TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI
VÀ VẬT LÝ LƯỢNG TỬ
Đức Đạt Lai Lạt Ma -Trần Uyên Thi dịch và chú giải
VÀ VẬT LÝ LƯỢNG TỬ
Đức Đạt Lai Lạt Ma -Trần Uyên Thi dịch và chú giải
Lời người dịch: Đây là một chương trong quyển “The Universe in a Single Atom” (Vũ Trụ Nằm Trong Một Nguyên Tử Đơn Lẻ) của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIV, nói về sự hội tụ giữa khoa học và tâm linh. Quyển sách này do nhà xuất bản Broadway Books (New York, USA) ấn hành năm 2005, và đã là một trong những quyển sách bán chạy nhất ở Mỹ.
Chương III này có tựa đề là “Emptiness, Relativity, and Quantum Physics” (Tánh Không, Thuyết Tương Đối và Vật Lí Học Lượng Tử). Chữ không trong tiếng Việt rất dễ gây ngộ nhận, dễ bị hiểu lầm theo nghĩa đối nghịch với có. Trong Phật học, không 空 vốn là một từ gốc Hán có nghĩa là rỗng không. Nói rằng vạn vật đều là “không”, nghĩa là vạn vật tuy có đó, nhưng nó không có mặt riêng rẽ, biệt lập, mà phải nương vào mối tương duyên tương tác với các nhân và duyên khác mà hiển lộ. Cánh hoa sen thoảng hương thơm ngát trên mặt hồ kia, nó có thực đấy chứ, nhưng nếu lấy ra những yếu tố tạo ra nó mà không phải là nó như nước, bùn, ánh sáng mặt trời, nhiệt độ, v.v… thì nó không thể nào có tướng trạng của một cánh hoa sen được. Trong “Luận Đại Trí Độ”1, Bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna)2 nói: “Nhân duyên sở sinh pháp3, ngã thuyết tức thị không” (Tất cả những gì do nhân duyên tập hợp mà phát sinh, tôi gọi nó là “không”). Vì rỗng không, cho nên sự vật luôn luôn biến đổi không ngừng, trong từng sát-na, không thể nắm bắt được, như huyễn, như mộng, như sương khói, như bọt bèo, như tia chớp4… Vạn vật, kể cả con người, không có tính rắn chắc, thường hằng, bất biến như ta tưởng.
Đây chính là chân lí mà các bậc giác ngộ đã thực chứng từ ngàn xưa, và trong vòng một thế kỷ nay, đã được thuyết tương đối kết hợp với vật lí học lượng tử chạm đến. Những khám phá gần đây của khoa học ở tầng dưới nguyên tử (subatomic level) cho thấy một số quan điểm của Phật giáo sơ thuỷ về sự cấu thành của vật chất hãy còn ở mức đơn giản và thô thiển, cần phải được xem xét lại và cải thiện. Mặt khác, chỗ bế tắc của khoa học ngày nay là cái chấp vào “nhị nguyên” (duality), vào sự phân biệt chủ thể và khách thể, là ý niệm về một thực tại khách quan, ở ngoài ta, mà ta có thể nhận xét, đo lường, đụng chạm mà không làm cho méo mó, lệch lạc đi, và một chủ thể riêng rẽ, độc lập với ngoại giới. Phật giáo, trong khi đó, từ ngàn xưa đã đưa ra một “mô hình chặt chẽ” để có thể nhìn thấu triệt tới cái chân bản lai diện mục của vạn vật: mô hình phi thể tánh5 (non-essentialist model). Phật giáo và khoa học, mặc dầu có những dị biệt, có thể ngồi lại với nhau để mở ra một chân trời mới cho sự tìm hiểu thế giới và con người, với hy vọng góp sức vào việc mang lại hoà bình cho thế giới và hạnh phúc cho nhân loại.
Đó là thông điệp mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đương thời tha thiết gởi đến độc giả trong quyển sách này, đặc biệt trong chương thứ ba này.
Trong khi tánh không, cái xương sống của tư tưởng Phật giáo, có thể dễ bị biến thành một triết thuyết trừu tượng thiếu thực tiễn, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh, bằng cách trích dẫn lời của Ngài Long Thọ, rằng: “Thuyết tánh không không phải chỉ để thoả mãn những tò mò của trí năng về thực tại, mà còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc về tâm lí và đạo đức.”
Sách này vừa giảng Phật học, triết học, vừa giảng khoa học, có nhiều thuật ngữ và khái niệm triết học lẫn khoa học, cách dùng từ tinh tế và uyên thâm. Trong tinh thần tôn trọng nguyên tác, người dịch cố gắng dịch sát với nguyên bản.
Toàn bộ chú giải trong sách này đều là của người dịch, được trình bày dưới dạng cước chú (footnotes) hoặc để trong ngoặc vuông [ ]. Việc in nghiêng một số chữ cho dễ theo dõi cũng là chủ ý của người dịch. Để tiện cho độc giả tra cứu, phần lớn những từ ngữ tiếng Phạn/Tạng được bỏ thêm dấu, phiên âm sang tiếng Việt, và chua chữ Hán, với sự giúp đỡ của Anh Chân Nguyên Đỗ Quốc Bảo ở Đức.
Người dịch mong mỏi được các bậc cao minh chỉ bảo thêm cho những sai sót trong bản dịch, để tuệ giác sâu sắc của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV – một bậc vĩ nhân tiến bộ của thời đại – có thể được truyền đạt đến độc giả người Việt một cách chính xác và mạch lạc hơn nữa.
Cuối cùng, người dịch xin gởi gắm nơi đây lòng biết ơn sâu sắc đến Giáo sư Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, nguyên Viện trưởng Viện Việt-Học, California, Hoa Kỳ, đã đọc lại bản dịch và tận tình chỉ bảo cũng như không ngừng khích lệ người dịch.
Với tâm từ,
Virginia, May 30, 2008
Hoài Hương TRẦN UYÊN THI
Virginia, May 30, 2008
Hoài Hương TRẦN UYÊN THI
Một trong những điều hứng khởi nhất của khoa học là nó làm thay đổi cái nhìn của chúng ta về thế giới này dưới ánh sáng của những khám phá mới. Cho đến nay, lãnh vực vật lí học vẫn còn đang loay hoay lúng túng trước một bước ngoặt quan trọng (paradigm shift6) kể từ khi có sự phát khởi của thuyết tương đối (relativity) và cơ học lượng tử (quantum mechanics) ở vào đầu thế kỷ XX. Các nhà khoa học cũng như triết học thường xuyên phải đương đầu với nhiều mô hình trái ngược nhau về bản chất của thực tại: thuyết Newton cho rằng vũ trụ này có tính cách máy móc và xác định, còn thuyết tương đối của Einstein và cơ học lượng tử thì lại cho rằng vũ trụ này “hỗn loạn” hơn nhiều. Thực ra, những gì mô hình thứ nhì này mang lại cho sự hiểu biết của chúng ta về thế giới vẫn chưa được hoàn toàn sáng tỏ.
Vũ trụ quan của tôi chủ yếu dựa trên triết thuyết và giáo pháp của Phật giáo, vốn phát khởi từ các bậc trí thức thuộc thời xa xưa ở Ấn Độ. Tôi được học về triết học Ấn Độ từ lúc nhỏ, với thầy Tadrak Rinpoche, vị quan phụ chính (regent) của Tây Tạng, và thầy Ling Rinpoche. Thầy Tadrak là một vị thầy khả kính, đã luống tuổi, và rất nghiêm khắc. Còn thầy Ling thì trẻ hơn, có giọng nói dịu dàng và hiểu sâu học rộng, nhưng cũng rất ít nói (ít nhất là khi tôi còn nhỏ). Hồi đó, mỗi lần có mặt hai vị thầy này, là tôi sợ đến khiếp vía. Ngoài ra, còn có một vài thầy phụ tá giúp tôi đàm luận về những điều tôi đã học, trong đó có thầy Trijang Rinpoche và Ngodrup Tsonknyi – một tu sĩ, đồng thời là một học giả người Mông Cổ. Sau khi thầy Tadrak qua đời, thầy Ling trở thành giảng sư chính của tôi, và thầy Trijang được lên chức phụ giảng.
Tôi tiếp tục học với hai vị thầy này cho đến hết chương trình học vấn chính thức của tôi. Hai thầy đã giảng dạy cho tôi về những tông phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng. Cả hai thầy đều rất gần gũi với tôi, nhưng có cá tính rất khác nhau. Thầy Ling có một thân hình rắn chắc, đầu hói, mặt to, mắt nhỏ, và mỗi khi ông cười thì cả người ông đều rung lên. Còn thầy Trijang thì dáng người dong dỏng cao, đi đứng uyển chuyển và sang trọng với sống mũi cao hơn một người Tây Tạng bình thường. Ông rất hiền từ, giọng nói trầm ấm, nhất là khi ông tụng kinh, nghe rất là du dương. Thầy Ling là một triết gia sâu sắc với một đầu óc sắc bén và một trí nhớ lạ kỳ. Còn thầy Trikang thì lại là một nhà thơ nổi tiếng nhất của thời đại ông, và rất thông thạo về hai lãnh vực nghệ thuật và văn chương. Đối với tính tình và năng khiếu của tôi, tôi cảm thấy thân thiết với thầy Ling hơn hết trong các vị thầy. Có thể nói một cách công bình rằng thầy Ling Rinpoche đã có ảnh hưởng lớn lao nhất đến cuộc đời tôi.
Khi học về các chủ thuyết khác nhau của các tông phái Ấn, tôi cảm thấy chúng rất xa lạ với những điều mà bản thân tôi có thể chứng nghiệm được. Thí dụ, thuyết duyên khởi7 (causation) của phái Số Luận8 (Sāṃkhya) cho rằng quả là sự biểu hiện của những gì đã nằm sẵn trong cái nhân, và thuyết hoàn vũ cách (theory of universals) của phái Thắng Luận9 (Vaiśeṣika) thì cho rằng mặc dầu đa hình vạn trạng, các vật thể hàm chứa tính phổ quát bất biến thường hằng, độc lập với tất cả các biệt tướng. Có những thuyết hữu thần Ấn Độ muốn chứng minh sự hiện hữu của một Đấng Tạo Hoá, và có những lí luận của Phật giáo phản bác lại điều đó. Ngoài ra, tôi còn phải học về những dị biệt vô cùng phức tạp giữa các chủ thuyết khác nhau ngay cả trong các tông phái Phật giáo nữa. Những điều này quá sức huyền bí và rối rắm đối với một đứa trẻ mới mười mấy tuổi, chỉ thích lắp ráp đồng hồ, xe máy, và dán mắt vào những bức hình về Thế Chiến Thứ Hai qua sách vở và tạp chí Life như tôi. Thật vậy, lúc Babu Tashi gỡ cái máy phát điện ra để chùi rửa, thì tôi đứng bên cạnh ông nhìn say mê đến nỗi quên cả học, quên cả ăn. Và lúc các thầy phụ tá đến giúp tôi học, đầu óc của tôi lại chạy theo cái máy phát điện và những bộ phận của nó.
Nhưng tất cả đều thay đổi khi tôi tròn 16 tuổi. Các sự kiện trên thế giới biến chuyển nhanh đến chóng mặt. Khi quân đội Trung Quốc tiến sát đến biên giới Tây Tạng vào mùa hè năm 1950, thầy Tadrak [quan phụ chính] đề nghị tôi tạm thời đứng ra đảm nhận vai trò lãnh đạo quốc dân. Có lẽ chính vì tuổi thơ đã bị đánh mất, vì gánh nặng của một thực trạng đen tối và những khủng hoảng không lối thoát đang đè lên hai vai, mà tôi đã nhận chân được giá trị thực sự của học vấn. Không hiểu vì sao, kể từ năm 16 tuổi, tôi bắt đầu ngấu nghiến học về triết học, tâm lí học, và tâm linh học Phật giáo. Không những tôi theo đuổi việc học một cách say mê, mà tôi còn bắt đầu liên hệ được những gì tôi học với nhận thức của tôi về cuộc đời và những gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài.
Trong khi tôi vùi đầu vào sách vở Phật học, vào việc tham thiền, quán chiếu về tư tưởng Phật giáo, thì Tây Tạng đang phải đương đầu với sự có mặt của binh sĩ Trung Quốc trong lãnh thổ Tây Tạng, trong nỗ lực tiến đến một giải pháp chính trị ổn thoả cho cả hai bên, và tình trạng ngày càng trở nên rối rắm hơn. Đến khi tôi hoàn tất chương trình học vấn và tham dự kỳ thi Geshe10 tại thành phố linh thiêng Lhasa11 trước hàng ngàn tu sĩ – một sự kiện đánh dấu đỉnh cao của con đường học vấn của tôi (cho tới nay, đây vẫn là điều tôi thấy hài lòng nhất) – thì những khủng hoảng ở Tây Tạng buộc tôi phải trốn chạy khỏi quê hương sang Ấn Độ, và từ đó bắt đầu cuộc đời tỵ nạn lưu vong của tôi, cho đến tận ngày hôm nay. Thế nhưng, chính vì đã mất đi quốc tịch Tây Tạng, tôi có thể nói một cách thành thực rằng tôi đã nghiễm nhiên trở thành một công dân của thế giới.
♣
Một trong những tuệ giác sâu sắc nhất của Phật giáo bắt đầu từ cái gọi là “tánh không12”. Cốt tuỷ của tánh không là sự nhận biết sâu sắc rằng có một sự chênh lệch rất lớn giữa những gì tri giác của ta cảm nhận được (trong đó có sự hiện hữu của chính ta) và bản chất thực sự của sự vật. Trong cuộc sống hàng ngày, ta thường xem bản thân ta và thế giới này là những thực thể cách biệt, xác định, riêng rẽ và lâu bền. Ví dụ, thử thẩm định tri kiến của ta về cái tôi, ta sẽ thấy rằng ta có khuynh hướng tin rằng có sự có mặt của một thể tánh, từ đó ta tin tưởng rằng có một cá nhân riêng biệt và một bản ngã cụ thể, tồn tại biệt lập với những yếu tố vật chất và tinh thần làm nên sự hiện hữu của ta. Thế nhưng, triết học về tánh không cho ta biết rằng cái nhìn này không những là một sai lầm căn bản, mà nó còn là nguồn gốc của những sự dính mắc, nắm bắt, và dẫn tới vô số những thiên kiến, định kiến của ta.
Theo thuyết tánh không (theory of emptiness), bất kỳ một sự tin tưởng nào vào một sự hiện hữu có tính cách nội tại (intrinsic) và biệt lập13 đều không bền vững. Tất cả sự vật và sự kiện – vật chất [thân] hay tinh thần [tâm], ngay cả những khái niệm trừu tượng như thời gian – đều không thể tồn tại một cách khách quan, biệt lập. Nếu ta nghĩ rằng các sự vật và sự kiện tồn tại một cách biệt lập, thì nghĩa là ta đã đặt giả thuyết rằng là chúng, bằng cách nào đó, đã tự viên mãn cụ túc và điều đó có nghĩa là chúng hoàn toàn cách biệt. Điều này cũng có nghĩa là chúng không có khả năng tác động qua lại và ảnh hưởng lên các hiện tượng khác. Thế nhưng, ta đã biết rằng có lí duyên khởi: nếu tôi tra chìa khoá vào máy xe, bu-ri14 sẽ bật lửa, dầu và xăng sẽ cháy lên, máy sẽ chạy. Trong một thế giới mà các sự vật hiển hiện và tồn tại một cách riêng biệt và tự hữu, những sự kiện trên sẽ không bao giờ xảy ra; tôi sẽ không thể cầm bút, và quý vị cũng sẽ không thể đọc được những dòng chữ này đây.
Chính vì chúng ta tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, ta phải đặt giả thuyết rằng chúng ta không phải là những cá thể riêng biệt, mặc dầu ta cảm thấy như vậy. Nói cách khác, khái niệm về một sự tồn tại tự hữu, biệt lập của vạn vật [dharma] hoàn toàn không thích hợp với lí duyên khởi. Bởi vì lí duyên khởi hàm chứa tính cách tương tuỳ và tương thuộc của vạn vật, trong khi những gì tự hữu thì bất biến và biệt lập. Tất cả mọi sự vật trên đời này đều được cấu thành bởi những sự kiện phụ thuộc và liên quan lẫn nhau, bởi một dòng hiện tượng liên tục tương duyên với nhau, trong đó không có một thể tánh15 (essence) cố định, vĩnh hằng, bất biến, và những hiện tượng (phenomena) này bản thân chúng cũng thay đổi và biến cải không ngừng.
Nói rằng tất cả sự vật và sự kiện đều là “không” nghĩa là nó không có một thể tánh bất biến, một thực tại có tự tánh (intrinsic reality), hay một thực thể tuyệt đối nào có thể tồn tại một cách riêng rẽ. Sự thật về bản chất thực sự này của vạn vật chính là cái mà kinh sách Phật giáo gọi là “tánh không”, hay śūnyatā trong tiếng Phạn.
Trong cái nhìn ngây thơ và thường tình của ta về thế giới, ta tưởng như các sự vật và hiện tượng có một thực tính thường hằng, tự hữu. Ta tưởng rằng thế giới này được cấu thành bởi những sự vật và sự kiện cụ thể, biệt lập, và những sự vật, sự kiện [cụ thể, biệt lập] ấy tương tác với nhau. Ta tưởng rằng những hạt giống thực có tự tánh tạo ra những mầm cây thực có tự tánh ở một thời điểm thực có tự tánh trong một không gian thực có tự tánh. Ta tưởng rằng mỗi phần tử trong cái dòng duyên khởi này – nhân, thời, sở, quả – đều có thể tánh vững chắc. Cái nhìn của ta về thế giới, mà ta nghĩ là được cấu thành bởi những khách thể rắn chắc và có những đặc tính cố hữu, được ta củng cố thêm bằng cách sử dụng ngôn ngữ của ta với những chủ từ và thuật từ theo cấu trúc của một bên là danh từ và tĩnh từ, và một bên là động từ16.
Thế nhưng vạn vật đều do nhiều thành phần khác nhau tạo nên; một con người gồm có hai phần thân lẫn tâm. Hơn nữa, tự tánh của vạn vật tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như là cái tên [cái mà Ngài Long Thọ gọi là “giả danh” – ND] mà ta đặt cho chúng, chức năng của chúng, và những khái niệm của ta về chúng.
Mặc dầu được dựa trên cách hiểu của kinh điển Phật giáo, triết lí về tánh không đã được dẫn giải một cách có hệ thống lần đầu tiên bởi một triết gia Phật giáo tên là Nāgārjuna [Bồ tát Long Thọ], sống vào thế kỷ thứ II. Hiện nay, chúng ta biết rất ít về cuộc đời của Ngài, chỉ biết rằng Ngài sinh ra ở Nam Ấn và là người quan trọng thứ nhì góp phần lập nên Đạo Phật ở Ấn Độ, sau Đức Phật [Thích Ca Mâu Ni]. Các sử gia tán thán công đức của Ngài trong việc thành lập trường phái Trung Luận17 (Madhyamaka) thuộc Phật giáo Đại thừa18 (Mahāyāna), một tông phái đóng vai trò chủ yếu ở Tây Tạng cho đến ngày nay. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ngài là Căn bản Trung Quán Luận tụng19 (Madhyamaka-kārikā), ngày nay vẫn còn được học thuộc lòng, nghiên cứu, và thảo luận trong các trường đại học và các thiền viện ở Tây Tạng.
Tôi dành nhiều thì giờ đọc kỹ và đem ra thảo luận với các vị thầy cũng như đồng môn của tôi về quyển sách này. Vào những năm 1960s, trong thập niên đầu tiên của cuộc đời lưu vong của tôi tại Ấn Độ, tôi đã có cơ hội nghiên cứu sâu về tánh không. Hồi đó, nói chung tôi rảnh rang hơn bây giờ nhiều, không phải tham dự nhiều lễ lạc. Tôi cũng chưa được đi chu du khắp các nơi trên thế giới như bây giờ, một công việc chiếm rất nhiều thì giờ của tôi. Trong khoảng mười năm đó, tôi có cơ hội quý báu được dành nhiều thời giờ học hỏi với hai vị thầy của tôi, đều là những chuyên gia về cả lí thuyết lẫn thực hành về tánh không.
Tôi cũng được học với một học giả tài ba và khiêm tốn tên là Nyima Gyaltsen (Gen Nyima là tên thân mật của ông). Ông có một khả năng trời phú hiếm hoi là có thể giảng giải những tư tưởng thâm sâu vi diệu của Đạo Phật bằng những từ ngữ hết sức dễ hiểu. Ông hơi hói và thường đeo một cặp kính râm to và tròn. Một mắt của ông bị chứng co giật nên ông hay chớp mắt luôn. Nhưng khả năng định tâm của ông, nhất là khả năng tập trung vào một luồng tư duy phức tạp hay định vào một điểm, thì phải nói là đáng kinh ngạc, thậm chí được xem như là một huyền thoại. Ông có thể nhận biết một cách sáng suốt tất cả những gì đang xảy ra chung quanh mỗi khi nhập định. Vì tánh không là lãnh vực chuyên môn của ông nên tôi cảm thấy rất hứng thú mỗi khi được thảo luận với ông về đề tài này.
♣
Thế giới vi mô (microscopic) của cơ học lượng tử đã mang lại nhiều thách thức đối với sự hiểu biết thông thường của chúng ta, và đây chính là một trong những điều phi thường và thú vị của vật lí học hiện đại. Vì ánh sáng có thể được thấy dưới hai dạng, hoặc là hạt (particle), hoặc là sóng (wave), và vì nguyên lí bất định (principle of uncertainty), ta không thể nào biết được một điện tử có chức năng gì và nó đang ở đâu20, và khái niệm vật lí lượng tử về sự chồng chập21 mang lại một cách hiểu hoàn toàn mới lạ so với vật lí học cổ điển, vốn cho rằng mọi vật đều có tính cách chỉ định và có thể tiên đoán được. Thí dụ, trong thí nghiệm tư tưởng nổi tiếng của ông Schrödinger về con mèo: một con mèo được đặt trong một cái thùng chứa chất phóng xạ có 50% khả năng phóng ra chất độc giết chết nó. Trong trường hợp này, ta phải đặt giả thuyết là cho đến khi nắp thùng được mở ra, con mèo này vừa sống lại vừa chết, và điều này có vẻ như là một nghịch lí.
Đối với một Phật tử Đại thừa được tiếp xúc với tư tưởng của Bồ tát Long Thọ, thì rõ ràng có một sự cộng hưởng giữa nguyên lí tánh không và vật lí hiện đại. Nếu vật lí học lượng tử cho biết rằng vật chất không rắn chắc và xác định như ta tưởng, thì tôi dám nghĩ rằng khoa học đang tiến dần đến tuệ giác của đạo Phật về tánh không và tính hỗ tương của sự vật. Trong một cuộc hội thảo ở New Delhi, tôi đã được nghe nhà vật lí học Raja Ramanan, được xem là một Sakharov22 của Ấn Độ, nhắc đến sự đồng hướng giữa triết lí tánh không của Long Thọ và cơ học lượng tử. Sau khi thảo luận với nhiều khoa học gia, tôi tin rằng những khám phá lớn lao của vật lí học kể từ thời Copernicus đang dẫn đến nhận thức rằng bản chất của thực tại không phải như ta nhìn thấy. Nếu ta quan sát và nghiên cứu thế giới này kỹ hơn – bằng phương pháp khoa học, bằng thí nghiệm, hoặc theo nguyên lí tánh không của Phật giáo, hay bằng phương pháp thiền quán – ta sẽ thấy rằng sự vật vi tế hơn nhiều, thậm chí, trong nhiều trường hợp, mâu thuẫn với những giả thuyết và cái nhìn thông thường của ta về thế giới.
Có thể ta sẽ đặt câu hỏi này: có tri giác sai lầm về thực tại đã đành rồi, nhưng nếu ta cứ tin tưởng rằng vạn vật hiện hữu và tồn tại một cách biệt lập và tự hữu, thì có tai hại gì không? Ngài Long Thọ cho rằng nhận thức này dẫn tới những hậu quả rất tai hại. Ngài giảng rằng tin tưởng vào sự tồn tại riêng rẽ của vạn vật khiến cho ta dễ rơi vào ngã chấp và cái nhìn lệch lạc khi ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài và các loài hữu tình đang chung sống với ta trên quả địa cầu này. Khi ta cho rằng có những ngoại vật có tự tánh là sự quyến rũ, thì ta sẽ phản ứng trước các sự vật ấy với một tình cảm luyến ái, sai lạc, nhưng đồng thời trước những ngoại vật khác mà ta cho là có tự tánh không quyến rũ, ta lại phản ứng với một sự ghét bỏ sai lạc. Nói một cách khác, Ngài Long Thọ cho rằng chính sự nắm bắt lấy những sự vật tồn tại một cách biệt lập đưa tới phiền muộn, dẫn tới hàng loạt những hành động, phản ứng tiêu cực và, cuối cùng, dẫn tới khổ đau. Nói tóm lại, theo Ngài Long Thọ, nguyên lí tánh không không phải chỉ để thoả mãn những tò mò của trí năng về thực tại, mà còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc về tâm lí và đạo đức.

Tôi có lần hỏi nhà vật lí học David Bohm, một người bạn của tôi, rằng: Đứng trên bình diện khoa học hiện đại, ngoài vấn đề nhìn và thấy sự vật một cách sai lầm ra, nếu người ta tin vào sự hiện hữu và tồn tại biệt lập của vạn vật, thì có gì không ổn không? Câu trả lời của ông rất hay và hữu lí. Ông nói rằng nhìn lại những chủ thuyết khác nhau đã từng chia rẽ nhân loại, như nạn kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay thuyết đấu tranh giai cấp của Marx, ta thấy rằng nền tảng của các chủ thuyết này là cách nhìn các sự vật như chúng là những cá thể riêng rẽ, biệt lập. Từ sai lầm này dẫn đến một sai lầm khác là họ cũng tin tưởng rằng những vật thể nhỏ hơn nữa cũng có tính cách biệt lập và tự hữu. Câu trả lời của nhà vật lí học Bohm, dựa trên những nghiên cứu của ông về vật lí lượng tử, cũng chính là những ưu tư của Ngài Long Thọ cách đây gần hai ngàn năm về vấn đề đạo đức và cách nhìn sự vật theo kiểu này. Đành rằng, nói một cách chính xác, thì khoa học không quan tâm nhiều đến vấn đề đạo đức, nhưng có một điều chắc chắn là khoa học – một nỗ lực của con người – không tách rời khỏi hạnh phúc của nhân loại. Cho nên, câu trả lời của Bohm không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi hy vọng chúng ta có thêm những nhà khoa học có cùng nhận thức như ông về mối quan hệ mật thiết giữa khoa học, khuôn khổ nhận thức của nó, và [sự sống còn của] nhân loại.
Theo tôi được biết thì khoa học hiện đại đã trải qua một cuộc khủng hoảng vào đầu thế kỷ XX. Những công trình vĩ đại trong vật lí học cổ điển của Isaac Newton, James Maxwell, v.v… đã cung cấp cho chúng ta những giải thích có vẻ rất là hiệu quả về thế giới, và chúng có vẻ thích hợp với trực giác thường tình của ta. Song, những công trình này đã bị thuyết tương đối và những khám phá về vật chất ở tầng vi mô [tầng dưới nguyên tử], gọi là cơ học lượng tử, xoáy mòn. Nhà vật lí Carl von Weizsäcker có lần giải thích với tôi rằng vật lí học cổ điển chấp nhận cái nhìn máy móc về thế giới. Với cái nhìn này, một số định luật vật lí có tính cách hoàn vũ gồm lực hấp dẫn và luật cơ học có khả năng xác định các mô hình tác động của vật chất một cách hữu hiệu. Trong khối kiến thức này, có bốn thực tại khách quan: vật thể, lực, không gian, và thời gian, và luôn luôn có một sự phân biệt rạch ròi giữa chủ thể (người quan sát) và khách thể (vật được quan sát). Thế nhưng, Weizsäcker nói, theo thuyết tương đối và vật lí lượng tử, thì trên nguyên tắc, chúng ta phải từ bỏ sự phân biệt chủ thể và khách thể, và cả sự tin chắc của ta vào tính khách quan của các dữ kiện nhận xét được. Tuy vậy, ông Weizsäcker nhấn mạnh, vấn đề là hiện nay ta chỉ có thể sử dụng những ngôn từ của vật lí học cổ điển khi nói về cơ học lượng tử và những thí nghiệm có khả năng mang lại một bức tranh mới về thực tại của nó, trong khi đó những ngôn từ này đã bị vật lí lượng tử bác bỏ23. Ngoài vấn đề này ra, ông cho rằng ta phải luôn luôn tìm hiểu về mối tương duyên chặt chẽ của tự nhiên và cải thiện nhận thức của ta về thực tại, khoa học, và chỗ đứng của con người một cách đúng đắn hơn dựa trên những tri thức mới mẻ nhất mà khoa học mang lại.
Dưới ánh sáng của những khám phá đó của khoa học, tôi nhận thấy rằng Phật giáo phải sẵn sàng xem xét lại những lí thuyết vật lí thô thiển trong thuyết nguyên tử sơ khai của Phật giáo để thích ứng với khoa học hiện đại, mặc dù nó đã có chỗ đứng vững chắc và lâu dài trong truyền thống Phật giáo. Thí dụ như, thuyết nguyên tử cổ xưa của Phật giáo, mà cho đến ngày nay vẫn chưa thay đổi gì lắm, cho rằng vật chất được cấu tạo bởi tám thành phần