. Xin chú tâm đến điều tôi đã giảng trong vài ngày qua.
Các giáo lý về những khám phá sâu xa của Đại thành tựu giả Karma Lingpa hầu như đã hoàn tất. Tôi đã ban cho các bạn một cái nhìn khái quát về sáu trạng thái trung gian và tôi muốn các bạn thực hành điều các bạn đã được dạy. Xin hãy tiếp tục với thực hành trekchod và tošgal của các bạn. Nếu các bạn thực hành thì sẽ không có sợ hãi với cái chết. Và xin hãy nhớ rằng một vị bổn tôn thì không tốt hơn các vị khác về những gì sẽ thực sự giúp các bạn trong bardo. Nếu các bạn từng là một hành giả Trošma, thì Trošma sẽ dẫn dắt các bạn đi qua bardo. Nếu các bạn đã thực hành Avalokiteshvara, thì ngài sẽ dẫn dắt các bạn đến cõi thanh tịnh. Các bạn đã làm loại thực hành nào thì không thành vấn đề mà đúng hơn là lòng tin của các bạn đặt ở đâu. Đây là tất cả những đấng giác ngộ và các ngài sẽ đến để đón chào và giúp đỡ các bạn vào lúc đó. Chúng ta đã phát triển một mối quan hệ của vị thầy và đệ tử và tôi đã ban tặng các bạn nhiều giáo huấn vì thế xin đừng quên các giáo lý và đừng quên tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên các bạn. Chúng ta sẽ vẫn là những bằng hữu tâm linh (thiện tri thức) trong phần còn lại của cuộc đời chúng ta cũng như trong đời sau. Chúng ta có thể gặp nhau trong các cõi Phật. Tôi là một vị thầy thanh tịnh, và nếu các bạn có đức tin và luôn nhớ cầu nguyện với tôi, thì tôi có thể đến với các bạn như một tia chớp và giúp các bạn thoát khỏi tình huống của các bạn trong bardo. Đây là năng lực mà chư Phật hay các đạo sư tuyệt hảo có thể dùng để giúp đỡ đệ tử của các ngài.
ĐIỂM TRỌNG YẾU
Giáo huấn Đặc biệt của Khepa Shri Gyalpo
Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu
của Patrul Rinpoche
Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu
của Patrul Rinpoche
Kính lễ đạo sư
Cái thấy (kiến) là Longchen Rabjam (Sự Bao La Vô hạn Vĩ Đại).
Sự thiền định (thiền) là Khyentse Ozer (Những Tia sáng của Trí Huệ và Tình Thương).
Hành động (hành) là Gyalwe Nyugu (Con trai của các Đấng Chiến Thắng).
Đối với người thực hành theo cách này,
Thì không nghi ngờ gì nữa về sự giác ngộ trong một đời.
Nhưng cho dù không được như thế, vẫn được hưởng hạnh phúc – A la la.
Sự thiền định (thiền) là Khyentse Ozer (Những Tia sáng của Trí Huệ và Tình Thương).
Hành động (hành) là Gyalwe Nyugu (Con trai của các Đấng Chiến Thắng).
Đối với người thực hành theo cách này,
Thì không nghi ngờ gì nữa về sự giác ngộ trong một đời.
Nhưng cho dù không được như thế, vẫn được hưởng hạnh phúc – A la la.
Cái thấy, Longchen Rabjam thì như sau :
Đánh trúng điểm trọng yếu bằng ba lời,
Trước tiên, hãy để tâm các bạn ngơi nghỉ buông lỏng.
Không lan man, không tập trung – vô niệm.
Trong khi thả lỏng và an trụ một cách quân bình trong trạng thái đó
Bất thần kêu lên PHAT.
Mạnh mẽ, ngắn gọn và sắc bén – hoàn toàn trong sáng.
Không có bất cứ cái gì – hoàn toàn trong sáng.
Một sự trong sáng không bị ngăn che.
Một rỗng rang toàn triệt vượt lên ý niệm.
Đánh trúng điểm trọng yếu bằng ba lời,
Trước tiên, hãy để tâm các bạn ngơi nghỉ buông lỏng.
Không lan man, không tập trung – vô niệm.
Trong khi thả lỏng và an trụ một cách quân bình trong trạng thái đó
Bất thần kêu lên PHAT.
Mạnh mẽ, ngắn gọn và sắc bén – hoàn toàn trong sáng.
Không có bất cứ cái gì – hoàn toàn trong sáng.
Một sự trong sáng không bị ngăn che.
Một rỗng rang toàn triệt vượt lên ý niệm.
Hãy nhận ra điều này như giác tánh Pháp Thân.
Nhận ra bản tánh của các bạn, đó là điểm trọng yếu thứ nhất.
Nhận ra bản tánh của các bạn, đó là điểm trọng yếu thứ nhất.
Sau việc nhận ra này, dù tâm các bạn động hay tĩnh,
Dù các bạn giận hay tham, vui hay buồn,
Trong mọi lúc và trong mọi tình huống
Hãy biết Pháp Thân đã được nhận ra
và hãy để ánh sáng con hợp nhất với ánh sáng mẹ đã được nhận biết.
Dù các bạn giận hay tham, vui hay buồn,
Trong mọi lúc và trong mọi tình huống
Hãy biết Pháp Thân đã được nhận ra
và hãy để ánh sáng con hợp nhất với ánh sáng mẹ đã được nhận biết.
Hãy nghỉ ngơi trong trạng thái tỉnh giác không thể diễn bày.
Hãy cứ tiêu diệt sự vô-niệm, hỉ lạc, và vọng tưởng.
Hãy để chữ (âm tiết) của trí huệ và phương tiện đột ngột đánh gục chúng.
Hãy cứ tiêu diệt sự vô-niệm, hỉ lạc, và vọng tưởng.
Hãy để chữ (âm tiết) của trí huệ và phương tiện đột ngột đánh gục chúng.
Không có sự khác biệt giữa thiền định và hậu-thiền định.
Không có phân chia giữa các thời khóa và những gián đoạn.
Hãy liên tục ngơi nghỉ trong trạng thái không bị phân chia.
Không có phân chia giữa các thời khóa và những gián đoạn.
Hãy liên tục ngơi nghỉ trong trạng thái không bị phân chia.
Tuy nhiên, chừng nào mà các bạn chưa đạt được sự kiên cố,
Thì điều cần yếu là thực hành sự từ bỏ các phóng tâm.
Hãy chia sự thiền định của các bạn thành các thời khóa.
Trong mọi lúc và trong mọi tình huống
Hãy hộ trì sự tương tục duy nhất của Pháp Thân.
Hãy xác quyết rằng không có cái gì khác hơn điều này.
Có sự xác quyết ở một điều; đó là điểm trọng yếu thứ hai.
Thì điều cần yếu là thực hành sự từ bỏ các phóng tâm.
Hãy chia sự thiền định của các bạn thành các thời khóa.
Trong mọi lúc và trong mọi tình huống
Hãy hộ trì sự tương tục duy nhất của Pháp Thân.
Hãy xác quyết rằng không có cái gì khác hơn điều này.
Có sự xác quyết ở một điều; đó là điểm trọng yếu thứ hai.
Vào lúc này, những ưa thích và ghét bỏ của bạn, những niềm vui và những nỗi muộn phiền
Và mọi tư tưởng thoáng qua của bạn không có ngoại trừ nào
Hãy để mặc không dấu vết trong trạng thái nhận biết.
Bằng cách nhận biết Pháp Thân,
Giống như thể vẽ một hình dạng trong nước,
Không có khe hở giữa việc nhận ra bất kỳ điều gì xuất hiện và tự-giải thoát.
Bất kỳ điều gì xảy ra là thực phẩm tươi mới cho tánh giác trống không.
Bất kỳ cái gì là niệm tưởng đều là một biểu lộ của Pháp Thân siêu việt,
Không dấu vết và giải thoát tự nhiên – A la la.
Cách các niệm tưởng xuất hiện thì giống như trước,
Nhưng cách chúng được giải thoát là điểm then chốt đặc biệt nhất.
Không có điều này, sự thiền định chỉ đơn thuần là con đường lầm lạc.
Và mọi tư tưởng thoáng qua của bạn không có ngoại trừ nào
Hãy để mặc không dấu vết trong trạng thái nhận biết.
Bằng cách nhận biết Pháp Thân,
Giống như thể vẽ một hình dạng trong nước,
Không có khe hở giữa việc nhận ra bất kỳ điều gì xuất hiện và tự-giải thoát.
Bất kỳ điều gì xảy ra là thực phẩm tươi mới cho tánh giác trống không.
Bất kỳ cái gì là niệm tưởng đều là một biểu lộ của Pháp Thân siêu việt,
Không dấu vết và giải thoát tự nhiên – A la la.
Cách các niệm tưởng xuất hiện thì giống như trước,
Nhưng cách chúng được giải thoát là điểm then chốt đặc biệt nhất.
Không có điều này, sự thiền định chỉ đơn thuần là con đường lầm lạc.
Sở hữu nó là trạng thái không bị tạo tác của Pháp Thân.
Có được sự xác tín vào giải thoát; đó là điểm trọng yếu thứ ba.
Cái thấy này được đặc ân với ba điểm trọng yếu,
Được trợ giúp bởi sự thiền định của trí huệ kết hợp với lòng bi,
Và bởi hành động phổ biến của những con trai của các Đấng Chiến Thắng.
Cho dù các Đấng Chiến Thắng trong ba thời cùng nhau thảo luận,
Sẽ không có giáo huấn nào siêu việt hơn giáo huấn này.
Bậc terton Pháp Thân của sự phô diễn của giác tánh
Đã khám phá giáo huấn này như một kho tàng từ cõi giới của trí huệ.
Nó không như những cái lấy ra từ đất và đá.
Nó là di chúc của Ngài Garab Dorje.
Nó là tâm yếu của ba dòng truyền thừa.
Nó được bí mật trao cho đệ tử tâm đắc.
Nó là ý nghĩa sâu xa và những lời nói tâm huyết.
Nó là những lời tâm huyết, là yếu nghĩa.
Đừng để yếu nghĩa phai nhạt.
Đừng để giáo huấn tiêu tan.
Có được sự xác tín vào giải thoát; đó là điểm trọng yếu thứ ba.
Cái thấy này được đặc ân với ba điểm trọng yếu,
Được trợ giúp bởi sự thiền định của trí huệ kết hợp với lòng bi,
Và bởi hành động phổ biến của những con trai của các Đấng Chiến Thắng.
Cho dù các Đấng Chiến Thắng trong ba thời cùng nhau thảo luận,
Sẽ không có giáo huấn nào siêu việt hơn giáo huấn này.
Bậc terton Pháp Thân của sự phô diễn của giác tánh
Đã khám phá giáo huấn này như một kho tàng từ cõi giới của trí huệ.
Nó không như những cái lấy ra từ đất và đá.
Nó là di chúc của Ngài Garab Dorje.
Nó là tâm yếu của ba dòng truyền thừa.
Nó được bí mật trao cho đệ tử tâm đắc.
Nó là ý nghĩa sâu xa và những lời nói tâm huyết.
Nó là những lời tâm huyết, là yếu nghĩa.
Đừng để yếu nghĩa phai nhạt.
Đừng để giáo huấn tiêu tan.
Đây là giáo huấn đặc biệt của Khepa Shri Gyalpo.
CHƯƠNG 1
DẪN NHẬP – KÍNH LỄ
Xin hãy lắng nghe giáo lý này với động lực trong sạch, cần phải nghĩ rằng : “Tôi sắp nghe giáo lý và thực hành để dẫn dắt tất cả chúng sinh vô hạn như không gian đến trạng thái toàn giác.”
Có tất cả chín thừa. Trong chín thừa này, có ba thừa ngoại dẫn dắt ta thoát khỏi nguồn gốc của đau khổ. Nhóm thừa thứ hai là các tantra ngoại, là những sự tiếp cận đem lại sự tỉnh giác nhờ những giới luật khổ hạnh. Và sau đó có ba thừa bí mật gồm các phương tiện thiện xảo dẫn đến kết quả cuối cùng. Khi các bạn nói đến bất kỳ thừa nào trong chín thừa thì điều tối quan trọng là bàn về hành động và động lực. Như vậy, động lực là gì? Động lực là để giải thoát tất cả chúng sinh trong vòng sinh tử, tâm thức họ bị lôi cuốn vào ba lỗi lầm của bình chứa, sáu sự ô nhiễm và năm cách suy tưởng sai lầm. Ta phải phát sinh động lực rằng : “Tôi sắp giải thoát tất cả chúng sinh đến trạng thái Phật tánh toàn giác nhờ sự lắng nghe và thực hành giáo lý Đại Viên Mãn. Tôi thực hiện điều này bởi tất cả chúng sinh đã từng là những cha mẹ tốt lành của tôi.”
Động lực riêng của ta phải được kết hợp với lòng bi mẫn vĩ đại nhắm tới sự giác ngộ. Các bạn cần phát triển sự thiết tha này và dấn mình vào động lực này. Đây là điều nhắm tới để sẵn sàng giải thoát tất cả chúng sinh. Các bạn luôn luôn nên bắt đầu sự thực hành của các bạn với một thái độ bi mẫn và quan tâm tới những người khác và với một ý hướng đạt sự giác ngộ là vì lợi lạc của họ.
Khi đang nghe giáo lý các bạn cần tập trung vào năm điều xác tín. Đừng nghĩ rằng bất kỳ điều gì trong những hiện tượng được nhận thức của các bạn là bình phàm. Ví dụ, nơi chốn chúng ta đang ở ngay bây giờ –Los Angeles – không được nhận thức như một chốn bình phàm cấu tạo bởi các chất thể như đất và đá mà đúng hơn, ta cần nhận thức nó như cõi Akanistha, như tịnh thể Dewachen của Đức Phật A Di Đà, hang Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ. Ta cần nhận thức vị thầy là Đức Phật Vajradhara, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay Đức Padmasambhava, thay vì nhìn ngài như một con người bình thường với một thân xác bất tịnh. Giáo lý cũng cần được nhìn như sự chuyển Pháp luân vĩ đại. Thời gian là một sự tương tục không ngừng nghỉ. Những người nghe Pháp không được nhận thức như những người bình thường với những thân xác bất tịnh, mà đúng hơn là những Bồ tát, các daka và dakini.
Điều hết sức quan trọng là lắng nghe giáo lý với động lực và hành động trong sạch. Động lực phải thực hiện với tâm. Tối quan trọng là phải loại trừ hay từ bỏ bất kỳ loại độc chất tinh thần nào, để khơi dậy Bồ đề tâm quý báu, và hình dung năm điều xác tín một cách rõ ràng.
Theo lịch sử, Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được truyền dạy theo ba lối : Đức Phật đã dạy bằng các phép màu nhiệm, bằng luận cứ theo lối của học giả hay pandita vĩ đại, và nhờ sự thiền định theo lối của vị A la hán. Đức Phật dạy bằng ba phép màu nhiệm : sự hiển lộ kỳ diệu của thân, phép màu của ngữ, diễn tả nhiều loại vấn đề khác nhau; và phép màu nhiệm của tâm, diễn đạt giáo lý phù hợp với nhu cầu và năng lực của những cá nhân. Nhờ năng lực của những phép màu nhiệm, ngài có thể tỏa ra những tia sáng đủ màu từ thân ngài, bao trùm vũ trụ và làm nguôi dịu nỗi khổ ở đó. Đây là một cách thức mà ngài đã dạy, và có liên quan trực tiếp tới thân tướng của ngài.
Khi Đức Phật trình bày giáo lý lần đầu tiên, ngài phóng ra những tia sáng trắng, đỏ và xanh dương chói ngời tới ba thế giới và làm nguôi dịu nỗi khổ ở đó. Ánh sáng thì còn sáng rực hơn một triệu mặt trời. Nó tỏa chiếu khắp mọi cảnh giới và làm nguôi nỗi đau khổ ở những nơi đó. Những nỗi khổ của các địa ngục, chẳng hạn như sự lạnh và nóng, và những nỗi khổ của các ngạ quỷ, như sự đói và khát, đã được giảm bớt. Những đau khổ của cõi súc sinh, chẳng hạn như bị sai sử và hành hạ một cách tàn nhẫn, được vơi dịu. Ánh sáng đã tịnh hóa nỗi khổ cho rất nhiều chúng sinh trong các cõi khác nhau.
Đại dương sinh tử trải qua sự biến động bất thường và chư Phật xuất hiện trong vòng sinh tử xuất hiện trong phạm vi những sự kiện thời gian và không gian. Khi chư Phật xuất hiện, có những chúng sinh đã sẵn sàng để tự do và vì thế họ có thể được giải thoát nhưng chúng sinh không chín mùi để giải thoát không thể có được lợi lạc từ chu kỳ soi sáng đó. Vì thế vị Phật đó không thể giải trừ đau khổ của họ. Mọi kinh điển thường nói rằng nhờ sự thiền định mà ta có thể tẩy trừ đau khổ của tất cả chúng sinh, hay nói rằng Đức Phật tẩy trừ đau khổ của tất cả chúng sinh. Nếu các bạn hỏi : “Nếu như Đức Phật đã tẩy trừ một cách kỳ diệu mọi đau khổ thì tại sao vẫn còn chúng sinh?” Thực tế là có ba cách qua đó chúng ta có thể đạt giải thoát nhờ những sự ban phước của Đức Phật. Cách đầu tiên là nhờ được diện kiến Đức Phật và nhờ nhận lãnh giáo lý và do đó tìm ra con đường của ta đi đến sự giác ngộ. Cách thứ hai là mặc dù Đức Phật đã tịch diệt hoặc chúng ta không thể tìm gặp ngài, giáo lý của Đức Phật được truyền dạy bởi một người hay trong giáo lý được ghi chép lại của Đức Phật, cung cấp cho chúng ta những giáo huấn cần thiết nhờ đó ta có thể đạt được giải thoát. Cách thứ ba và là cách sâu xa nhất là bằng sự thấu suốt trực tiếp tức thời thực tại như nó là, và bằng cách tôi muốn nói là Đại Viên Mãn, đó là trạng thái giác tánh của riêng các bạn. Nhờ sự toàn giác của ngài, Đức Phật thấu suốt những năng lực tinh thần của tất cả chúng sinh và đã giảng dạy một cách phù hợp. Ngài có thể diễn tả tất cả các ngôn ngữ trong một lời và trong một lúc.
Giờ đây, chúng ta không toàn thiện như một vị Phật và vì thế khi tôi giảng dạy tôi phải nói bằng tiếng mẹ đẻ của tôi và các bạn phải nỗ lực để hiểu rõ. Mỗi một tiếng phải được dịch lại. Đó không phải là hoạt động của một bậc đạo sư giác ngộ vĩ đại như Đức Phật Thích Ca. Khi Đức Phật giảng dạy, bất luận các bạn nói bằng ngôn ngữ nào – dù là tiếng Tây Tạng, tiếng Anh hay tiếng Trung Quốc, hoặc ngôn ngữ của các thú vật hay của các cõi giới khác – các bạn có thể nghe Pháp bằng ngôn ngữ của riêng mình. Trong tương lai, chúng ta sẽ được giác ngộ và vào lúc đó chúng ta có thể diễn đạt Giáo Pháp phù hợp với lợi ích và năng lực của chúng sinh. Bây giờ chúng ta không thể làm điều đó bởi tâm thức chúng ta bị ngăn che bởi nghiệp và những mê lầm. Chúng ta là những người đang ở trên con đường.
Lối giảng dạy của một pandit hay học giả xuất phát từ các viện Đại học Phật giáo Ấn Độ Nalanda và Vikrara-malashila. Giáo lý được ban ra phù hợp với năm điều xác tín và năm nguyên lý. Năm nguyên lý là : tác giả, thính giả vì họ mà giáo lý được kết tập, loại giáo lý được viết ra, nơi giáo lý được truyền dạy, và phần tóm lược từ đầu tới cuối.
Lối giảng dạy của bậc A La Hán được trình bày phù hợp với ba sự thanh tịnh (trong sạch) – ngữ của bậc thầy thì thanh tịnh, tâm người nghe thì thanh tịnh và chủ đề của sự giảng dạy thì thanh tịnh. Điều này có nghĩa là cả vị thầy lẫn đệ tử đều có ý hướng và động cơ tích cực và vị thầy giảng dạy ý nghĩa của Phật Pháp một cách rõ ràng và chính xác, không chút sai lầm trong sự diễn giảng. Hôm nay, tôi sắp giảng theo lối của một đại giả (mahapandita).
Bản văn gốc bắt đầu với một sự kính ngưỡng : “Con kính lễ bậc guru, là hiện thân của lòng bi mẫn vô song.” Chúng ta kính lễ và khẩn cầu guru, hay lama (vị thầy), bởi ngài là hiện thân của Tam Bảo. Bất kỳ sự giảng dạy nào về cái thấy (kiến), thiền định (thiền) và hành động (hành) đều bắt đầu với một sự khẩn cầu đạo sư. Từ Tây Tạng “lama” được định nghĩa là : “la” nghĩa là “cao” và “ma” là mảy may tiêu cực. Không gì cao cả hơn một đạo sư. Sự tương đồng thì như việc có những đám mây, tia chớp, các máy bay và những sự xuất hiện trong bầu trời nhưng không có gì cao hơn mặt trời, mặt trăng hay các vì sao. Cùng cách đó, không có gì cao hơn hay siêu việt hơn bậc đạo sư trong lãnh vực cái thấy, thiền định và hành động. Cách định nghĩa khác của “la” là “cao” giống như bầu trời và “ma” có nghĩa là “mẹ”. Bậc đạo sư là người dẫn dắt giải thoát tất cả chúng sinh bằng lòng đại bi giống như một bà mẹ dẫn dắt các đứa con của bà. Không có guru yoga thì sẽ không có cơ hội để giác ngộ bởi có nói rằng nếu bậc đạo sư không hiện hữu thì thậm chí từ “Phật” cũng sẽ không được nghe nói tới. Tất cả chư Phật trong một ngàn kiếp xuất hiện nhờ bậc đạo sư và đạo sư là Phật, Pháp, và Tăng. Vì thế, chúng ta kính lễ thân, ngữ và tâm của bậc đạo sư.
Chư Phật trong quá khứ đã đạt giác ngộ, chư Phật trong hiện tại đang trở nên giác ngộ, và chư Phật trong tương lai sẽ đạt được giác ngộ, tất cả các ngài đã hay sẽ đạt được Phật quả nhờ sự tiếp cận các bậc đạo sư tâm linh toàn hảo và nhờ thực hành các điểm trọng yếu trong cái thấy, thiền định, và hành động với các ngài.
Bởi các bạn là Phật tử nên điều thiết yếu là các bạn phải được chấp nhận bởi một đạo sư. Các đệ tử nên tuân theo các giáo huấn của đạo sư trong bất kỳ điều gì ngài giảng dạy, theo cùng cách một đứa trẻ vâng theo sự chỉ dạy của cha mẹ thật tốt lành của nó cho tới khi chết. Các bạn phải tiếp cận bậc đạo sư theo ba cách. Lúc ban đầu các bạn phải trở nên một người có kinh nghiệm trong việc lựa chọn đạo sư, rồi thành thục trong sự tiếp cận đạo sư một cách đúng đắn, và sau đó lão luyện trong việc học tập ý hướng của cái thấy và hành động của đạo sư.
Sau đó các bạn phải tiếp cận vị đạo sư qua ba cách làm vui lòng – qua sự cúng dường để tuân theo bất kỳ điều gì ngài dạy các bạn, qua sự cúng dường lòng tôn kính và phụng sự ngài, và qua các vật cúng dường.
Chúng ta kính lễ bậc đạo sư bởi nhờ sự khẩn cầu ngài mà chúng ta khẩn cầu tất cả chư Phật. Đạo sư là hiện thân của Tam Bảo. Đạo sư là hiện thân của tất cả các phẩm tính tích cực như lòng bi mẫn, sự thấu suốt, và năng lực tâm linh. Những phẩm tính của các ngài thì vượt lên phẩm tính tầm thường và thế tục, sự thấu suốt của các ngài thì không phải là sự hiểu biết thông thường rất giới hạn mà ta thường hiểu. Ta có thể nói người nào đó có sự hiểu biết là bởi họ nói năng rõ ràng hay có một nền giáo dục cao. Ta có thể tin rằng người nào đó có sự hiểu biết rộng lớn vì sự thông hiểu về toán học của họ. Người ta có thể có cảm tưởng rằng người nào đó chói sáng bởi tài năng của họ trong việc làm điện ảnh. Tuy nhiên, một bậc tâm linh thì không đo lường được bằng các hiện tượng thông thường.
Mọi trí thông minh bình thường của con người thì vô nghĩa và mặc dù trí thông minh đó đã chế tạo ra những đồ vật như các máy bay và xe hơi, chúng rất ích dụng trong nhất thời, nhưng cuối cùng những kết quả thì tiêu cực. Chúng làm ô nhiễm môi trường và hủy hoại đất đai. Mọi sự thông minh của con người, dù có tinh vi hay không, cũng chỉ là kinh nghiệm về sự vận hành của một giấc mộng. Chúng ta có những môn khoa học vĩ đại chẳng hạn như chiêm tinh học có thể tiên đoán tương lai và y học có thể chữa trị các bệnh tật của thể xác chúng ta, nhưng môn khoa học ban tặng cho ta hạnh phúc viên mãn là Pháp. Đây là sự hiểu biết siêu việt, nó như mặt trời tẩy trừ bóng tối, soi sáng mọi sự trong thế giới này. Nó như con mắt có thể tri giác mọi sự. Sự hiểu biết vĩ đại này, nó khiến cho ta tri giác hay hiểu biết tất cả các hiện tượng, là giáo lý Đại Viên Mãn. Giáo lý Đại Viên Mãn rất sâu xa. Điều quan trọng là phải tin tưởng giáo lý này và không chút hoài nghi. Cho tới khi các bạn đạt được giác ngộ các bạn phải tin tưởng cỗ xe (thừa) Đại Viên Mãn, hơn là nương tựa vào các hiện tượng thông thường.
Đạo sư sẽ chỉ dạy các bạn từ bỏ sự tham luyến đối với hoạt động của cuộc đời bình thường này và sẽ đặt các bạn trên con đường sâu xa dẫn thẳng tới trạng thái giác ngộ. Trong đời này, chẳng có ý nghĩa gì nếu các bạn có tài sản và của cải lớn lao. Khi các bạn chết, các bạn không thể mang theo mình bất kỳ thứ gì. Các bạn phải để lại thân xác vật lý của mình và tiếp tục đi một mình tới thế giới kế tiếp. Vào lúc đó, chỉ có các tích tập đức hạnh và ác hạnh của các bạn, chỉ có các yếu tố thuộc nghiệp này đi theo các bạn. Đó là lý do tại sao điều hết sức quan trọng đối với tất cả các bạn là gặp được một bậc thầy tâm linh có phẩm tính trong đời này. Nếu các bạn liên hệ với các vị thầy tâm linh tiêu cực, họ sẽ dẫn các bạn đi lạc đường. Họ sẽ nói là các bạn có thể phạm vào các hành động xấu và các bạn không cần dấn thân vào bất kỳ hành vi đức hạnh hay đạo đức nào. Ví dụ như một vài vị thầy giảng dạy một con đường đưa người ta đến việc tự vẫn trong khi những vị thầy khác đưa ra điều vô nghĩa to lớn gây nguy hại cho con người như khi nói “các bạn có thể nhảy vào lửa”. Những thứ đó là tà kiến và không dính dáng gì tới Pháp. Theo Giáo pháp, nếu các bạn tự tử các bạn phải tái sinh năm trăm đời trong địa ngục thấp nhất. Bởi các bạn đã bước trên con đường Phật giáo, và đặc biệt là trên con đường Đại Viên Mãn, các bạn đã giữ một lời nguyện tránh làm hại tất cả chúng sinh, kể cả chính bản thân mình. Các bạn phải nhận thức sâu sắc cuộc đời các bạn vì chính cuộc đời này cho phép các bạn thực hành pháp và tích tập đức hạnh. Thậm chí nếu các bạn có thể sống thêm một ngày, điều ấy là một ân phước. Vì thế, dĩ nhiên là các bạn không thể tự làm hại mình hay những người khác. Cho dù các bạn cực kỳ đau yếu, các bạn phải dùng một vài hình thức thuốc men để duy trì thân xác các bạn.
Các bạn sợ hãi về đời sau và nỗi khổ của samsara (sinh tử), các bạn sợ hãi về nỗi khổ của các cõi thấp, bởi vì bất kỳ các bạn tái sinh ở đâu thì sinh tử cũng là vòng tròn của sự đau khổ, từ sự tái sinh cao nhất cho tới cõi địa ngục thấp nhất. Samsara bị tràn ngập bởi ba nỗi khổ : nỗi khổ của khổ, nỗi khổ toàn khắp, và nỗi khổ bởi sự vô thường. Các bạn nên nhìn samsara như ổ rắn độc, xứ sở của Yaksha (dạ xoa), những kẻ ăn thịt người, một hầm lửa, hay một xứ đầy gươm đao. Samsara sản xuất một cách tự nhiên nỗi đau khổ của sinh và tử. Khi các bạn chứng ngộ sự thực hay thực tại của Đại Viên Mãn, thì cũng giống như trở thành một con chim với đôi cánh. Một con chim không sợ mình sẽ rơi xuống một thung lũng sâu, và trong cùng cách đó bất cứ lúc nào có sự chứng ngộ thì không còn bận tâm về việc các bạn sẽ kinh nghiệm nỗi đau khổ của sinh tử. Một câu tục ngữ nói : “Khi cưỡi con ngựa Bồ đề tâm, ta trở nên hạnh phúc hơn và hơn nữa, có được một tâm thức trong sáng – điều ấy có gì là sai lầm?” Vì thế, nếu các bạn hiểu biết Bồ đề tâm, làm thế nào các bạn có thể biếng lười?
Điều này có nghĩa là khi ta có một mục đích chẳng hạn như việc đạt được giác ngộ, chúng ta phải có một cỗ xe để đi tới mục đích đó. Trong trường hợp của thực hành Đại thừa thì Bồ đề tâm, hay tâm giác ngộ, là cỗ xe mà ta phải đi trong sự tìm kiếm giác ngộ này. Cỗ xe này trong Đại thừa là cỗ xe của sáu sự hoàn thiện, hay ba la mật. Khi chúng ta có sáu sự toàn thiện này – trong tiếng Tây Tạng nghĩa đen của từ này có nghĩa là “đi sang bờ bên kia” – thì hạnh phúc, hỉ và lạc mà chúng ta kinh nghiệm sẽ ngang bằng với sự quang minh của tâm, và sự quang minh và lạc sẽ hợp nhất làm một, cũng như phương pháp và trí huệ được hợp nhất làm một. Trong cùng cách thế, nếu ta muốn đi Trung Quốc ta phải đáp máy bay và ta đến đó. Nơi đó là đích đến. Nếu ta muốn đi Tây Tạng, ta đi trên một máy bay và tới nơi đó. Máy bay là cỗ xe. Khi các bạn ở trên máy bay, các bạn không ở Tây Tạng. Điều này chỉ ra rằng trong cái thấy của con đường Bồ tát có một sự phân cách giữa cỗ xe và đích đến.
Bây giờ trong trường hợp của Dzogchen chúng ta cũng phải thực hành Dzogchen với một tâm giác ngộ, với Bồ đề tâm, nhưng chúng ta phải nhận thức rằng mục đích và cỗ xe là một. Và như thế với tâm thái đó, tịnh quang của giác chiếu và đại lạc của sự hoàn tất con đường đó ở trong ta vào chính giây phút này. Vấn đề là khi chúng ta bàn về shunyata, hay tánh Không, và đặt nó trong một phạm trù và sau đó đề cập tới tâm giác ngộ của Bồ đề tâm và đặt nó trong phạm trù khác, chúng ta cố gắng suy tưởng chúng một cách riêng rẽ và chúng ta ắt phải thất bại. Một sự thấu suốt về tánh Không và một thái độ được đặt nền trên lòng bi mẫn chân thành đối với tất cả sinh loài không thể bị phân cách. Để chứng ngộ Bồ đề tâm, tánh Không không thể được thấu suốt một cách riêng rẽ với lòng bi mẫn chân thực và Bồ đề tâm không thể bị phân cách với sự thấu triệt về tánh Không. Vì thế khi tánh Không và Bồ đề tâm được hợp nhất thì khi đó và chỉ khi đó một sự thấu suốt đích thực về Dzogchen mới xảy ra.
Chúng ta sắp thảo luận giáo lý Dzogchen về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu. Cái thấy (kiến) là : bất kỳ điều gì hiện hữu là sự xuất hiện của sinh tử và Niết bàn, cả hai đều toàn hảo như nhau trong trạng thái của Pháp giới (dharmadhatu). Đây là nền tảng căn bản thoát khỏi bất kỳ những thái cực nào của các ý niệm hay sự tạo tác. Tathagatagharba (Như Lai Tạng) là cái thấy. Thuật ngữ “nền tảng căn bản” ám chỉ Pháp giới. Có ba cách để nhìn không gian này : đó là không gian bên ngoài, không gian bên trong, và không gian bí mật. Không gian bên ngoài là không gian ở bên ngoài chúng ta. Không gian bên trong là không gian trong đó các năng lực của thân thể ta chuyển động. Nó là tính rỗng rang của tâm. Nhưng vào lúc này chúng ta đang nói về không gian bí mật – giác tánh bất nhị. Đó là không gian ở đó trí huệ và ánh sáng là một, và tịnh quang này là không gian bí mật và chiều kích tối hậu của thực tại. Vậy thì, nếu các bạn hỏi : “Làm thế nào ta có thể thấu hiểu được chiều kích bí mật này của thực tại?” Nó thật đơn giản. Hãy tĩnh lặng, an dịu, và hãy nhìn ra ngoài. Hãy nhìn bằng đôi mắt các bạn và để cho mắt nghỉ ngơi trong không gian trước mặt các bạn. Đừng dán chặt cái nhìn của các bạn vào bất kỳ vật gì. Không gian bên trong tức là tâm các bạn, sẽ nối kết với không gian bên ngoài, tức cảnh giới của cái nhìn mà các bạn kinh nghiệm. Các bạn sẽ nhận ra rằng các hình tướng xuất hiện trước mặt các bạn và tự tâm của các bạn sẽ trở thành một trạng thái duy nhất của tỉnh giác toàn diện, trong đó, không có phân cách giữa cái được thấy, cái thấy, và tâm là người thấy. Sự hợp nhất của không gian bên ngoài và không gian bên trong, hình tướng xuất hiện và tâm, là chiều kích bí mật của thực tại trong đó không có gì để bám giữ và không có gì để từ bỏ.
Các bạn an trụ trong an định, nhận ra rằng tâm các bạn có ba phẩm tính. Bản chất của tâm là tánh Không, Pháp Thân; bản tánh của tâm là sự trong sáng và quang minh, Báo Thân; và chức năng của tâm như lòng bi mẫn viên mãn toàn khắp là Hóa Thân. Chân tánh của tự tâm thì không gì khác hơn chính là Pháp giới (dharmadhatu). Tâm các bạn – như bản tánh của nó – có phẩm tính mở trống và đó là Pháp giới bí mật. Nó vượt khỏi mọi sự tạo tác chẳng hạn như các nguyên nhân và điều kiện (duyên).
Bản chất của tâm là không gian căn bản thoát khỏi sự tạo tác và siêu vượt nhân, duyên, và thời gian. Nó không hiện hữu, bởi nó trống không một cách tự nhiên, nhưng nó có hiện hữu, vì nó là trạng thái nguyên thủy của mọi sự – các hiện tượng và bản tánh của các hiện tượng, hay Pháp tánh (dharmata). Nó thực sự là phương diện rốt ráo của tánh mở trống, bản chất của tâm các bạn, một khi các bạn an trụ trong sự quân bình an định của Đại Viên Mãn.
Tất cả chúng sinh đều có pháp giới (dharmadhatu) như bản chất của tâm, nhưng chỉ khác nhau ở chỗ có nhận ra nó hay không. Vì vậy, chúng ta có hai con đường, đó là sinh tử và Niết bàn, nhưng ta có cùng một nền tảng.
Trạng thái đó của Như Lai Tạng, thoát khỏi sự tạo tác, là cái chỉ ra hay ám chỉ tới sự trong sáng của tâm khi các bạn đang thiền định về Dzogchen. Chúng ta có bầu trời và mặt đất và giữa chúng là không gian, nó không có bất kỳ màu sắc hay hình thể nào. Bản chất của tâm chúng ta thì giống như thế. Nó hoàn toàn tự do và trong sáng, một cái bao la vĩ đại. Mọi sự xuất hiện trong sinh tử và Niết bàn đều toàn thiện một cách viên mãn trong trạng thái đó. Đó là cái thấy (kiến), “cái bao la vô hạn vĩ đại”. Đó là ý nghĩa của danh hiệu Longchen Rabjam.
CHƯƠNG 2
CÁC ĐIỀU TIÊN QUYẾT : CÁI THẤY,
THIỀN ĐỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trình bày tám mươi bốn ngàn Pháp môn trong thế giới này để đáp ứng những nhu cầu và khả năng của chúng sinh với các khuynh hướng về nghiệp khác nhau trong vòng sinh tử. Tám mươi bốn ngàn pháp môn này được chứa đựng trong chín thừa, gồm có ba thừa thấp, ba mật thừa ngoại, và ba mật thừa nội. Tất các các thừa đều dẫn tới thừa thứ chín, Dzogchen (Đại Viên Mãn, Đại Toàn Thiện). Tất cả chúng đều được cô đọng trong Dzogchen. Giáo lý quý báu về Dzogpa Chenpo (Dzogchen) là cực điểm và cốt tủy của Phật pháp. Con đường này nhanh chóng đưa ta tới sự giải thoát. Thật vậy, nếu các bạn bắt đầu thiền định sáng nay, các bạn có thể đạt được giải thoát lúc chập tối. Giáo lý Dzogchen thì sâu xa như thế. Đây là một giáo lý rất thích hợp cho những người lười nhác, những người ngu si, những người tăm tối, hay người người không có thời giờ. Nói vậy không có nghĩa là giáo lý này được dành cho những người như thế, nhưng có nhiều người không có thời giờ, năng lực, hay sự giáo dục để nghiên cứu và suy niệm các sự truyền dạy khác nhau của Pháp. Pháp thì như một đại dương mênh mông và không ai có thể uống cạn nó. Giáo lý này cũng tuyệt hảo đối với những người thông tuệ và đã từng nghiên cứu nhiều, bởi nó sẽ là cực điểm của sự giáo dục, nghiên cứu và phân tích của họ. Giáo lý này là giáo lý tối cao và bao gồm tất cả tám mươi bốn ngàn giáo pháp. Đây là pháp siêu việt cho người lười nhác, người ngu si và người đần độn cũng như cho người từng trải, học giả, và thiền giả. Đây là giáo lý siêu việt của Đại Viên Mãn.
Có một số chuẩn bị cho con đường rất sâu xa này. Điều tiên quyết chính yếu là khơi dậy Bồ đề tâm. Trong thế giới này không có duy nhất chúng sinh nào tốt lành với chúng ta như cha mẹ của riêng ta. Các ngài đã cho chúng ta cuộc đời và đã nuôi dưỡng chúng ta. Các ngài đã cho chúng ta thực phẩm và quần áo cho tới khi chúng ta đủ khôn lớn để tự lo cho mình. Không có gì như tình thương của bậc cha mẹ đối với con cái. Khi ta suy xét về lòng tốt mà cha mẹ ta đã biểu lộ với ta thì chúng ta nên suy tưởng rằng tất cả chúng sinh chịu đau khổ trong vòng sinh tử đã có lúc này hay lúc khác từng là những cha mẹ tốt lành và từ ái của chúng ta. Đây quả nhiên là nguyên nhân để sự phát khởi tự nhiên của lòng bi mẫn, là Bồ đề tâm, tràn trề trong chúng ta, Bồ đề tâm dâng tràn đối với tất cả chúng sinh, thậm chí đối với một con côn trùng bé xíu, con muỗi nhỏ bé nhất. Là các Phật tử, những hành giả Dzogchen, các bạn phải từ bỏ mọi hành vi làm hại bởi các bạn phải nhận ra rằng tất cả chúng sinh đã từng là những cha mẹ của các bạn. Nhận thức đó phải hiện diện trong tâm các bạn. Các bạn cần cảm nhận lòng thương yêu hơn nữa đối với chúng sinh đang ở trong tình huống khó khăn và kém may mắn hơn các bạn và nỗ lực trong khả năng tốt nhất của các bạn để làm lợi lạc cho họ. Các bạn không nên giới hạn sự chăm sóc và thương yêu đối với những người mà các bạn yêu quý một cách dễ dàng. Các bạn cần cố gắng làm lợi lạc những người thực sự đau khổ và cần sự giúp đỡ. Nếu các bạn thực hành theo cách này thì đây là một dấu hiệu cho thấy các bạn đang phát triển tâm thái Bồ đề tâm. Tôi muốn khuyến khích mọi người ở đây quan tâm tới việc cứu giúp chúng sinh khỏi bị làm hại, thực sự cứu lấy mạng sống của chúng sinh. Bởi các bạn sống gần biển, các bạn có thể phóng sinh một số cá. Là các hành giả Dzogchen các bạn được yêu cầu thực hiện điều có thể để giúp ích cho những người khác, đặc biệt là cứu mạng sống của họ. Các bạn có thể mua cá sắp bị giết và thả lại chúng xuống nước, cứu mạng sống của chúng. Đây là một thực hành rất quan trọng.
Nói chung, các bạn nên luôn luôn đặt những người khác lên trên hay lên trước các bạn. Đây là dấu hiệu của một hành giả Dzogchen, là người khiêm tốn và không tự phụ. Điều tiên quyết khác là hiểu biết cách làm thế nào quan hệ hài hòa với các thành viên của gia đình. Các bạn có lòng từ và bi một cách tự nhiên đối với những người đó và vì thế các bạn nên nỗ lực sống thuận hòa. Hoàn toàn không thích hợp đối với một hành giả Dzog-chen khi sống một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, luôn luôn xung đột. Việc xử sự theo tính chất đó là một cách thức hủy hoại cuộc đời ngắn ngủi với người vợ (hay chồng) mà các bạn đã thực sự chọn lựa để chung sống bởi các bạn muốn được hạnh phúc. Đâu là trọng tâm của việc xung đột với người đáng lý phải là suối nguồn của hạnh phúc của các bạn trong một thời gian ngắn ngủi? Điều ấy làm cho mục đích của cuộc sống, ngay cả trong ý nghĩa bình thường nhất, trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Điều quan trọng là phải xem xét các nguyên lý căn bản của Pháp và áp dụng chúng vào cuộc đời các bạn, sống hòa hợp với người bạn đời và cha mẹ của các bạn, phụng sự họ và đền đáp lòng tốt của họ. Cũng rất quan trọng khi dạy dỗ con cái các bạn đừng làm hại các thú vật, bao gồm cả những côn trùng. Đây là tất cả những giới luật cho sự thực hành Dzogchen. Thật ra, đây là những samaya (giới nguyện) Dzogchen.
Ở Tây Tạng, nếu một gia đình có vài con trai, người ta thường trở thành một nhà sư. Người nào đó trong gia đình sẽ đi vào con đường Pháp. Ở phương Tây, người ta thường là các hành giả cư sĩ và vì thế điều thật quan trọng là duy trì các nguyên lý của Pháp trong đời sống hàng ngày và gia đình các bạn. Có lẽ nguyên tắc quan trọng nhất là tự chế đừng nổi sân hận, bởi sân là nguyên nhân cho sự tái sinh trong cõi địa ngục. Sự sân hận được biểu lộ đối với những người thân yêu thì tệ hại nhất. Đây là cách thức của Pháp, và tôi lưu ý điều này bởi vì đây là các vấn đề thứ yếu đối với giáo lý Dzogchen mà chúng ta sắp đi sâu hơn. Xin ghi nhớ những vấn đề này trong tâm.
Trong Dzogchen các bạn phải củng cố cái thấy, thiền định, hành động và kết quả. Các bạn phải hiểu biết về bản chất (tinh túy), sự phô diễn, và sự vận dụng cũng như nền tảng, con đường và quả. Có những dị biệt phải được hiểu rõ. Giáo lý này mô tả cách làm thế nào nhận ra bản tánh của ta, và cách thức xác quyết bản tánh đó như một điểm cốt lõi, và làm sao có được sự xác tín trong giải thoát. Giáo lý này như một bài ca kim cương đánh vào cái tinh túy. Nó là ngữ kim cương có thể thực sự thức tỉnh tâm. Khi củng cố cái thấy, các bạn phải nhận thức rằng mọi hiện tượng phức tạp, mọi pháp xuất hiện, đều bắt nguồn từ tâm. Một khi điều đó được củng cố, thì các bạn phải nhìn vào bản tánh của tâm. Mọi sự là sự vận dụng (trò nô đùa) của tâm và tự nguyên thủy, bản tánh của tâm thoát khỏi bất kỳ tạo tác hay căn bản nào. Bản tính của tâm là ba thân. Sinh tử và Niết bàn xuất hiện từ tâm, và tâm không có căn bản hay gốc rễ. Bản tánh của tâm là Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân. Chứng ngộ bản tánh đó là chứng ngộ cái thấy của Long-chen Rabjam, “cái bao la vô hạn vĩ đại”.
Cái thấy đó thì tự nhiên. Bản tánh của lửa là nóng. Bản tánh của đất là nặng. Bản tánh của nước là ướt. Bản tánh của gió là chuyển động. Bản tánh của cái thấy là ba thân và đó là bản tánh của tâm. Khi các bạn nghĩ rằng nước thì ướt một cách tự nhiên, lửa nóng tự nhiên, đất nặng tự nhiên, không khí chuyển động tự nhiên, và một trái cầu pha lê thì trống không tự nhiên, thì tương tự như thế, các bạn có thể nghĩ rằng tâm thoát khỏi sự tạo tác nhưng trong sáng chói ngời một cách tự nhiên từ nguyên thủy. Sự trong sáng của bản tánh trống không đó của tâm được biểu lộ bởi ba thân. Ba thân là cái gì bất khả phân như bản tánh của tâm, và bản tánh đó thoát khỏi mọi giới hạn của tâm thức ý niệm. Khả năng để nhận ra bản tánh đó là trí huệ và trí huệ đó được so sánh với vipashyana, hay quán chiếu thấu suốt. Bản tánh trống không thì bất động, được so sánh với shamatha hay sự an trụ yên bình.
Trong Dzogchen, vipashyana hay quán chiếu thấu suốt, tương ứng với bản chất (tinh túy) trong khi shamatha, hay sự an trụ yên bình tương ứng với cái vẫn được thấu suốt. Shamatha giống như một đại dương không có chút sóng, bất động và vipashyana thì như bản tánh của đại dương, đó là nước. Bản tánh hay bản chất của tâm thức chúng ta là Pháp Thân. Khi chúng ta thấu suốt bản tánh đó chúng ta thấu suốt svabhavikakaya (Thân Tự Tánh), nó là Phật tánh vốn như vậy. Khi chúng ta nhìn thẳng vào bản tánh của tâm, chúng ta đang nhìn thẳng vào bản tánh của chúng ta như giác tánh vốn có, nó trống không nhưng hoàn toàn trong sáng. Khi chúng ta tri giác bản tánh trống không của nó, đó là vipashyana, quán chiếu thấu suốt.
Ta tiếp cận với shamatha trong thiền định Dzog-chen là ngơi nghỉ trong rigpa, hay giác tánh nội tại, không chạy theo niệm tưởng nào và tập trung sự tỉnh giác vào cái gì bên trong mà không có bất kỳ sự phân chia thực sự nào giữa bên ngoài, bên trong và ở khoảng giữa. Rigpa là vipashyana, hay sự quán chiếu thấu suốt, và thấy nó như nó là, là kinh nghiệm về cái trong sáng không bị ngăn che. Sự tươi mới trinh nguyên của trạng thái rigpa không bao giờ có thể bị ngăn che một cách cố ý, bởi bản tánh của nó thì hoàn toàn thấu suốt và rộng khắp, tuy nhiên không có đối tượng. Mặc dù với tư cách là một thiền giả, các bạn là một chủ thể, nhưng không có chủ thể nào đang quan sát sự thiền định. Không có bên trong và bên ngoài trong loại thiền định này. Nó hiện hữu, và tuy thế không có người đang kinh nghiệm sự hiện hữu của nó. Đây là một điểm quan trọng : Điều ta phải làm sáng tỏ trước hết là việc chúng ta nhận ra rigpa phải được duy trì – duy trì trong ý nghĩa là khi ta thực hành cái thấy, cái thấy là nhãn kiến của chúng ta. Nếu nhãn kiến của ta được tập trung vào giác tánh và chúng ta không duy trì giác tánh đó, chúng ta sẽ trở nên mê lầm bởi các tạo tác niệm tưởng và các vấn đề thuộc cảm xúc. Sự nhận ra rigpa mà chúng ta đang nuôi dưỡng và hoàn thành, trong thực tế sẽ biến thành vô minh bởi sức mạnh của các tiến trình tư tưởng và các xung đột cảm xúc. Rigpa là cái đối nghịch của vô minh. Giác tánh là cái đối nghịch với vô minh. Nơi chỗ hai thứ này đi vào tâm thức là cái thấy. Như thế, về nền tảng cái thấy là nhãn kiến của một cá nhân về thực tại, như thế nào nó tri giác thực tại. Vì thế nếu cái thấy là rigpa, thì nó đúng là cái mà chúng ta gọi là Phật tánh của sự giác ngộ nguyên thủy. Nhưng nếu việc chúng ta nhận ra rigpa không được duy trì, thì có nguy cơ bị rác rến cảm xúc và tri thức làm cho rigpa này trở nên bị ngăn che bởi vô minh, và cái thấy của ta sẽ thực sự trở nên một cái thấy vô minh. Chúng ta có thể dễ dàng bị mắc bẫy trong mọi loại vấn đề và tình huống ghê gớm do bởi ta không duy trì được sự nhận ra rigpa.
Khi ngơi nghỉ trong tánh giác rigpa, các bạn sẽ vẫn kinh nghiệm nhãn thức, nhĩ thức và v.v…, nhưng các bạn không bị phóng tâm ra khỏi Phật tánh thậm chí trong chốc lát. Các tri giác giác quan là phần của sự phô diễn không bị che chướng của giác tánh nội tại. Các bạn phải biết làm thế nào nhìn thấy, làm cách nào nhận thức giác tánh nội tại. Nếu các bạn không làm được, các bạn có thể ở trong trạng thái thiền định trầm trệ vô ký không đem lại kết quả gì.
Hãy ghi nhớ, không có chủ thể nhưng có một kinh nghiệm. Kinh nghiệm là sự trong sáng không bị ngăn che. Sự trong sáng được kinh nghiệm nhưng không bằng tâm thức ý niệm. Kinh nghiệm sự trong sáng thì đơn giản là kinh nghiệm về rigpa như nó là, một cách tự nhiên. Việc thành tựu nền tảng này về cái thấy thì siêu vượt tâm thức, siêu vượt sự ý niệm hóa, và siêu vượt các sự xuất hiện (hình tướng) khách quan, bởi nó thì thuần tịnh tự nguyên sơ.
Những kinh nghiệm nào đó thường xuất hiện trong thiền định, chúng là kinh nghiệm về lạc, sự trong sáng, và vô-niệm. Nếu ta trở nên bám dính vào các kinh nghiệm này như một vài loại quả trên con đường, ta sẽ tạo nên các nguyên nhân cho vòng sinh tử. Ví dụ nếu ta trở nên dính mắc vào lạc khi nó phát khởi trong tâm, vào lúc sự dính mắc đó xuất hiện nó tạo nên các nguyên nhân cho sự tái sinh trong dục giới. Nếu ta trở nên dính mắc vào sự trong sáng, điều đó tạo nên những nguyên nhân cho sự tái sinh trong sắc giới. Nếu ta trở nên dính mắc vào một trạng thái vô-niệm, nó siêu vượt ý niệm, điều đó gây nên những nguyên nhân để tái sinh trong cõi vô-sắc, là một nơi chốn có nhiều người không phải là Phật tử đang nhập thiền (định). Nếu không hiểu rõ điều này, không có sự hiểu biết về các cạm bẫy, sự thiền định của ta có thể bị tổn hại.
Thật bất hạnh, ở xứ sở này có một trở ngại to lớn, đó là việc canh chừng giờ giấc. Luôn luôn là thời gian. Mọi sự phải đúng giờ và khi việc gì đó đã xong thì nó phải được chấm dứt và ta không thể thậm chí đi đây đó và tiêu khiển bởi lẽ mọi người đang luôn luôn nhìn đồng hồ. Và sau đó có vấn đề ngôn ngữ, vì thầy và trò nói những ngôn ngữ khác nhau, phải chờ việc dịch lại và không thể cảm thông nhau một cách trực tiếp. Những điều này làm cho sự việc hơi khó khăn. Nhưng nếu các bạn học thiền định về Dzogchen một cách đúng đắn, thì cho dù các bạn bị ném vào tù không có thực phẩm trong một thời gian dài, các bạn sẽ không đau khổ vì cái đói hay nỗi khó chịu. Một người an trụ trong cái thấy sẽ không dễ bị đau khổ. Nếu ta an trụ trong cái thấy, ta không sợ hãi và thoát khỏi đau khổ. Còn nếu không, đau khổ sẽ miên man, vô tận. Các bạn phải chứng ngộ cái thấy với sự xác tín toàn vẹn để các hiện tượng của nỗi đau đớn và muộn phiền ngừng phát sinh.
Tôi muốn thảo luận về bản chất (tinh túy), bản tánh và phẩm tính của giác tánh nội tại. Bản chất của rigpa, giác tánh nội tại, phải được xác định. Bản chất của trái cầu pha lê này ở trước mặt tôi thì giống như nước được chứa trong một chiếc ly. Đó là bản chất của đồ vật này. Bản chất của bơ là dầu, bản chất của tất cả chúng sinh là tánh Không. Nó bao gồm tất cả chúng sinh trong sáu cõi sinh tử. Khi chúng ta nghĩ tưởng về sáu cõi chúng ta cần quan tâm tới chúng sinh trong các cõi bardo, vô lượng chúng sinh trong một trạng thái vô sắc, là những chúng sinh kinh nghiệm chính mình trong một thân thể tinh thần. Nó được tạo nên bởi tâm thức họ nhưng họ kinh nghiệm có một sắc tướng. Khi các bạn chết, các bạn sẽ lang thang trong trạng thái đó, một kinh nghiệm mà các bạn đã từng lập đi lập lại nhiều lần.
Tất cả chúng sinh trong các cõi này là chúng sinh hữu tình và có cùng Phật tánh. Vấn đề là tạm thời, bản tánh này đã bị ngăn che. Nhưng sự hiện hữu như một chúng sinh hữu tình của họ thì không vĩnh cửu. Nó vô thường bởi bản tánh thường hằng của họ, bản tánh nguyên sơ của họ, bản chất của sự hiện hữu của họ, là tánh Không, nó tự do đối với bất kỳ tạo tác nào. Ý niệm về việc có một cá tính đồng nhất như một cá nhân thì không có nền tảng. Mỗi cá nhân đã từng lang thang trong vòng sinh tử trải qua vô lượng cuộc đời trong quá khứ, từ vô thủy cho tới ngày nay.
Tâm thức thì thường hằng và trạng thái nhận thức cứ tiếp tục lang thang đó thì thường hằng. Lang thang trong sinh tử có nghĩa là có cái gì đó không chết. Cái gì đó vẫn đang tiếp diễn và cái đó là tâm thức. Có nhiều sự phân chia tâm thức, là điều mà tôi sẽ không đề cập tới ngay bây giờ, nhưng tâm thức không có màu sắc. Kinh nghiệm về một dòng tương tục đang tiếp diễn chỉ có sự hiện hữu tạm thời nhưng nó không hiện hữu một cách tuyệt đối, bởi lẽ bản tánh căn bản của trạng thái nhận thức là ba thân. Bản tánh nguyên thủy của trạng thái nhận thức đó là mạn đà la bao la của ba thân của tâm Phật.
Đó chính là bản tánh của các bạn, nhưng trong khi ở trên con đường các bạn không tỉnh giác về trạng thái đó hoặc các bạn không ở trên con đường. Các bạn bị ngăn che bởi ba độc và bị mắc kẹt trong tính chất tạm thời này của sự ngăn che. Vì thế các bạn phải đi vào con đường thực hành Dzogchen để được giới thiệu lại bản tánh ba thân của các bạn, là Phật tâm.
Ở một nơi nào đó trên con đường các bạn sẽ có thể chứng ngộ tự-tánh như trí huệ bẩm sinh nguyên thủy và kinh nghiệm mình đang ở trong mạn đà la vĩ đại của giác tánh nội tại, là Phật tánh. Khi các bạn chứng ngộ được mạn đà la trí huệ vĩ đại đó, là bản tánh bẩm sinh của riêng các bạn, thì các che chướng thô và tế sẽ hoàn toàn được tịnh hóa trong Pháp giới (dharmadhatu). Khi cả hai loại che chướng hoàn toàn bị tẩy sạch trong cõi giới của sự thật tuyệt đối, vajradhatu (kim cương giới), thì đó là Phật.
Nếu các bạn ở trong sự vô minh, nó giống như một màn mây ngăn che bầu trời gây nên bóng tối tạm thời. Nó là một tính chất tạm thời của tâm nhị nguyên, sự hiện diện của sự bám chấp và dính mắc, nó sẽ được tẩy sạch thành dharmadhatu, đó là Phật tánh nền tảng.
Cái thấy Dzogchen của thiền định có thể được chứng ngộ nhờ shamatha và vipashyana. Đây là điều các bạn cần nghiên cứu. Mọi khía cạnh của Dzogchen phải được thấu suốt. Nếu các bạn sắp thưởng thức một bữa ăn, các bạn nên thưởng thức toàn bộ những gì được mời. Tương tự như vậy, để thực sự nhận thức sâu sắc Dzogchen, các bạn cần hiểu biết lịch sử của Dzogchen, nó đã được đưa vào thế giới này như thế nào, làm thế nào để thực hành nó, nó dẫn tới giải thoát ra sao. Các bạn cần hiểu rõ tất cả những chi tiết khác biệt của con đường vĩ đại này. Một khi các bạn thấu suốt và hiểu rõ những chi tiết khác biệt này, các bạn sẽ nhận thức rằng không có gì khác là quan trọng. Mọi hoài nghi sẽ được cắt đứt khỏi tâm các bạn và các bạn sẽ đi thẳng tới mục tiêu của mình bằng thực hành Dzogchen. Các bạn sẽ vượt lên sự hoài nghi hay do dự. Sẽ không có các giới hạn, và các bạn sẽ được hướng dẫn tới sự thiền định giác tánh nguyên thủy và không thứ gì khác ngoài nó, cho tới khi các bạn nhận ra chân tánh của các bạn là ba thân, không bao giờ hoài nghi, xa lìa nó. Các bạn phải có sự xác quyết đó. Sau đó các bạn sẽ được chuẩn bị cho giây phút chết là cái gì sắp xảy ra.
Vào lúc chết, khía cạnh mẹ của tịnh quang ló rạng. Trong thời gian ở trên con đường, các bạn có cơ hội để thực hành khía cạnh con của tịnh quang, cuối cùng chuẩn bị để gặp gỡ mẹ. Nếu các bạn không có sự nhận ra đó nhờ việc thực hành trong đời này, thì khi các bạn kinh nghiệm giây phút chết và khía cạnh mẹ của tịnh quang xuất hiện, các bạn sẽ không nhận ra mẹ và sẽ tiếp tục lang thang trong sinh tử. Nếu các bạn đã từng làm hiển lộ khía cạnh con, thì vào lúc chết con và mẹ sẽ hợp nhất và các bạn sẽ được tái sinh trong một cõi Phật. Nếu điều đó không xảy ra thì sự sinh ra làm người quý báu này đã bị phí phạm. Giờ đây các bạn phải chuẩn bị trong khi các bạn có cơ hội để thực hiện như thế.
Các bạn phải hiểu rằng khía cạnh con và khía cạnh mẹ của tịnh quang chỉ là một. Vấn đề ở đây là tịnh quang chỉ là tịnh quang, nhưng có một khác biệt trong nhãn kiến của hành giả. Một người sơ học tri giác tịnh quang trong một cách thức không giống với một hành giả có kinh nghiệm hơn tri giác nó. Thế giới không thay đổi nhưng tri giác của cá nhân thì thay đổi. Khi các bạn nói về tịnh quang của nền tảng, đó là nói rằng tự nền tảng các hiện tượng không là gì khác hơn tịnh quang. Tịnh quang của con đường có ý nghĩa là hành giả trưởng thành sẽ bắt đầu nhận thức rằng các sự vật đã từng luôn luôn là và sẽ luôn luôn là tịnh quang. Tịnh quang cũng vẫn y như thế. Nó là một vấn đề của tri giác. Khi chúng ta nói về tịnh quang của khía cạnh mẹ hay nền tảng, chúng ta đang nói về một tri giác trưởng thành về tịnh quang của toàn bộ thực tại. Đây không phải là một tịnh quang khác biệt với tịnh quang của con đường, hay khía cạnh con.
Một cách để tập trung vào tịnh quang là ngồi trong một tư thế thiền định và để tâm nghỉ ngơi trong một trạng thái trong sáng. Cách thức khác xảy ra khi các bạn đang rơi vào giấc ngủ. Chính các bạn đang ở trong trạng thái đó khi giữa giấc ngủ sâu và sự tỉnh táo, có một điểm ở đó ta cảm thấy như một người ở giữa bầu trời xanh vô hạn nơi không có nền, không trên, không dưới, không có gì ở hai bên. Nếu các bạn đi ra ngoài và nhìn bầu trời, các bạn biết rằng bầu trời có màu xanh dương. Nhưng giờ đây chúng ta đang nói về tâm thức các bạn trở thành một với bầu trời xanh vô hạn không có phương hướng, trung tâm và chu vi, và đây là cái mà ta gọi là tịnh quang nền tảng. Nó chói ngời và không có phương hướng hay chu vi, không có các biên giới.
Tôi muốn nhắc lại là mẹ và con cùng là một và các bạn đang không chuẩn bị cho điều gì khác. Không có tịnh quang nào khác. Tất cả những gì các bạn đang làm là trưởng thành và thấy vẫn một ánh sáng đó. Theo thời gian các bạn trưởng thành và nhìn xung quanh, các bạn thấy ánh sáng theo một cách khác và vì thế không phải là ánh sáng đã thay đổi mà là vì các bạn đang nhìn nó với sự trưởng thành chín chắn hơn. Tuyệt đối cần thiết phải hiểu rằng khi các bạn nói về các khía cạnh mẹ và con của tịnh quang thì các bạn không nói về hai loại ánh sáng khác nhau mà đúng hơn là các khác biệt trong sự tri giác về ánh sáng. Cũng tương tự như một em bé Tây Tạng đang học nói một từ như “ánh sáng”, chúng có thể nói “oksel” bởi chúng không biết rằng từ đó là “osel”. Khi chúng lớn lên chúng sẽ phát âm nó một cách đúng đắn. Tình huống ở đây thì cũng thế. Ánh sáng thì vẫn là ánh sáng đó nhưng chính sự trưởng thành của hành giả và tri giác của họ thay đổi.
Bản văn gốc nói rằng bản chất (tinh túy) là Pháp Thân và bản tánh của Pháp Thân là sự trong sáng chói lọi. Tánh Không và sự trong sáng thì không-hai. Tánh Không là bản tánh căn bản của Bồ đề tâm, giống như bơ và dầu là một trong bản chất. Đây là cách thức để hợp nhất cái thấy với thiền định. Đây là cách ta cần thấu suốt tên Khyentse Ozer.
Ba tên trong bản văn gốc tương ứng với cái thấy, thiền định và hành động. Cái thấy là “sự bao la vô hạn vĩ đại”, tên của Longchen Rabjam, Đức Longchenpa toàn trí vĩ đại. Thiền định, là sự hiện thực hóa cái thấy, được định nghĩa như Khyentse Ozer, tên của Jigme Lingpa, và có nghĩa “những tia sáng của sự thấu suốt trí huệ và từ ái”. Khi hai thứ này được hợp nhất, nó là bản chất (tinh túy), dharmakaya (Pháp Thân) và sự trong sáng phát sinh từ đó. Tinh túy, Pháp Thân, cái bao la vô hạn vĩ đại này không có các biên giới hay giới hạn. Nó là cái thấy. Thiền định, những tia sáng của hiểu biết và tình thương, là sự trong sáng của tánh Không. Sự trong sáng phát sinh từ tánh Không.
Cái thấy là Longchen Rabjam. Cái thấy xảy ra nhờ chứng ngộ được tánh vô ngã của cá nhân và tánh vô ngã của các hiện tượng, tức thực tại như nó là. Nhận thức này lần lượt nhường bước cho sự thấu suốt về trí huệ nguyên thủy. Cái thấy là Longchen Rabjam, nó có nghĩa là nhờ một sự thấu suốt về tánh Không của các hiện tượng, ta chứng ngộ được bản tánh của các hiện tượng như nó là.
Vì thế cái thấy là “sự bao la vô hạn vĩ đại”. Điều đó có nghĩa là ta thành tựu chánh định về sự chứng ngộ bản tánh của thực tại như nó là. Từ đó xuất hiện “các tia sáng của hiểu biết và tình thương”. Bằng việc nhận ra rigpa, ta có một sự thấu suốt về bản tánh của lòng bi mẫn và thực tại. Như thế, chúng ta có hai loại prajna, hay trí huệ, xảy ra ở đây, với sự trong sáng phát sanh và soi chiếu nhờ sự thấu suốt bản tánh của ta và người. Đây là điều mà “các tia sáng của hiểu biết và tình thương” muốn nói tới.
Từ nền tảng của tánh Không, sự trong sáng hay năng lực trí huệ nguyên thủy chiếu tỏa lòng từ và bi cũng như thần lực. Phải có thần lực để đi tới tất cả chúng sinh hữu tình theo cách này. Thần lực đó ám chỉ tới hành động (hạnh) và nó đưa chúng ta tới cái tên thứ ba trong bản văn gốc – Gyalwe Nyugu, “con trai của các đấng Chiến Thắng” đệ tử của ngài Jigme Lingpa. Hành động là khả năng để thực sự dấn mình vào hoạt động biểu lộ cái thấy và thiền định này.
Hành động là Gyalwe Nyugu. Điều này ám chỉ sự kiện ngài Gyalwe Nyugu là một Bồ tát phi thường mà sự chứng ngộ thì ngang bằng với sự chứng ngộ của Đức Văn Thù. Ngài đã có cái thấy Dzogchen cao tột, và hoạt động của ngài là hoạt động của sáu ba la mật. Để dẫn dắt chúng sinh, bằng lòng từ và bi của ngài, ngài đã dấn mình vào sáu ba la mật. Như vậy, mặc dù sự kiện là ta có thể có sự chứng ngộ vĩ đại như Đức Văn Thù, nhưng giống như các đám mây có thể ngăn che mặt trời chứng ngộ, các ác hạnh có thể ngăn che sự chứng ngộ. Hoạt động của Gyalwe Nyugu minh họa tầm quan trọng của hành động, bất luận cái thấy của ta cao cả đến đâu. Điều này biểu lộ con đường lý tưởng đi tới giác ngộ nhờ cái thấy, thiền định và hành động.
Cái thấy tương ứng với tên Longchen Rabjam, sự bao la vô hạn vĩ đại. Đức Longchepa đã rất nhấn mạnh vào cái thấy trong giới hạn của việc củng cố nền tảng căn bản. Thiền định tương ứng với tên Khyentse Ozer, những tia sáng của hiểu biết và tình thương là tên của Ngài Jigme Lingpa. Sự nhấn mạnh ở đây nằm ở chỗ hợp nhất hiểu biết (trí huệ) và tình thương như căn bản cho thiền định. Trọng tâm của sự thiền định này là hợp nhất sự hiểu biết trí huệ nguyên thủy này và thiện tâm từ ái. Ngài Gyalwe Nyugu là một đệ tử của Jigme Lingpa và ngài đã đặt tầm quan trọng to lớn ở hành động. Gyalwe Nyugu có nghĩa là “con trai của các đấng Chiến Thắng”, con trai của chư Phật và chư Bồ tát. Hành động của Dzog-chen biểu lộ trong hình thức sáu ba la mật : bố thí, nhẫn nhục, giới luật, tinh tấn, thiền định, và trí huệ siêu việt.
Cái thấy, thiền định và hành động được thấu suốt nhờ một giảng giải về ý nghĩa của các tên của ba đạo sư dòng truyền thừa vĩ đại này, cũng như trên các khía cạnh mà mỗi vị đã nhấn mạnh. Chúng ta cần trở thành các bình chứa (pháp khí) thích hợp và cần hiển lộ Dzog-chen trong đời chúng ta. Chúng ta có may mắn lớn lao được gặp con đường này, được thực hành và giống như các đạo sư vĩ đại trong quá khứ, chẳng hạn Đức Long-chenpa và Milapera. Tốt nhất là trải đời mình trong ẩn thất, và tự chế đối với việc gặp gỡ những người thế gian, để sang một bên các hoạt động và hành xử của thế giới bình thường và nhất tâm thực hành cho tới khi tâm thức ta được giải thoát trong cõi giới của tánh thanh tịnh nguyên sơ.
Trong thực hành Dzogchen, ta phải nhận thức nền tảng như Phật, con đường như con đường của sự không-thiền định, và quả như cái gì không được tìm kiếm, đó là sự tự do đối với bất kỳ mục đích nào. Nền tảng ám chỉ nền tảng của bổn tâm ta mà thực ra nó là Pháp Thân. Bản chất (tinh túy) là tánh Không. Bản tánh của nó là sự trong sáng, Báo Thân. Nó hiển lộ qua lòng bi mẫn, là Hóa Thân. Nhờ việc nhận ra bản tánh của bất kỳ điều gì xảy ra, ta có sự quán chiếu vào bản tánh của các niệm tưởng và các cảm xúc, và do đó ta nhận thức được rằng chúng không hiện hữu như vậy. Điều này được kể đến như Phật thuộc phạm vi con đường. Thực tế là giác tánh đó xuất hiện tự nhiên và mọi phẩm tính thì tràn đầy trong giác tánh xuất hiện tự nhiên đó. Quả Phật bất khả đắc không được chứng ngộ từ nơi chốn nào khác ngoài giác tánh tự-sinh của riêng ta. Tâm ta là Phật thuần tịnh, thân ta là sự phô diễn của bổn tôn và mạn đà la. Không cần tìm kiếm ở bất cứ nơi nào khác hơn là ngay ở nơi ta. Phật mà ta không cần phải tìm kiếm ở nơi nào khác chính là Phật của giác tánh tự sanh của chúng ta.
Ba trạng thái của Phật được toàn thiện trong bổn tâm ta. Vào lúc này chúng ta đang kinh nghiệm phạm vi nền tảng cũng như phạm vi con đường, và khi tất cả các pháp và các hình tướng bình phàm bị cạn kiệt trong trạng thái vĩ đại siêu vượt tư tưởng, chúng ta sẽ kinh nghiệm Phật của quả. Trong phạm vi nền tảng, khi ta đang ở trong một trạng thái vô minh, đó như thể có một năng lực cho cái gì đó nhú mầm lên nhưng mầm chồi đã không xuất hiện. Năng lực là cái căn bản, Phật thuộc phạm vi nền tảng là bản tánh của chúng ta, và khi mầm chồi xuất hiện thì đó là phạm vi con đường, nó sẽ tiếp tục phát triển cho tới khi kết quả sau cùng được thành tựu, nó là trạng thái Phật quả. Tự căn bản con đường trợ giúp mầm chồi để nó lớn mạnh thành cái gì vốn sẵn có – tức là Phật. Khi trạng thái Phật quả đó được chứng ngộ, thì nó vẫn vốn là tiềm lực nguyên sơ và bẩm sinh của ta từ vô thủy.
Truyền thống Dzogchen siêu vượt các giới hạn của sinh tử bởi gốc rễ của sinh tử là sự bám chấp vào bản ngã, và điều đó phải bị tiệt trừ. Cách thức duy nhất mà nó có thể bị tiệt trừ là nhờ sự tiếp cận này. Vì thế ngay cả những phương pháp của chư vị Thanh Văn, Độc Giác Phật, Bồ Tát, và ba trường phái tantra ngoại cũng dẫn tới trạng thái vô song của cái thấy, thiền định và hành động của Dzogchen. Tất cả giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được Đức Padmasambhava trình bày trong truyền thống Dzogchen.
Một khi ta đạt được giác ngộ và thành tựu một trạng thái giải thoát, hoàn toàn siêu vượt mọi sự ở trong samsara (sinh tử), thì chúng ta không thể quay trở lại sinh tử. Một vị Phật sẽ không bao giờ ngừng là một vị Phật. Một khi sự giác ngộ được thân chứng, nó là một trạng thái không ngừng nghỉ và không bao giờ vơi cạn. Trong các truyền thống khác, niềm hy vọng của ta là sẽ được tái sinh trong thiên đường hay trong một trạng thái cao hơn, và điều ấy rất có thể xảy ra. Tuy nhiên, nếu nó không là Phật tánh, nếu không là sự chứng ngộ Phật tánh, thì ta sẽ ở trong cảnh giới cao đó cho tới khi nghiệp bị cạn kiệt và tiếp tục đi sang trạng thái tái sinh kế tiếp, vẫn còn ở trong sinh tử. Một khi nghiệp của ta tự cạn kiệt, cái chết xảy ra và ta tiếp tục đi sang trạng thái tái sinh kế tiếp cho tới khi gốc rễ của sinh tử – sự bám chấp vào bản ngã – bị loại bỏ. Các bạn cần luôn luôn ghi nhớ trong tâm rằng sự tiếp cận Dzogchen là để tiệt trừ tận gốc sự bám chấp vào một cái ngã này, sự thiếu tỉnh giác về chân tánh của ta, đây là khả năng tiệt trừ mọi sự che chướng.
CHƯƠNG 3
ĐIỂM TRỌNG YẾU THỨ NHẤT :
NHẬN RA BẢN TÁNH CỦA CÁC BẠN
Các giáo lý Dzogchen tiệt trừ ngay cả những che chướng vi tế nhất ngăn trở ta trong việc chứng ngộ Phật tánh. Đó là các che chướng thô, các che chướng vi tế và các khuynh hướng tập quán. Thêm vào đó, chúng ta có các che chướng xảy ra từ khi được thụ thai trong một tử cung. Giây phút tâm thức trung ấm được lôi kéo vào tử cung của bà mẹ nó, ở đó nó trú ngụ một thời gian nhất định, tâm thức trở nên hoàn toàn bị che chướng đến nỗi cho dù một cá nhân đã từng là một đại học giả trong đời trước, khi được sinh ra từ tử cung người ấy phải trải qua toàn bộ tiến trình học hỏi một lần nữa. Các bạn sẽ không nhớ lại kiến thức mà các bạn đã có trong quá khứ và thậm chí sẽ phải học lại vần abc. Cũng có sự che chướng xảy ra từ sự kết hợp tính dục, và cho tới khi ta có thể chuyển hóa các khuynh hướng tập quán thông thường nhờ sự thực hành thuộc giai đoạn phát triển, các che chướng này rất khó tẩy trừ.
Trong Dzogchen, chúng ta nương tựa vào cái thấy, thiền định, và hành động. Ba điều này phải được thành tựu trong đời này. Trong khi các bạn ở trên con đường, nhiều chướng ngại có thể xuất hiện, và các bạn phải học cách đưa chúng lên con đường đức hạnh và chuyển hóa chúng. Một chướng ngại ám chỉ bệnh tật và các loại quấy rầy khác nhau xảy ra, chẳng hạn như các tai nạn. Điều mà ta phải giải thoát là những niệm tưởng phiền não xuất hiện và khiến cho ta cảm thấy buồn hay vui hoặc bất kỳ điều gì khác. Khi bệnh tật xảy ra và các bạn có một niệm tưởng về sự khó chịu, các bạn phải giải thoát các niệm tưởng của mình khỏi chướng ngại đó. Chướng ngại sẽ nảy sinh, nhưng các niệm tưởng được giải thoát và đây là điều được nhắm tới bằng cách đưa các chướng ngại vào con đường. Để làm được như thế các bạn cần nhận ra các chướng ngại khi nó đang xuất hiện. Nhờ sự nhận ra này chướng ngại có thể được tự-giải thoát. Rất cần thiết phải vẫn tự do đối với việc mong cầu lẫn sự buồn phiền để tiến bộ theo con đường của thực hành Dzogchen.
Như tôi, đã nói hôm qua, Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu tương ứng với tên của ba đạo sư vĩ đại. Cái thấy là Longchen Rabjam, “sự bao la vô hạn vĩ đại”. Thiền định là Khyentse Ozer, “các tia sáng của trí huệ và tình thương”. Hành động, hay sự hoạt động, là Gyalwe Nyugu, “con trai của các đấng Chiến Thắng”. Với cái thấy này về sự bao la vô hạn vĩ đại, thiền định về các tia sáng của trí huệ và tình thương, và hành động của tất cả các đấng Chiến Thắng, ta sẽ có năng lực trong đời này để tẩy trừ sự bám chấp và dính mắc nhị nguyên, gốc rễ của vô minh, và cội nguồân của việc bám chấp vào một bản ngã. Quả thật, ta không chỉ có thể tẩy trừ mà còn có thể tiêu diệt hoàn toàn độc tố này từ tận gốc rễ của nó. Không nhận ra được cái thấy thì việc tiệt trừ này sẽ không thể có được, và vì thế tiến trình này phải thật rõ ràng.
Ta phải hiểu rõ bản tánh nền tảng của tánh Không, cũng chính là sự hiểu biết về bản tánh của tâm. Sự hiểu biết bản tánh nền tảng của tánh Không có hai phần : ta phải phát triển sự xác tín vào sự vô ngã của cái ta và sự vô ngã của mọi sự xuất hiện. Điều này có nghĩa là ta tiệt trừ tâm thức nhị nguyên của sự bám nắm vào một cái ta và sự dính mắc vào các sự xuất hiện. Khi đó, ta có thể nhận thức được rằng mọi sự xuất hiện thì không hiện hữu.
Được bao gồm trong “mọi sự xuất hiện” là sáu tri giác : sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức, chúng bao gồm căn bản của kinh nghiệm khách quan. Tất cả những tri giác này không hiện hữu từ quan điểm của bản tánh nền tảng của tánh Không. Và cực chủ thể của tri giác, có nghĩa là bản thân ta, thì không hiện hữu. Một khi hai trạng thái của sự vô ngã hay không hiện hữu này được nhận thức, ta ở trong một vị trí để được giới thiệu một cách đúng đắn vào cái thấy của Dzogchen. Đây là cái thấy về bản tánh bẩm sinh của ta như giác tánh nội tại, thoát khỏi sự tin tưởng rằng có một cái ta thực sự hiện hữu và có thực của các sự xuất hiện.
Tiến trình của sự xác quyết điều này là trước tiên khám phá sự không hiện hữu của cái ta (bản ngã). Để thực hiện, ta phải mổ xẻ thân xác ta, ấy là nói vậy, trong một cố gắng định vị cái “ta” này, bản ngã này, quan niệm về cái ngã này, để xem nó hiện hữu trong đầu ta, trong tứ chi hay các bộ phận khác của cơ thể, hoặc ở trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), và theo đuổi sự nghiên cứu này cho tới khi ta đi tới kết luận rằng bản ngã thực sự không hiện hữu. Sau đó, ta bắt đầu nhận thức sâu xa thân xác như một nhà khách và tâm như một người khách trong căn nhà đó. Vào lúc chết, tâm và thân tách lìa, nhưng khi chúng ta còn sống thì chúng ở trong sự hợp nhất toàn hảo. Chính là trong lúc các bạn còn sống các bạn phải thấu suốt chân tánh của mối tương quan của chúng. Thân xác ở đây trong thế giới này. Nó là một sản phẩm của thế giới này, một sản phẩm của các yếu tố (các đại), và nó tan rã trở lại vào thế giới loài người này, ở đó nó tan hoại. Tâm thức đi sang đời sống kế tiếp, trạng thái trung ấm và được Yama, Thần Chết, mời đi tiếp. Thần Chết xuất hiện cùng các sứ giả của ông ta và đưa tâm thức tới trạng thái tái sinh kế tiếp. Cái thực sự dẫn dắt tâm thức là các tích tập thuộc nghiệp tích cực và tiêu cực của ta. Nếu ta có thiện nghiệp trổi vượt thì ta sẽ được tái sinh trong các tầng cấp hiện hữu cao hơn, trong các cõi trời và cao xa hơn nữa. Nếu ta có các tích tập tiêu cực trổi vượt thì ta sẽ tái sinh trong các cõi thấp. Với sự hiểu biết này, các bạn có thể hiểu rõ tầm quan trọng của việc học pháp Dzogchen.
Có nhiều truyền thống Dzogchen khác nhau. Trong truyền thống của tôi, sự nhấn mạnh nằm ở việc có được sự xác quyết của cái thấy bằng cách nhận ra giác tánh nội tại. Một khi giác tánh nội tại được nhận ra, nó phải được duy trì bằng sự thiền định. Nhờ sức mạnh của thiền định, hành động của ta thiện lành một cách tự nhiên. Dĩ nhiên, ta còn phải thực hiện các thực hành như các sự lễ lạy, cúng dường mạn đà la, sáu ba la mật, và v.v… và ta vẫn còn phải quan tâm tới việc từ bỏ ác hạnh và tích tập thiện hạnh. Có những người nói rằng một khi hành động hay sự hoạt động đã được chứng ngộ thì không cần thiết phải thực sự làm bất cứ thực hành nào với thân thể của các bạn, và các bạn có thể thực hành sáu ba la mật với tâm các bạn. Nhưng khi chúng ta nói về hành động có tính chất giác ngộ thì điều này bao gồm cả hoạt động vật lý, nó phải được thực hiện với một tâm thức không bao giờ dao động khỏi sự tỉnh giác của cái thấy, nó là sự nhận ra bản tánh của các bạn như giác tánh nội tại. Như vậy, khi các vọng tưởng xuất hiện, chúng được tự giải thoát ngay khi xuất hiện. Đó là sự thiền định, bởi nhờ việc hộ trì nhận biết của các bạn về giác tánh nội tại mà các ý niệm xuất hiện và được tự-giải thoát một cách tự nhiên. Cái thấy của Dzogchen hủy diệt sự phóng tâm. Thiền định cho phép ta chịu đựng mọi khía cạnh của nghịch cảnh và hành động được giải thoát khỏi các giới hạn của sự mong cầu và phiền muộn. Kết quả là sự đạt được trạng thái Phật quả. Và bởi vì tất cả chúng ta phải đau khổ vì sự sinh, già, bệnh, và chết nên cực kỳ quan trọng là phải thọ nhận các sự ban phước của giáo lý Dzogchen, và khi thực hành Dzogchen rất cần thiết và lợi lạc nếu thực hiện các thiện hạnh với thân thể ta. Khi thực hành Dzogchen các bạn còn cần tận lực để học hỏi con đường Sutra (Kinh) và nhận thức bản tánh của tánh Không theo sự tiếp cận kinh điển, bởi lẽ bất kỳ điều gì được học hỏi từ các thừa khác sẽ nâng cao cái thấy Dzogchen của các bạn.
Đây là một giáo lý dễ hiểu, có thể được ban cho những người bình thường, và không cần một thời gian dài để thành tựu hay đòi hỏi thật nhiều điều phức tạp. Nó được truyền dạy bởi ba dòng truyền thừa : dòng truyền dạy tâm-truyền-tâm, dòng truyền dạy nhờ các biểu tượng và dòng khẩu truyền. Về sự truyền dạy, tất cả các truyền thống Dzogchen được bao hàm trong hai phạm trù được gọi là trekchod và tošgal. Trekchod có nghĩa là “cắt đứt thấu đến tánh thanh tịnh nguyên thủy” và tošgal nghĩa là “vượt qua tới hiện diện tự nhiên”. Sự cắt đứt để đi đến tánh thanh tịnh nguyên thủy có nghĩa là chứng ngộ cái thấy. Sự vượt qua tới sự hiện diện tự nhiên có nghĩa là sự nhận ra bốn thị kiến của thực hành tošgal. Bốn thị kiến này là : gặp gỡ Pháp tánh (dharmata), kinh nghiệm mở rộng, rigpa đạt tới mức độ viên mãn của nó, và sự tiêu tan các hiện tượng trong chân tánh của chúng. Kết quả của sự tu tập này là thân cái-bình-trẻ-trung, là nơi ngơi nghỉ bất biến của đấng bảo hộ nguyên sơ, Đức Saman-tabhadra (Phổ Hiền).
Đây là một giáo lý dễ hiểu, có thể được ban cho những người bình thường, và không cần một thời gian dài để thành tựu hay đòi hỏi thật nhiều điều phức tạp. Nó được truyền dạy bởi ba dòng truyền thừa : dòng truyền dạy tâm-truyền-tâm, dòng truyền dạy nhờ các biểu tượng và dòng khẩu truyền. Về sự truyền dạy, tất cả các truyền thống Dzogchen được bao hàm trong hai phạm trù được gọi là trekchod và tošgal. Trekchod có nghĩa là “cắt đứt thấu đến tánh thanh tịnh nguyên thủy” và tošgal nghĩa là “vượt qua tới hiện diện tự nhiên”. Sự cắt đứt để đi đến tánh thanh tịnh nguyên thủy có nghĩa là chứng ngộ cái thấy. Sự vượt qua tới sự hiện diện tự nhiên có nghĩa là sự nhận ra bốn thị kiến của thực hành tošgal. Bốn thị kiến này là : gặp gỡ Pháp tánh (dharmata), kinh nghiệm mở rộng, rigpa đạt tới mức độ viên mãn của nó, và sự tiêu tan các hiện tượng trong chân tánh của chúng. Kết quả của sự tu tập này là thân cái-bình-trẻ-trung, là nơi ngơi nghỉ bất biến của đấng bảo hộ nguyên sơ, Đức Saman-tabhadra (Phổ Hiền).
Truyền thống Dzogchen này là một pháp môn người ta thường nói là không thể truyền bá rộng rãi, nhưng ở Tây Tạng, tôi dạy Dzogchen trên một căn bản quy củ, đặc biệt cho những người lớn tuổi. Có khoảng sáu tới bảy trăm người lớn tuổi ở Golok đến học giáo lý Dzogchen với tôi. Những người Tây Tạng già này không thể nghe và nhìn rõ, nhưng họ là các hành giả hảo hạng. Và rồi có mọi thanh niên đến thọ nhận giáo lý Dzogchen, họ luôn luôn nói họ yêu thích được nghe Pháp và Pháp cực kỳ hấp dẫn đối với họ biết bao, nhưng một khi rời khỏi phòng của tôi họ không thực hành do bị phóng tâm bởi những thứ khác. Tôi biết rằng trong tương lai tôi sẽ bị chỉ trích bởi người ta sẽ nói rằng tôi đến Mỹ và giảng dạy rộng rãi pháp Dzogchen, và đây là điều tôi sẽ phải đối phó. Tuy nhiên, xin hãy hiểu rõ rằng tôi đến đây là vì lợi lạc của chúng sinh và tôi có một mục đích, một lý do để có mặt nơi đây, tôi dự định hoàn thành mục đích ấy và đó đúng là những gì tôi đang làm.
Tôi có một vài lời khuyên cho các lama và các nhà sư có mặt ở đây hôm nay. Các lama và nhà sư cần có một chứng ngộ nào đó về Dzogchen, đặc biệt là nếu họ sắp nhận lãnh các sự cúng dường để làm các thực hành nhân danh người đã chết. Nếu họ không có bất kỳ chứng ngộ Dzogchen nào thì làm sao họ có thể dẫn dắt một tâm thức từ trạng thái bardo đi tới trạng thái cao hơn của sự giải thoát, hoặc thậm chí chỉ đơn giản trợ giúp người khác tẩy trừ các chướng ngại? Các chướng ngại phát sinh từ các ý niệm và vì thế nếu người nào đó không có bất kỳ chứng ngộ Dzogchen nào thì sẽ có thêm các ý niệm được tạo ra và vị lama hay nhà sư sẽ không có năng lực để loại trừ ý niệm mà trước hết chúng gây nên chướng ngại. Điều rất quan trọng là phải thực hành Dzogchen để thành tựu tất cả các thực hành này vì sự lợi lạc của những người khác và đó là lý do tại sao tôi đang ban tặng các giáo lý này ở đây. Ít nhất, ta cần có Bồ đề tâm. Điều tiên quyết quan trọng nhất đối với Dzogchen là Bồ đề tâm.
CHƯƠNG 4
ĐIỂM TRỌNG YẾU THỨ HAI :
XÁC QUYẾT Ở MỘT ĐIỀU
Điểm trọng yếu đầu tiên là sự nhận ra chân tánh của các bạn, điều này đã được thảo luận. Điểm trọng yếu thứ hai là sự xác quyết trên một điều trong thiền định. Việc nhận ra bản tánh của ta là sự thành tựu cái thấy. Một khi bản tánh của ta được nhận ra, sự thiền định cần được hiểu rõ. Thiền định được sử dụng để xác quyết trên một điều, có sự xác quyết trên một điều, đó là sự nhận ra bản tánh của riêng ta. Như Ngài Jigme Lingpa đã nói : “Trong khi ngơi nghỉ trong sự nhận ra rigpa, sẽ không có thậm chí một mảy tóc xao lãng lang thang và một nguyên tử thiền định nào.” Các giáo huấn này là những giáo lý tối hậu về việc tọa thiền thế nào và làm sao duy trì an định suốt trong ba thời quá khứ, hiện tại và tương tức là trong ban ngày, trong ban đêm, trong khi thiền định,-lai và trong các kinh nghiệm hậu-thiền định. Trong mọi lúc và trong mọi tình huống, ta không ngừng an nghỉ trong rigpa. Đây là sự thực hành thiền định, là điểm trọng yếu thứ hai về sự xác quyết trên một điều. Chính điều đó là cái mà các bạn duy trì không ngừng nghỉ. Tâm thì không ngừng nghỉ, và nếu sự tỉnh giác được duy trì thì ta không bao giờ xa lìa với chân tánh của ta. Rigpa có nghĩa là sự nhận ra bản tánh của tâm.
Ngày hôm qua tôi đã nói qua về sự thiền định shamatha và vipashyana, sự an trú yên bình và sự quán chiếu thấu suốt. Các tiếp cận Dzogchen với các giáo lý này thì khác biệt các trường phái Phật giáo thấp hơn. Sự an trú yên bình thì giống như một đại dương không có sóng, hoàn toàn yên tĩnh. Thông thường, bản tánh của đại dương là sự chuyển động và sự phô diễn của mọi sự chuyển động đó là những con sóng. Khi nước lắng dịu và yên tĩnh, nó trở nên trong trẻo và các bạn có thể thấy rõ nó. Nó trở nên hoàn toàn trong vắt và được so sánh với sự quán chiếu thấu suốt. Cũng thế, sự trong sáng xuất phát từ một tâm thức an tĩnh. Bởi bản tánh của giác tánh nội tại thì không bị ngăn che bởi bất cứ điều gì, không có những phân biệt hay các giới hạn được áp đặt lên tâm thức. Không có các biên giới. Những trạng thái xuất hiện trong bầu trời như các đám mây và bóng tối, ngăn che sự tinh khôi của không gian, và điều đó tương tự như các ý niệm phát sinh trong tâm chúng ta. Khi chúng ta nghỉ ngơi trong giác tánh rigpa, các che chướng đó không hiện diện, và khi chúng không hiện diện, chúng ta đang an trụ một cách yên bình. Khi chúng ta đang an trụ yên bình trong rigpa, sự trong sáng của rigpa hiện diện bẩm sinh và sự trong sáng đó là sự quán chiếu thấu suốt. Các con sóng của sự mê lầm bị tiệt trừ và giác tánh nội tại tự-sinh tự biểu lộ như sự quán chiếu thấu suốt. Sự quán chiếu thấu hiện-suốt này cũng có thể được gọi là svabhavikakaya sự trong-thân của bản tánh của thực tại như nó là sáng trống không, nó cũng là Pháp Thân. Nó không tách lìa Pháp Thân. Trong khi duy trì cái thấy rigpa, là sự thiền định, bất kỳ điều gì xuất hiện trong tâm, dù là các cảm xúc về nỗi vui hay nỗi buồn, đều không được đeo đuổi theo. Nếu các bạn đeo đuổi các tư tưởng và cảm xúc xuất hiện, đeo bám vào tri giác chủ thể và khách thể, thì các bạn đang sử dụng tâm thức ý niệm bình thường và đang tích tập các khuynh hướng tập quán. Không có gì để làm với rigpa. Không có sự thiền định được áp đặt lên cái thấy Dzogchen. Cái thấy là sự thiền định. Nếu có điều gì được áp đặt, một vài loại kỹ thuật, thì nó trở thành tri giác mê lầm, các hiện tượng mê lầm.
Ta phải quen thuộc với sự duy trì cái thấy trong trạng thái tự nhiên của nó. Nếu ta không quen thuộc với điều đó thì sự thiền định là một dòng vọng tưởng ngăn che rigpa. Làm thế nào các bạn có thể củng cố việc nhận ra rigpa của các bạn nếu như các con sóng vọng tưởng đang liên tục đổ tràn lên nó? Đây là một giáo huấn trực chỉ cốt tủy về cách thiền định không thiền định. Không có gì để nắm giữ như là một sự thiền định. Các bạn phải hợp nhất cái thấy và sự thiền định giống như nước và sữa. Nếu các bạn không biết cách nào để làm điều này, các bạn là một người bình thường đang thực hành một vài hình thức thiền định thấp hơn. Nói thế không có nghĩa là các loại thiền định khác là các cấp bậc không có giá trị trên con đường, nhưng chúng không phải là thiền định Dzogchen.
Dzogchen không có thiền định. Bản tánh thì trống không và bản tánh trống không đó là sự bao la vô hạn của Pháp tánh. Nó là cái gì không bao giờ xa lìa các bạn nhưng các bạn hoàn toàn chưa từng thấy nó trước đây. Vì thế giờ đây các bạn phải làm sáng tỏ nó. Các bạn phải hiểu rõ sự quân bình của bổn tâm các bạn, nó là giác tánh nội tại, sự trong sáng trống không thoát khỏi bất kỳ loại tạo tác nào. Dù điều gì xuất hiện, niềm hạnh phúc hay nỗi buồn phiền, hoặc bất cứ điều gì, hãy chỉ cho phép nó được biểu lộ như nó xuất hiện tự nhiên từ tánh Không và sau đó tan hòa trở lại vào tánh Không. Để tiến trình đó có thể xảy ra một cách tự nhiên, mà nó sẽ như thế, các bạn phải thành tựu sự xác quyết trong cái thấy và duy trì nó trong sự thiền định. Nếu các bạn không có sự xác quyết mạnh mẽ, các bạn sẽ không có năng lực cần thiết để duy trì cái thấy khi đứng trước một cuộc tấn công của các vọng tưởng.
Các bạn đừng tự cho mình là một đại thiền giả, có những tư tưởng như : “Không ai thiền định tốt hơn tôi.” Đó là một thái độ không thích đáng không nên có sau khi thọ nhận và thực hành các giáo lý này. Một người thấu hiểu Dzogchen biết rằng “tôi” không hiện hữu. “Tôi” thì không hiện hữu, vì thế hãy quên cái “tôi” không hiện hữu đó đi và để cho bản tánh của các bạn an trú trong trạng thái tự nhiên của nó. Rồi thì các khuynh hướng nhị nguyên sẽ xuất hiện, nhưng giống như các đám mây thình lình hình thành trong bầu trời, chúng sẽ tan biến ngay sau đó. Chúng đến và đi một cách tự nhiêu nếu chúng không được đeo đuổi. Dù chúng tốt hay xấu chúng sẽ xuất hiện và tan hòa trong không gian trống không của giác tánh nội tại. Điều hết sức quan trọng là hiểu rõ sự không thiền định của đại định tự-sinh và duy trì trạng thái này trong mọi lúc và trong mọi tình huống.
Trong Phật giáo, có những cách tiếp cận khác chẳng hạn như phái Tiểu thừa, nếu người trong phái đó bị hấp dẫn bởi một người khác phái thì người ấy phải lập tức nghĩ tưởng : “Ồ người đó không đáng ao ước bởi thân thể anh (cô) ấy được tạo nên bởi thịt, xương và máu” và tu tập tâm thức để suy tưởng về đối tượng như cái gì đáng nhàm chán. Hoặc nếu người nào đó có ác cảm đối với những kẻ thù và bám luyến với những người thân thì lập tức họ tu tập tâm thức bằng cách nghĩ : “Ồ thôi nào, điều này không đúng, mặc dù bây giờ tôi cảm nhận nó, nhưng vì trong quá khứ những thân quyến này đã từng là các kẻ thù của tôi và những kẻ thù này đã từng là quyến thuộc của tôi”. Và họ phải nỗ lực thay đổi sự mê lầm của mình bằng cách hiểu biết trên bình diện trí thức sự tiếp cận đúng đắn là gì. Đây là cách tiếp cận của các truyền thống khác, và khi tôi nói “các truyền thống khác”, tôi muốn nói rằng nó vẫn là một tiếp cận của Phật giáo nhưng không phải là cách tiếp cận của Dzogchen. Xin hiểu rõ rằng cách đối trị sự xuất hiện của các vọng tưởng chỉ đơn giản là duy trì cái thấy. Với cách đối trị độc nhất này mọi ý niệm được giải thoát, cho dù chúng vui thích hay không đáng ưa. Có thể các mê lầm của các bạn đang sôi sục như nồi súp, nhưng nó không thành vấn đề, bởi nếu các bạn duy trì cái thấy thì bất luận các mê lầm đó có thể mạnh mẽ đến đâu, chúng sẽ tan biến khi đứng trước giác tánh nội tại là bản tánh của các bạn. Với một bí quyết này tất cả các vấn đề được đồng thời giải quyết.
Cái thấy giải trừ các sự phóng tâm, thiền định cho phép ta chịu đựng mọi tình trạng nghịch cảnh, hành động là an trụ ở trên sự lấy và bỏ, và kết quả là đạt đến nơi chốn an nghỉ bất động. Một khi ta đã thực sự thành tựu Dzogchen theo cách này, thì cho dù có ai hăm dọa giết các bạn, các bạn sẽ không sợ hãi vì thiền giả Dzog-chen biết rõ rằng không có gì là chân thật hay thực có, mà đúng hơn, nó là một ảo tưởng. Đơn giản sự sợ hãi đã không được kinh nghiệm ngay lúc hình thành. Theo các hệ thống triết học khác, có vô số cách đối trị được sử dụng để làm việc với các niệm tưởng sinh khởi, cản ngăn chúng ta an trụ trong giác tánh rigpa. Nhưng khi lên tới Dzogchen thì có một cách đối trị độc nhất và đó là duy trì sự nhận ra giác tánh nội tại.
Bằng cách biết rõ một điều, mọi sự được giải thoát, mọi sự được tự do. Có ba cách để giải thoát các vọng tưởng : nhận biết các vọng tưởng là gì, theo cách các bạn nhận ra một người quen cũ; hiểu rõ rằng chúng không ích lợi và cũng chẳng có hại; và để chúng tự-giải thoát giống như một con rắn đang khoanh tròn mở mình ra một cách tự nhiên.
Bản chất của tâm là sự chói sáng trống không, giống như những tia sáng chói lọi của mặt trời. Có những tình thế ngăn cản năng lực và sự chói sáng của mặt trời, chẳng hạn như bóng tối, những đám mây và mưa dông. Những tình thế này thì tương tự như các ý niệm ngăn che sự nhận ra rigpa của chúng ta, và vì thế mặt trời tạm thời bị ngăn che đối với cái thấy của chúng ta. Những đám mây này trên bầu trời là những tình thế nhất thời, nhưng rồi một cơn gió mạnh xuất hiện và xua tan mây mù. Tám mươi bốn ngàn loại mê lầm thì cực kỳ mãnh liệt nếu như các bạn không thể phân biệt giữa một vọng tưởng thô và tế. Nó rất nguy hiểm và các bạn có thể rơi vào một quan kiến hư vô theo đánh giá của thiền định Dzogchen. Ta có thể để cho mình hoàn toàn mờ đục, ngơ ngẩn, và bị sốc, ở trong một tình trạng tăm tối không nhận biết tình trạng là như thế và cho rằng nó là thiền định. Nếu các bạn bị cảnh sát bắt giữ bởi hoạt động phi pháp nào đó mà các bạn dính vào, thình lình các bạn bị bắt và bị lôi đi, các bạn sẽ hoàn toàn xúc động. Khi ấy, mặc dù có ai đang nói với các bạn, các bạn sẽ không nhận ra anh ta. Điều đó giống như trạng thái tăm tối nặng nề này mà một thiền giả có thể mắc phải, nó không phải là giác tánh nội tại mà là một sự trệch hướng trầm trọng. Nó cũng giống như một trạng thái ngủ sâu, trong đó không có các giấc mơ hay sự tỉnh giác nào mà chỉ là một trạng thái mờ đục, nặng nề, tăm tối. Gốc rễ của những gì gây nên trạng thái này phải bị cắt đứt, loại bỏ.
Ở Tây Tạng chúng tôi tin là có loài rồng. Thật vậy, chúng tôi biết chúng hiện hữu, nhưng có lẽ do sự giáo dục Tây phương của các bạn nên các bạn không tin là chúng có thật. Các bạn có thể cho rằng chúng chỉ là sự kếât hợp của các dòng điện dương và âm tạo nên các hình dạng của những con rồng trên bầu trời, nhưng các bạn hoàn toàn không biết điều gì khác. Các bạn không biết về điều mà các bạn đang bàn. Những con rồng thì luôn luôn hiện hữu nhưng các bạn không tin tôi. Những con rồng này, một loại thuộc loài rắn, thực sự sống ở đáy các đại dương, những con sông, và các vùng nước khác. Chúng sống trong nước, nước là không gian của chúng và thực sự không có sự phân biệt nào. Khi chúng nổi lên từ dưới nước, chúng tạo nên một loại hiện tượng bão táp do bởi năng lực chúng dùng để nổi lên. Ở Golok, có một con sông được gọi là Machu, nó rất rộng, giống như sông Hằng ở Ấn Độ. Tôi nhớ điều gì đó đã xảy ra ở đấy khi tôi còn là một đứa bé. Một con rồng nổi lên từ sông Machu như một cơn bão táp khổng lổ. Có vẻ nhưng thể toàn thể thị trấn sẽ bị tiêu hủy nhưng con rồng đã nhấc bổng thị trấn lên và đặt xuống ở vị trí khác, hoàn toàn nguyên vẹn, không có chút thiệt hại nào. Những con rồng này có rất nhiều năng lực kỳ diệu. Tôi biết các bạn không tin tôi.
Tương tự như vậy, các bạn cho rằng các niệm tưởng bất thiện thì vô hại. Từ quan điểm Dzogchen, khi các bạn đang ở trong thiền định, chúng không làm hại giác tánh nội tại. Bản tánh của tâm thì không mê lầm, nhưng khi các niệm tưởng mê lầm phát sinh, hình thành và được vận dụng, chúng tích tập các khuynh hướng gây tổn hại cho bản tánh thiện do bởi sự phóng tâm xuất hiện. Bản tánh của chân lý, Pháp tánh, thì không bao giờ bị tổn hại bởi bất kỳ điều gì là xấu ác. Điều đó không thể. Nhưng một cách tạm thời, vòng sinh tử bắt đầu hoạt động. Mỗi một chúng sinh hữu tình có các tập quán và khuynh hướng khiến cho họ đi vào vòng sinh tử, họ có các tập quán của sự tái sinh đặc thù đó. Chúng sinh trải nghiệm đau khổ và hỉ lạc từng lúc gián đoạn. Chúng sinh vẫn ở trong sinh tử là do bởi ác hạnh. Một sự tái sinh cao hơn hay tâm thái cao cấp hơn nữa do bởi tự tích tập đức hạnh. Đây là một dấu hiệu cho thấy đức hạnh và ác hạnh thì lợi lạc và có hại một cách tương ứng cho tới khi nào vòng sinh tử còn tồn tại. Cho tới khi nào tất cả các pháp phức hợp bị cạn kiệt vào bản tánh nền tảng của thực tại thì tiến trình hại và lợi này mới ngưng hiện hữu. Đó là trạng thái Phật quả, và ta sẽ không thoát khỏi vòng tròn của lợi và hại và v.v… – cho tới khi nó được-sinh tử thành tựu. Các bạn phải duy trì khía cạnh tỉnh thức của nền tảng giác tánh nội tại và hiểu rõ sự phô diễn vô thường của các hiện tượng. Nền tảng thì không tạm thời. Nền tảng, tánh Không, thì thường hằng nhưng sự hoạt động của nền tảng khi nó tự phô diễn thì tạm thời, đôi khi tích cực và đôi khi tiêu cực. Các bạn phải duy trì sự tỉnh giác về nền tảng trong suốt thời gian của sự phô diễn và trong sự phô diễn đó các kinh nghiệm khác như sự hỉ lạc, trong sáng và vô niệm sẽ xuất hiện. Những kinh nghiệm này sẽ xuất hiện nhưng chúng cần được nhìn như các khía cạnh của sự phô diễn.
Ba kinh nghiệm này về sự hỉ lạc, trong sáng, và vô niệm không bao giờ được lầm lẫn như các khía cạnh của thiền định Dzogchen. Trong mọi lúc và trong mọi tình huống, ta phải duy trì sự nhận biết về giác tánh nội tại tươi mới, trần trụi như bản tánh trí huệ nguyên thủy của tâm. Việc lạc hướng bằng cách bám víu vào các ý niệm thông thường là hiểu sai con đường Dzogchen và ta sẽ tiếp tục tích tập các nguyên nhân cho sự tái sinh trong sinh tử. Do trở nên tham luyến sự hỉ lạc, ta đi vào cõi dục; do trở nên tham luyến sự trong sáng, ta đi vào sắc giới; và do tham luyến sự vô niệm, ta đi vào cõi vô sắc. Các vọng tưởng ngăn che giác tánh trống không, nhưng bản tánh của chúng là Pháp Thân. Vì thế khi các vọng tưởng xuất hiện, chúng không gây nên sự đe dọa mà chỉ là sự phô diễn của Pháp Thân, và ta không cần có bất kỳ phản ứng đối kháng nào với chúng. Dù nó là sự hỉ lạc, trong sáng hay một vài kinh nghiệm về hạnh phúc xuất hiện trong tâm thức các bạn, hãy để tâm các bạn ở trong bản tánh trinh nguyên của giác tánh nội tại của nó.
Trong bản văn gốc nói : “Sau đó, dù tâm các bạn sôi nổi hay yên tĩnh, dù các bạn sân hận hay tham luyến, dù vui hay buồn, trong mọi lúc và mọi cơ hội hãy chấp nhận Pháp Thân đã được nhận ra và để cho ánh sáng con hợp nhất với ánh sáng mẹ đã được nhận biết. Hãy nghỉ ngơi trong trạng thái giác tánh không thể diễn bày. Hãy tiêu diệt nhiều lần sự vô niệm, hỉ lạc, trong sáng, và vọng tưởng. Để cho âm tiết của trí huệ và phương tiện tức khắc đánh gục chúng. Âm tiết đó là PHAT. PHAT được cấu tạo bởi hai chữ, PHA và T. Chữ PHA là chữ tương ứng với nguyên lý nam, phương tiện thiện xảo, và chữ T là nguyên lý nữ, trí huệ. Khi phương tiện thiện xảo và trí huệ được hợp nhất, chúng cắt đứt một cuộc tấn công của các vọng tưởng lẫy lừng. Các bạn không cần kêu la hay thét lên âm PHAT. Tất cả những gì các bạn cần làm là an trụ trong tỉnh thức về giác tánh nội tại. Vào lúc la lên tiếng PHAT, các thực hành mật chú nên được giữ bí mật và vì thế cho dù các bạn là một gia chủ, các bạn cố gắng đi tới một căn phòng trong nhà và đóng cửa lại khi đang thực hành. Các bạn thực hành ở một nơi mọi người không nhìn thấy các bạn, không cần giữ những tư thế và hạ đôi mắt các bạn xuống, các hoạt động để cho người ta biết rằng các bạn đang làm một cuộc thiền định, bởi điều đó đem lại sự kiêu ngạo và chỉ đưa tám pháp thế tục vào sự thực hành của các bạn. Loại thực hành Dzog-chen này cần được thực hiện một cách kín đáo. Các bạn nên thiền định bí mật trên đỉnh một ngọn núi hay ở nơi nào đó người ta không thể thấy các bạn. Hãy kín đáo trong thực hành của các bạn.
Trong bản văn gốc nói : “Không có khác biệt giữa thiền định và hậu-thiền định. Không có sự phân chia giữa các thời khóa và sự gián đoạn. Hãy ngơi nghỉ liên tục trong trạng thái không bị phân chia.” Trong khi các bạn ở trong sự thiền định hay an định, các bạn cần an trụ trong giác tánh nội tại trống không và rồi khi các bạn ngưng thời khóa đó, đứng dậy và bắt đầu làm các hoạt động bình thường của các bạn như uống trà và v.v…, thì đó là sự phân chia. Điều đó được gọi là hậu-thiền định. Trong một ý nghĩa bên trong, sự phân chia là như sau : Khi các bạn ở trong giác tánh nội tại, đó là định, và khi các vọng tưởng phát khởi, đó là hậu-định. Nhưng thực sự không có sự phân biệt. Đó là vấn đề được tạo ra khi bản văn nói : “Không có sự phân chia giữa các thời khóa và sự gián đoạn.” Gián đoạn là sự phát khởi của các vọng tưởng, nhưng nếu ta đang thực sự hộ trì các giáo lý đã được nó là một giòng-trình bày thì không có sự gián đoạn chảy, một sự tương tục.
Bản văn gốc nói tiếp : “Tuy nhiên, chừng nào mà các bạn không đạt được sự kiên cố, thì cần thiết phải thực hành việc từ bỏ các phóng tâm.” Vì thế trong mọi lúc và mọi tình huống, hãy duy trì sự liên tục duy nhất của Pháp Thân. Hãy quyết định rằng không có gì hơn được việc này. Xác quyết trên một điều là điểm trọng yếu thứ hai.
Trong thiền định sự phóng tâm không có chỗ dù chỉ bằng một sợi tóc. Ta không bao giờ được tách lìa khỏi giác tánh nội tại. Đây là bản tánh của việc duy trì cái thấy và thiền định Dzogchen. Đây là con đường của sự thấu biết Phật tánh là nền tảng, và đây là bản tánh căn bản của tất cả chúng sinh. Một cách tạm thời, chúng sinh bị ngăn che bởi sự mê lầm, nhưng bản tánh căn bản của họ là bản tánh của một vị Phật. Đây là con đường của không thiền định, kết quả bất khả đắc. Kết quả bất khả đắc có nghĩa là không có đích đến. Không có đích đến bởi vì tất cả những gì ta cần làm chỉ là loại trừ sự ô nhiễm của hai che chướng và sự giải thoát xảy ra. Nó thì tự-phát sinh. Không có điều gì để tìm kiếm. Làm thế nào có thể có điều gì để tìm kiếm khi các bạn đã sở hữu hai trạng thái của sự thấu suốt trí huệ siêu việt sự thấu suốt bản tánh tuyệt đối hoàn toàn như nó- là và sự thấu suốt như thế nào các sự vật hiện hữu không bị ngăn che một cách tự nhiên?
Đây là hai loại prajna (trí huệ). Prajna thứ nhất nói tới sự không có một hiện hữu nội tại của một cái ngã. Các bạn đã có tâm Phật này. Đây là bản tánh của các bạn. Thấu biết nó là thành tựu mục đích của riêng các bạn là Pháp Thân và đồng thời thành tựu mục đích của những người khác bằng các biểu lộ khác nhau của sắc thân. Đây là cái Phật tánh thường trụ-gì mà các bạn phải biểu lộ bên trong của chính các bạn trong phạm vi nền tảng, con đường, và quả. Đây là sự phô diễn huyền diệu vĩ đại của bản tánh của tâm. Xin hiểu rõ rằng các vọng tưởng sẽ không bao giờ tác hại các bạn. Hãy duy trì sự thiền định này về cái thấy và đạt được nơi ngơi nghỉ vững chắc, bất biến. Ta phải đạt được sự hoàn toàn kiên cố trong sự thực hành cho tới khi nơi chốn bất biến này được chứng ngộ, bởi vì “nơi ngơi nghỉ bất biến” có nghĩa là ta không bao giờ quay trở lại một sự bất lực trong việc duy trì giác tánh nội tại. Nếu các bạn trải qua một thời gian khó khăn như một người sơ học thì như có nói trong bản văn, cần thiết phải thực hành từ bỏ các phóng tâm. Sẽ không dễ dàng thực hiện loại thực hành này ở giữa sự rối loạn và những phóng tâm mạnh mẽ, vì thế các bạn cần thiền định trong sự cô tịch.
Nếu các bạn không thể đạt được một chỗ an lập vững chắc trong việc thành tựu sự kiên cố bằng thực hành định của các bạn, các bạn sẽ không bao giờ có được năng lực trong kinh nghiệm hậu-định của các bạn. Không có một định các bạn- nó có nghĩa là giác tánh nội tại -mạnh mẽ sẽ không có năng lực để đưa kinh nghiệm đó ra đối mặt với các nghịch cảnh của đời sống thường ngày. Nó sẽ không xảy ra một cách dễ dàng. Các bạn phải có các thời khóa thiền định chính thức ở đó các bạn thâu đạt được sức mạnh và sự kiên cố trong sự thiền định hay hậu-thiền định của các bạn. Nếu không thì sẽ có nhiều cạm bẫy. Có nhiều cạm bẫy để bàn luận, nhưng cạm bẫy to lớn và thô lậu nhất là tình trạng chung mà tất cả chúng sinh hữu tình kinh nghiệm. Đây là trạng thái mê lầm của sự không nhận ra giác tánh nội tại đã ở với chúng ta từ vô thủy. Trong tất cả các che chướng thì đây là ngăn che thâm căn cố đế nhất. Vì thế chúng ta phải có thể vượt khỏi nó bằng cách duy trì sự liên tục thường hằng và duy nhất này của giác tánh Pháp Thân. Như bản văn gốc nói : “Hãy quyết định rằng không có gì hơn được việc này.” xác quyết trên-Vì thế đó là điểm trọng yếu thứ hai một điều.
CHƯƠNG 5
ĐIỂM TRỌNG YẾU THỨ BA :
CÓ ĐƯỢC SỰ XÁC TÍN TRONG GIẢI THOÁT
Chủ đề chúng ta đang thảo luận là tịnh quang thừa của Đại Viên Mãn Nying-Thig. Bậc thầy của con đường sâu xa này là Đức Phật trong hiển lộ Pháp Thân của Ngài là Samantabhadra (Phổ Hiền), Đức Phật nguyên thủy, đấng đã hiển lộ mạn đà la trí huệ nguyên thủy của sự biểu lộ Pháp Thân.
Giáo lý này về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu có liên quan tới cái thấy, thiền định và hành động, chúng tương ứng với các tên của ba bậc nắm giữ dòng truyền thừa vĩ đại. Cái thấy là Longchen Rabjam, “sự bao la vô hạn vĩ đại”. Thiền định là Khyentse Ozer, “các tia sáng của sự trí huệ và tình thương”. Hành động là Gyalwe Nyugu, “con trai của các đấng Chiến Thắng”. Điểm trọng yếu thứ nhất là nhận ra bản tánh của các bạn. Điểm thứ hai là xác quyết trên một điều.
Bây giờ chúng ta bắt đầu với điểm thứ ba, nó liên quan tới hành động và tương ứng với tên Gyalwe Nyugu, “con trai của các đấng Chiến Thắng”. Cách thức mà các bạn nên thực hành là an trụ trong sự tỉnh giác về ba điểm giải thoát các vọng tưởng. Điểm thứ nhất là nhận ra giác tánh nội tại là bản tánh của các bạn. Việc nhận ra bản tánh của các bạn thì giống như nhận ra người nào quen biết mà các bạn đã không nhìn thấy trong một thời gian dài. Nó là một sự nhận ra hiển nhiên. Điểm thứ hai, an trú mà không có bất kỳ bận tâm nào tới lợi hay hại khi các bạn ngơi nghỉ trong giác tánh nội tại. Điều này giống như một kẻ trộm chạy vào một căn nhà trống và nhận thấy không có gì để trộm cắp, và vì thế không có lợi cũng không có hại. Điểm thứ ba để giải thoát các vọng tưởng thì tương tự một con rắn tự duỗi mình một cách tự nhiên. Một yogin ngoại hạng, khi duy trì cái thấy theo cách này, sẽ không bao giờ rơi vào cạm bẫy của mối bận tâm đối với lợi hay hại. Tuy nhiên, lúc ban đầu, trước khi các bạn đạt tới cấp độ đó, các bạn phải nhận ra các vọng tưởng. Việc đơn giản nhận ra chúng thì giống như một con rắn tự duỗi mình ra.
Với ba cách giải thoát này ta có thể giải thoát các vọng tưởng một cách phù hợp. Có một sự tương đồng với sự thiền định không đúng đắn : ta muốn tránh ánh nắng mặt trời và vào nghỉ trong một bóng cây, rồi lại đứng dậy và có thể lại quay vào nghỉ trong bóng mát. Các bạn đừng thiền định theo cách này, bởi các bạn sẽ không đối mặt với tham và sân, ưa thích và ghét bỏ bằng cách tiếp cận đúng đắn và các bạn sẽ không thể chiến thắng chúng.
Do bởi các hiện tượng phức hợp được đặt nền trên sự vô minh hay thiếu tỉnh giác, chúng ta đã đang lang thang vô tận trong vòng sinh tử. Bất kỳ cố gắng nào để trở nên thoải mái bằng cách tìm cầu những gì ưa thích và tránh né những điều ghét bỏ, bằng việc theo đuổi bất kỳ điều gì xuất hiện, sẽ chỉ kéo dài sự bất lực của các bạn trong việc hộ trì sự nhận biết rigpa. Các bạn cần làm việc với ba cách thế để giải thoát các vọng tưởng là những gì các bạn kinh nghiệm như những bông tuyết rơi trên một tảng đá cháy nóng, lập tức tan ra, hoặc những gì các bạn tấn công bất ngờ như một con chim kên kên vồ chụp một con chim nhỏ. Các bạn cần giữ gìn giáo lý về tánh giác để các bạn có thể kinh nghiệm các tư tưởng phát khởi và được giải thoát đồng thời. Đây là cách truyền thống Nying-Thig thực hành giáo lý Dzogchen.
Có những lúc tâm thức tràn đầy sự tham luyến rất mạnh mẽ, sự mãnh liệt tiềm ẩn của các biến cố tâm lý thứ yếu, nó áp đảo sự thiền định. Nếu các bạn tự cho phép mình đi theo những tư tưởng này trong thiền định thì các bạn sẽ tích tập nhiều thêm nữa các nguyên nhân cho vòng sinh tử. Nếu các bạn cho phép tâm thức niệm tưởng bình phàm này chiến thắng các bạn, thì các bạn đang tích tập các dấu vết nghiệp trên alaya (a lại da thức), cấp độ của tâm thức nền tảng của kinh nghiệm thông thường. Và đây đúng là những gì các bạn mang theo mình như hành trang đi tới những đời sau. Lệ thuộc vào những tập quán đó, các bạn sẽ có những khuynh hướng nào đó sẽ chín mùi trong đời này và những đời tương lai. Vì thế các bạn phải thận trọng.
Có một sự tương đồng trong việc vẽ trên nước. Hình vẽ trên nước thì như sự phát khởi của các vọng tưởng từ nước là cái gì giống như giác tánh nội tại rigpa. Điều này được gọi là trạng thái tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên. Bất kỳ vọng tưởng nào xuất hiện cần được đối xử như những hình vẽ trên nước, chúng xuất hiện từ nước và tan biến lại trong nước. Chúng hoàn toàn không thể sờ mó được. Mọi vọng tưởng xuất hiện từ rigpa tan biến trở lại vào rigpa, và khoảnh khắc đó chúng ta kinh nghiệm sự tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên.
Bất kỳ sự hình thành tư tưởng nào khởi sanh từ rigpa phải được coi là thực phẩm tươi ngon cho giác tánh trống không bởi vì dù là loại tư tưởng nào, nó là một biểu lộ của Pháp Thân. Nó là sự phô diễn của Pháp Thân, vốn không dấu vết và tự do một cách tự nhiên. Chúng ta tìm thấy cách diễn cảm “A La La” trong bản văn gốc. Đây là một sự biểu lộ ngạc nhiên hay kỳ diệu. Trong trường hợp này, sự ngạc nhiên phải thực hiện với nhận thức bất ngờ rằng thậm chí các vọng tưởng cũng là một biểu lộ của Pháp Thân.
Là các hành giả bình thường, do khuynh hướng mạnh mẽ này bị khuynh loát bởi sự giam cầm của các tích tập nghiệp và sự hiện diện của các tích tập này, chúng ta có thể cho rằng ta phải kềm hãm các tư tưởng và hoàn thành điều gì đó. Vì thế chúng ta bị vướng mắc trong tiến trình sản sinh cái gì đó này để tiệt trừ mọi tập quán đã được tích tập. Đừng để cho những tình huống này chế ngự. Thay vào đó, hãy chỉ đơn giản nhớ tính cách tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên này. Khi các ý niệm phát khởi, chúng tự giải thoát nếu các bạn hiểu rõ ba cách thức giải thoát. Sự nhận thức thì giống như việc nhận ra một người trong một đám đông mà đã lâu các bạn không gặp. Các tư tưởng tự giải thoát trong sự nhận thức. Một cách khác là các bạn nhận thức rằng chúng không có lợi hay có hại. Việc nhận thức rằng không có lợi hay có hại thì giống như một tên trộm vội vã đi vào một căn nhà và nhận ra là nó trống không và không có gì để làm. Hoặc, các tư tưởng tự giải thoát như một con rắn tự duỗi mình ra. Chỉ thư lỏng và biết rằng đây là giáo huấn cốt tủy quan trọng nhất. Nó đặt Dzogchen tách ngoài các con đường khác, gồm cả Trung Quán và Mahamudra (Đại Ấn). Đây là giáo lý cao tột của Dzogchen.
Có những cấp bậc thiền định khác đưa ra tới những mức độ cao hơn trong các cõi sắc và vô-sắc, nhưng những thiền định đó như sữa hư hay bơ thối bởi vì chúng là những trệch hướng đối với con đường đi tới sự thiền định chân thật. Bản tánh của tánh Không là Pháp Thân và sự thiền định là thiền định của sự ngơi nghỉ trong bản tánh của thực tại như nó là. Đây không phải là một thiền định phân tích. Đây là cách thức mọi khía cạnh của nghịch cảnh được đưa vào con đường để ngăn cản bất kỳ sự lạc lối nào do nỗ lực phân biệt giữa xấu và tốt, cần thiết và không cần thiết. Không có sự hiểu biết này, sự thiền định là con đường lầm lạc (vô minh). Đây là sự thiền định quy nhất giải thoát ta khỏi con đường lầm lạc.
Sự giải thoát không đến từ các kỹ thuật shamatha được sử dụng bởi cách tiếp cận Tiểu thừa, vì với các kỹ thuật này ta chỉ có thể thành tựu một trạng thái an trú yên bình tạm thời. Chúng không giải thoát tâm thức khỏi vấn đề căn bản, và vì thế các vọng tưởng tiếp tục phát khởi. Đây là lý do tại sao việc đạt được sự xác tín trong cái thấy và việc duy trì sự thiền định phù hợp với cái thấy thì thật quan trọng. Nó là phương cách duy nhất để giải trừ các vọng tưởng. Với kỹ thuật này các bạn sẽ như một người đi tới một đại lục tràn ngập châu báu và không có bất cứ một hòn đá tầm thường nào. Các vọng tưởng không đáng sợ chút nào. Chúng trở thành giòng chảy không ngưng nghỉ trong việc duy trì sự xác tín vào cái thấy.
Trong kinh nghiệm này mọi tri giác mê lầm được tịnh hóa trong sự phô diễn của Pháp Thân, và mọi nghịch cảnh xuất hiện như những bằng hữu của ta. Mọi mê lầm được bao hàm như con đường và sinh tử không bị loại trừ. Sinh tử thì toàn hảo trong bản tánh bẩm sinh của nó và ta được giải thoát khỏi sự trói buộc của sự hiện hữu hiện tượng, bởi ta đã kinh nghiệm trạng thái giải thoát không thể được tìm kiếm và nó vốn như thế. Nếu ta không có kinh nghiệm về Pháp Thân này, nó không phải là một sự thiền định, thì ta không bao giờ có thể hy vọng có được bất kỳ kết quả nào trên con đường. Bất kỳ sự thiền định nào mà ta thực hiện cũng sẽ chẳng bao giờ có lợi lạc. Nó sẽ chỉ là con đường lầm lạc, bởi ta vẫn bị trói buộc với sự bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Sự bám chấp vào bản ngã và dính mắc với các hình tướng khách quan đã gây nên một sự phân cách giữa bản ngã và các đối tượng và sự phân cách giữa chúng sinh và Phật tánh, hay sinh tử và Niết bàn. Nếu ta thực hành kỹ thuật Dzogchen về sự xác định cái thấy và duy trì sự thiền định, là sự tỉnh giác về cái thấy, thì ta sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Đây là trạng thái không do trau dồi (tu tập) của Pháp Thân. Ta đã có được sự xác tín nơi sự giải thoát, hiểu rõ đây là cách thức duy nhất để thành tựu sự giải thoát và sự xác tín đó là điểm trọng yếu thứ ba.
Cái thấy là Longchen Rabjam, Thiền định là Khyen-tse Ozer. Hành động là Gyalwe Nyugu. Trong Dzogchen chúng ta có cái thấy, thiền định, hành động, và quả, chúng tạo thành sự thành tựu toàn khắp này về giác tánh nội tại. Khi trạng thái giác tánh nội tại này trở nên hoàn toàn rõ ràng, nó là tri giác trực tiếp của Pháp tánh, là cái có năng lực soi sáng mọi cấp độ bóng tối. Nó giống như mặt trời và mặt trăng chiếu sáng bóng tối vô minh.
Tiến trình đó bắt đầu với cái thấy, là sự nhận ra bản tánh tỉnh giác nội tại của ta. Nhờ thực hành, cái thấy trở thành tánh thanh tịnh nguyên thủy tương ứng với trekchod “sự cắt đứt tới tánh thanh tịnh nguyên thủy”. Các bạn dùng cái thấy để cắt đứt tới tánh thanh tịnh nguyên thủy. Trạng thái thuần tịnh nguyên thủy đó là sự trong sáng trống không nền tảng, nó không bao giờ bị ô nhiễm bởi các khuynh hướng tập quán, nó không có vết tích của đức hạnh hay ác hạnh, nó tinh khôi và viên mãn tự thân. Nó là cực điểm của tất cả chín thừa.
Sự thành tựu Dzogchen này là kết quả tối hậu của tất cả những con đường khác nhau của Phật Pháp, nhưng cuối cùng, để thành tựu con đường đó các bạn phải thành tựu Dzogchen. Nhờ thành tựu trạng thái thuần tịnh nguyên thủy này, ta trực tiếp gặp gỡ bản tánh trí huệ tự-sinh của ta. Để gặp gỡ bản tánh trí huệ tự-sinh một cách trực tiếp, ta thiền định theo ba phương cách để giải thoát các vọng tưởng và đạt được trạng thái toàn giác viên mãn này. Mọi sự được bao gồm trong trạng thái toàn giác viên mãn này. Mọi sự mà loài người biết tới thì vốn nội tại ở đây. Cho dù các bạn không trải qua thời gian để học hỏi những điều này, tâm thức các bạn sẽ tự nhiên mở rộng qua sự thực hành, và tánh giác toàn trí bẩm sinh bao la sẽ là tự hiển lộ. Mức độ cao cấp này được đạt tới với thị kiến thứ ba của tošgal được gọi là “mức độ viên mãn của rigpa”. Các bạn sẽ đạt tới một điểm trong sự thực hành của các bạn ở đó các bạn sẽ cảm nhận rằng đã có lúc các bạn đã bị mê lầm nhưng bây giờ không còn thế nữa. Sẽ có cảm giác nào đó rằng có lúc các bạn đã là một chúng sinh tầm thường, nhưng bây giờ là một A La Hán. Các bạn sẽ đến chỗ biết sự khác nhau ấy và điều đó sẽ không thay đổi. Khi các bạn còn là một chúng sinh, các bạn có thể thiện lành trong ngày hôm nay và vô đạo đức vào ngày mai bởi các bạn có thể biến đổi, nhưng khi các bạn đạt tới cấp độ này của Dzogchen thì không thể thay đổi hay trở lại được nữa.
Vào lúc ta gặp gỡ bốn ánh sáng, gồm ánh sáng của “trí huệ tự-sinh”, trí huệ bẩm sinh của ta bắt đầu sáng chói trong cách thế mà cái toàn giác nội tại này hiển lộ. Đây là sự chứng ngộ bản tánh của shunyata (tánh Không), nó thấm đẫm lòng trắc ẩn và đại bi bẩm sinh. Rồi thì lòng từ ái và bi mẫn tự phô diễn khiến ta thực sự có thể hành xử đời mình như một Bồ tát, là bậc mà cách hành động tự biểu lộ như một hành giả của sáu ba la mật. Hành động này sẽ trở thành một đại dương mênh mông của Bồ tát hạnh, nó huy hoàng và chói ngời như những tia nắng mặt trời chiếu sáng đồng thời trong mọi phía.
Cái thấy này của sự tiếp cận tịnh quang, con đường Kim Cương thừa Đại Viên Mãn thì vô song. Đây là các giáo lý siêu việt nhất từng được trình bày trong thế giới này. Nếu đã từng có một giáo huấn trực chỉ cốt tủy, thì giáo huấn đó chính là pháp Dzogchen. Giáo huấn trực chỉ này đến trực tiếp từ Đức Phật nguyên thủy Saman-tabhadra (Phổ Hiền) tới Đức Vajrasattva, ngài truyền nó cho ngài Garab Dorje, xuống tới Guru gốc của tôi, Guru truyền nó cho tôi như tinh túy của lòng ngài trong hình thức của các giáo huấn trực chỉ cốt tủy. Giáo lý này được trình bày qua ngôn từ, nó súc tích không thể nghĩ bàn và hoàn toàn sâu xa. Ngài Patrul Rinpoche đã nói về chính mình khi ngài viết về bản văn gốc di chúc cuối cùng này của ngài Garab Dorje : “Dù tôi là người đã không thực hiện thiền định cũng có được những lợi lạc to lớn.” Đây là một cách biểu lộ sự khiêm tốn. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là ngài đã không đạt được trạng thái thành tựu đó. Đây là dòng khẩu truyền cổ xưa, trước tiên nó phải được nghe để cắt đứt mọi nghi ngờ, sau đó được tư duy để củng cố sự xác tín hoàn toàn, và cuối cùng được thiền định để đem lại năng lực vốn tiềm ẩn. Giáo lý này về cái thấy, thiền định, hành động, và quả được truyền dạy lúc ban đầu bởi ngài Garab Dorje vĩ đại khi ngài ra đi trong thân cầu vồng. Thân ngài là một trái cầu ánh sáng trong bầu trời khi đệ tử Manjushrimitra của ngài cầu xin ngài ban cho các giáo huấn cốt tủy trước khi ngài biến mất. Các giáo huấn đến từ quả cầu ánh sáng này và được Manjushrimitra nhận lãnh. Ngay chính giây phút đó tâm Manjushrimitra và Garab Dorje hợp nhất và trở thành không hai. Đây là di chúc cuối cùng của Garab Dorje.
Ngài Longchen Rabjam đã trải đời mình để thực hành giáo lý này và đã đạt được thị kiến thứ tư của tošgal được gọi là “sự tan biến của các hiện tượng trong chân tánh của chúng”. Điều này có nghĩa là sự nhị nguyên ngừng hiện hữu, và đó là sự giác ngộ. Hoạt động giác ngộ của Ngài đã được viên mãn, và Ngài đã thọ nhận dòng truyền dạy tâm-truyền-tâm. Sau đó Longchen Rabjam xuất hiện với Jigme Lingpa trong một linh kiến và truyền các giáo lý này cho ngài. Đến lượt Jigme Lingpa đã thiền định về các giáo lý này và truyền chúng cho đệ tử chính của ngài là Gyalwe Nyugu, vị này thành tựu chúng và truyền các giáo lý do Patrul Rinpoche, là bậc đã viết bản văn này. Giáo lý này là một sự truyền dạy của cả ba dòng truyền thừa : dòng tâm-truyền-tâm, dòng truyền dạy bằng các biểu tượng, và dòng khẩu truyền. Đây là vàng đã được tinh lọc. Nó không chỉ là vàng, nó được tinh lọc, cốt tủy của tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nó là tâm yếu của ba dòng truyền thừa, được bí mật trao cho các đệ tử tâm đắc. Nó là ý nghĩa sâu xa và lời nói từ tâm. Một người thực hành giáo lý này sẽ chắc chắn đạt được giác ngộ trong chỉ một thân, trong chỉ một đời. Nó không được chia xẻ với bất kỳ người nào nghi ngờ. Tuy nhiên không chỉ bày nó cho người có đức tin sẽ là một thất bại to lớn. Đây là giáo lý đặc biệt của Khepa Shri Gyalpo, Patrul Rinpoche, ngài sống khoảng một trăm bảy mươi năm trước. Ngài có nhiều đệ tử đã trở thành các đại đạo sư của thời đại chúng ta và là các bậc thầy của chúng ta, và chính từ các ngài mà ta nhận lãnh những giáo lý. Điều này thì không quá xa.
CHƯƠNG 6
KẾT LUẬN
Như chúng ta đã thảo luận trước đây, tất cả các Giáo pháp đều có thiện hạnh vào lúc bắt đầu, ở khoảng giữa và vào lúc kết thúc. Thiện hạnh vào lúc bắt đầu là một nhánh của chủ đề đã được giảng và được bao gồm khi tôi giảng về những điều kiện tiên quyết của thực hành Dzogchen. Điều này mở rộng tới việc thực sự lắng nghe giáo lý, bản thân nó là thiện hạnh ở khoảng giữa. Thiện hạnh vào lúc kết thúc là sự hồi hướng công đức.
Hãy suy nghĩ về cách thức Naropa liên hệ với Tilopa, Milarepa liên hệ với Marpa, các vidyadhara vĩ đại trong quá khứ liên hệ với những bậc thầy của các ngài, và hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche liên hệ với đạo sư kim cương của các ngài. Ba phương cách cúng dường chính mình cho đạo sư là : tuân theo các giáo huấn về Pháp mà ngài đã giảng dạy, phụng sự đạo sư trong bất kỳ cách thức nào ta có thể, và cúng dường đạo sư. Chúng ta phải hoàn tất bất cứ điều gì đạo sư kim cương yêu cầu ta. Và nếu chúng ta thực hiện như thế thì chỉ trong một đời chúng ta sẽ thành tựu trạng thái bốn nhánh của một vidyadhara.
Nếu các bạn thực hành các giáo lý mà các bạn vừa thọ nhận, thì trong trường hợp tốt nhất các bạn sẽ đạt được giác ngộ trong một đời, đạt được thân cầu vồng. Tình huống tốt đẹp kế tiếp sẽ là vào lúc các bạn thở ra hơi cuối cùng, là giây phút chết, khi các bạn gặp gỡ khía cạnh mẹ của tịnh quang. Bởi các bạn đã từng chuẩn bị khía cạnh con của tịnh quang, hay ánh sáng của con đường, khi đó đứa con leo vào lòng mẹ, là ánh sáng căn bản, và cả hai được hợp nhất khi các bạn được giải thoát vào giây phút chết. Vào lúc chết, có hai cách có thể đi tới : đi thẳng lên hoặc đi thẳng xuống. Đi thẳng lên là cách một yogi hảo hạng được giải thoát. Khi hơi thở sau cùng được thở ra từ thân xác, tâm thức tan vào Pháp Thân. Không có bất kỳ những giai đoạn tan rã bình thường nào (của các đại và các uẩn), khía cạnh con của tịnh quang gặp gỡ khía cạnh mẹ và sự giải thoát xảy ra. Bất kỳ ai đã mắc phạm bất cứ loại nào trong năm ác hạnh ghê gớm sẽ đi thẳng xuống. Đây là các tích tập nghiệp nặng nề nhất có thể hiểu được là : sự giết cha hoặc mẹ, giết bổn sư của ta, miệt thị Pháp, và gây một sự mất hòa hợp trong tăng đoàn. Sự miệt thị Pháp có nghĩa là sau khi bắt đầu con đường này và tự cam kết, sau khi đã đặt lòng tin và sự sùng mộ nơi Pháp, khi đã hoàn toàn tin tưởng vào Đức Phật và Phật Pháp, sau đó các bạn hoàn toàn thay đổi thái độ, phát triển cái thấy sai lạc và tin rằng các giáo lý thì không chân thật và không có cái gì là ác hạnh. Trong Doday Tharpa Chenpo, bản kinh về sự giải thoát có dạy rằng bất kỳ ai tích tập loại ác hạnh này sẽ đi thẳng xuống, và vào lúc chết, khi hơi thở sau cùng ra khỏi thân xác, sẽ không có giai đoạn tan rã nào hết. Hơi thở các bạn bị hút thẳng xuống qua lỗ dưới và tâm thức các bạn theo luồng khí đó đi xuống cõi địa ngục thấp nhất, ở đó trong vô tận kiếp. Không có gì tệ hại hơn thế.
Khi tôi nhìn quanh phòng, có vẻ như thể tất cả các bạn có đức tin ở đạo Phật nhưng xin đừng quên năm ác hạnh ghê gớm này bởi sẽ không có bardo đối với một người đã mắc phạm những hành vi này, và cũng thế, sẽ không có bardo đối với người đạt được giác ngộ trong đời họ hoặc vào lúc chết. Nếu các bạn đã từng chuẩn bị bằng sự thiền định và đã củng cố con đường thuộc khía cạnh tịnh-con của tịnh quang đang chuẩn bị gặp gỡ mẹ nó vào lúc chết, thì các bạn sẽ cảm thấy-quang nền tảng thật quen thuộc vào lúc đó. Sẽ giống như một đứa con đang gặp mẹ. Sẽ rất thoải mái và quen thuộc. Nhờ các tập quán và lề thói tốt mà các bạn đã củng cố trong đời các bạn, các bạn có thể đạt được giải thoát vào Pháp Thân khi chết.
Nếu điều đó không xảy ra, cơ hội kế tiếp để giải thoát xảy ra trong bardo ngay sau giây phút chết. Vào lúc đó, là một tâm thức bardo, các bạn sẽ bắt đầu tri giác các sự việc. Năm màu ánh sáng sẽ xuất hiện và từ chúng các cõi thanh tịnh của sự phô diễn hòa bình của các bổn tôn Báo Thân sẽ tuần tự hiển lộ. Nếu các bạn đã thực hành thiền định Dzogchen, nhận ra giác tánh nội tại, các bạn sẽ hiểu rằng đây là sự xuất hiện của bổn tánh của các bạn như giác tánh nội tại và các bạn sẽ được giải thoát vào lúc đó. Nếu các bạn có thói quen thực hành bổn tôn, đặc biệt là các bổn tôn hòa bình, khi đã củng cố những thói quen lợi lạc đó trong đời các bạn, thì nhờ ở lòng tin của các bạn khi các bạn nhìn thấy các bổn tôn trong bardo, các bạn sẽ cảm thấy được thu hút tới các ngài và được giải thoát trong giác tánh Báo Thân. Nếu điều đó không xảy ra thì các bổn tôn hòa bình chuyển hóa thành những biểu lộ phẫn nộ và đó là lúc Bardo Pháp tánh chấm dứt và Bardo Trở thành bắt đầu. Vào lúc này, việc đạt được giải thoát trở nên càng khó khăn hơn và sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào các tập quán và khuynh hướng. Điều quan trọng là đạt được giải thoát trước lúc đó, và việc giải thoát là điều hoàn toàn có thể được nếu các bạn thực hiện các sự thiền định mà tôi đã dạy các bạn về sự cắt đứt để đi đến sự thuần tịnh nguyên thủy (trekchod) bằng cách duy trì cái thấy và thiền định Đại Viên Mãn.
Cũng sẽ rất ích lợi nếu trong đời này các bạn thực hành tošgal, sự vượt qua với sự hiện diện tự nhiên. Hãy luôn luôn ghi nhớ để duy trì những giáo lý và thực hành này trong trái tim các bạn. Hãy có đức tin ở Phật Pháp và hãy tôn kính Đức Phật. Cho dù các bạn chỉ có một bức tượng màu vàng đơn sơ trên điện thờ của các bạn, các bạn cần tôn kính bức tượng ấy và hiểu rõ nó tượng trưng điều gì. Các bạn cần rõ biết về chân lý không thể sai lạc của nghiệp, của nhân và quả, và tự làm quen với các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ để chuẩn bị cho việc chứng ngộ sự giác ngộ trong cõi thuần tịnh Báo Thân. Điều tối quan trọng là phải quen thuộc với các bổn tôn Báo Thân này bởi việc các bạn sẽ được giải thoát vào lúc đó trong bardo là điều hoàn toàn có thể. Vì thế xin hãy tự làm quen với các bổn tôn và những vị Phật thuộc năm bộ. Cuối cùng, đây là một cuộc giảng dạy tốt đẹp và tôi vui sướng về điều này. Đây là một sự truyền Pháp đích thực. Nếu các bạn duy trì cái thấy, thiền định và hành động Dzogchen trong đời này, các bạn sẽ được giải thoát khi các bạn từ giã cuộc đời.
Tôi muốn nói một lát về các cõi thuần tịnh khác nhau. Khi chúng ta nói về sự giác ngộ, chúng ta đang nói về việc an trụ trong các cõi hiện hữu ở đó không có đau khổ. Trong các cõi thuần tịnh, các bạn không phải lo lắng về việc sắp làm, về những gì các bạn sắp làm trong ngày đó, và mọi sự khó khăn và gian khổ chúng ta đang trải qua trong cuộc đời này. Không có sự đau khổ. Không có vòng sinh tử. Nếu các bạn thực hành cái thấy, thiền định và hành động Dzogchen, thì quả sẽ là sự giải thoát, nhưng các bạn cũng cần tự mình quen thuộc với các cõi thuần tịnh, có đức tin nơi chúng và nỗ lực hướng tâm các bạn tới các cõi thuần tịnh. Nhờ sự chứng ngộ cái thấy về giác tánh nội tại và duy trì cái thấy đó, thì giây phút chết của các bạn được coi như phowa Pháp Thân, sự chuyển di tâm thức Pháp Thân. Nếu các bạn thành tựu sự thực hành thuộc giai đoạn phát triển và duy trì nó thì vào lúc các bạn chết, nó được gọi là sự chuyển di tâm thức Báo Thân. Nếu các bạn cầu nguyện guru hay bậc thầy thì vào lúc các bạn chết nó sẽ được gọi là sự chuyển di tâm thức Hóa thân. Là các hành giả Dzogchen chúng ta cần nỗ lực chứng ngộ sự chuyển di tâm thức Pháp Thân, đó là an trụ trong một trạng thái giác tánh nội tại trống không vào giây phút chết. Khi đó tâm thức sẽ tự động kinh nghiệm cái thân này của thực tại tuyệt đối và được giải thoát trong cõi thuần tịnh Pháp Thân. Nói chung, có rất nhiều cõi thuần tịnh, nhiều như những hạt nguyên tử trong ba ngàn thế giới, nhưng trong trạng thái vô minh hiện thời của chúng ta, chúng ta không thể nhìn thấy các cõi đó. Chúng ta bị ngăn cản không nhìn thấy nhiều sự việc và một trong những sự việc này là năng lực để tri giác chư Phật trong các cảnh giới của các ngài, nhưng hãy tin tôi, chư Phật có ở đó, có ở khắp mọi nơi. Các ngài hoàn toàn ở quanh ta.
Trong tất cả các cõi thuần tịnh có ba cõi là kỳ diệu nhất. Cõi thứ nhất là cõi thuần tịnh của Guru Rinpoche, Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ. Trong Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ này, Guru Padmasambhava an trụ và được vây quanh bởi vô số các daka và dakini. Đây là cõi thuần tịnh mà tôi luôn luôn cầu nguyện để được tái sinh ở đó. Đây là nơi tâm thức tôi luôn luôn đi tới trong sự thực hành. Cõi thuần tịnh thứ hai là cõi thuần tịnh Hỉ Lạc Hiển Lộ phía đông, cảnh giới của Đức Phật Vajrasattva. Ở đây Đức Vajrasattva được vây quanh bởi một hội chúng rộng lớn gồm chư Phật thuộc Kim Cương bộ là những đấng kinh nghiệm tính bình đẳng của bốn thời, là kinh nghiệm không dứt về giác tánh giác ngộ. Những ai sinh ở cảnh giới đó sẽ an trụ vô thời hạn ở đó. Và khi sự sinh ra xảy ra trong cõi Hỉ Lạc Hiển Lộ này, sự hiện diện của ta xuất hiện từ trong nhụy của một hoa sen và ta lập tức nhìn thấy Đức Vajrasattva và an trụ vô hạn trong trạng thái hiện hữu này của giác tánh nội tại. Cõi thuần tịnh thứ ba là cõi cực lạc phương tây của Đức Phật A Di Đà, cõi thuần tịnh Cực Lạc. Nó là viên ruby (hồng ngọc) đỏ và tràn đầy một hội chúng rộng lớn gồm các bổn tôn thuộc Liên Hoa bộ, các vị trời và thiên nữ, chư Phật và chư Bồ tát, các vidyadhara, và các hành giả Mật thừa. Thật dễ dàng tái sinh ở đó, có lẽ đó là nơi dễ tái sinh nhất do bởi các lời nguyện của riêng Đức Phật A Di Đà. Ngài phát các lời nguyện trước khi giác ngộ rằng bất cứ ai cầu nguyện với ngài sẽ có thể dễ dàng được tái sinh trong cõi thuần tịnh Cực Lạc, cõi cực lạc Phương Tây. Và trong thực tế, đối với tất cả những ai đó có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Phật A Di Đà và cầu nguyện với ngài, chính Đức A Di Đà đã nói rằng ngài sẽ đến gặp họ trong bardo, mời họ và dẫn dắt họ tới cõi Cực Lạc. Hy vọng lớn nhất của tôi là tất cả các bạn sẽ thành tựu giác ngộ trong một thân xác và trong chỉ một đời. Và nếu không thì hy vọng to lớn nhất của tôi khi đang ở đây và đang ban tặng các bạn sự truyền Pháp này, là các bạn sẽ có thể kinh nghiệm các cõi thuần tịnh này và có đức tin mạnh mẽ ở chúng và ở giáo lý. Rồi thì các bạn sẽ không ân hận vào lúc chết. Các bạn có thể đơn giản hướng tâm tới mục tiêu của các bạn và kinh nghiệm các trạng thái kỳ diệu này khi các bạn từ giã cõi đời này.