PHÁP MÔN TRÌ DANH NIỆM PHẬT
Niệm Phật trì danh là giữ gìn hành trì
một câu danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, rất đơn giản dễ dàng, nhưng pháp rất
là rộng lớn. Chỉ cần niệm Phật một cách chí thành, khẩn thiết, chuyên nhứt và
cung kính, mới có thể cảm ứng với đạo, tức đời sống được lợi ích.
một câu danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, rất đơn giản dễ dàng, nhưng pháp rất
là rộng lớn. Chỉ cần niệm Phật một cách chí thành, khẩn thiết, chuyên nhứt và
cung kính, mới có thể cảm ứng với đạo, tức đời sống được lợi ích.
Người tu tịnh độ từ xưa đến nay, phương
pháp trì danh niệm Phật, được thành tựu ấy con số rất nhiều. Pháp môn đó rất là
thẳng tắt, rất viên đốn, có thể vượt qua mà không cần trải qua sự lần hồi tu
hành, vả lại có thể đốn siêu (vượt qua mau chóng). Cũng giống như từ cấp tiểu
học vượt thẳng lên đại học mà bằng phương pháp rất là đơn giản, khiến người ta
không dám tin, thật là “bất khả tư nghì” (không thể nghĩ bàn)!
pháp trì danh niệm Phật, được thành tựu ấy con số rất nhiều. Pháp môn đó rất là
thẳng tắt, rất viên đốn, có thể vượt qua mà không cần trải qua sự lần hồi tu
hành, vả lại có thể đốn siêu (vượt qua mau chóng). Cũng giống như từ cấp tiểu
học vượt thẳng lên đại học mà bằng phương pháp rất là đơn giản, khiến người ta
không dám tin, thật là “bất khả tư nghì” (không thể nghĩ bàn)!
Đối với pháp môn vô thượng mà giản dị
nầy, chớ nên coi dễ mà không siêng năng, chớ cho là khó mà sinh e sợ thối lui,
chớ cho là cạn cợt mà tỏ vẻ khinh khi, chớ cho là sâu xa mà không dám thừa
đương, chớ muốn mau lẹ mà không chịu bền lâu, chớ lười mỏi mà không mạnh mẽ,
chớ vì ngu chậm mà cứ mãi vô tâm, chớ vì căn cơ mình cạn cợt mà tự chê không có
phần.
nầy, chớ nên coi dễ mà không siêng năng, chớ cho là khó mà sinh e sợ thối lui,
chớ cho là cạn cợt mà tỏ vẻ khinh khi, chớ cho là sâu xa mà không dám thừa
đương, chớ muốn mau lẹ mà không chịu bền lâu, chớ lười mỏi mà không mạnh mẽ,
chớ vì ngu chậm mà cứ mãi vô tâm, chớ vì căn cơ mình cạn cợt mà tự chê không có
phần.
Ví như mài dao, mài lâu dao lụt thành
dao bén, nếu vì lụt mà chẳng chịu mài, để đó thành đồ vô dụng.
dao bén, nếu vì lụt mà chẳng chịu mài, để đó thành đồ vô dụng.
Lại nữa nếu cho rằng tu hành là khổ,
thì không biết là lười mỏi càng khổ hơn sao? Tu hành thì siêng năng lao nhọc
tạm thời mà an lạc vĩnh kiếp, lười mỏi thì cầu an một thời mà thọ khổ nhiều
đời. Bỡi vậy trì danh hiệu Phật là chơn bất khả tư nghì, hay tu trì thì tâm
tánh cũng bất khả tư nghì.
thì không biết là lười mỏi càng khổ hơn sao? Tu hành thì siêng năng lao nhọc
tạm thời mà an lạc vĩnh kiếp, lười mỏi thì cầu an một thời mà thọ khổ nhiều
đời. Bỡi vậy trì danh hiệu Phật là chơn bất khả tư nghì, hay tu trì thì tâm
tánh cũng bất khả tư nghì.
Người tu hành cần cầu một đời việc
xong, mau ra khỏi sinh tử, thì chỉ có pháp môn trì danh niệm Phật. Vì trì danh
niệm Phật, một phương diện là nhờ sức lực tín, hạnh, nguyện chính mình; phương
diện khác lại có thêm lực đại bi đại nguyện của đức Phật A Di Đà. Có được hai
lực lượng tự lực và tha lực, thì dù tự lực chưa đủ còn có Phật lực mà có thể
nương cậy. Cho nên nói rằng trì danh niệm Phật là một phương pháp rất ổn định.
xong, mau ra khỏi sinh tử, thì chỉ có pháp môn trì danh niệm Phật. Vì trì danh
niệm Phật, một phương diện là nhờ sức lực tín, hạnh, nguyện chính mình; phương
diện khác lại có thêm lực đại bi đại nguyện của đức Phật A Di Đà. Có được hai
lực lượng tự lực và tha lực, thì dù tự lực chưa đủ còn có Phật lực mà có thể
nương cậy. Cho nên nói rằng trì danh niệm Phật là một phương pháp rất ổn định.
Một pháp trì danh rất họp thời cơ, bỡi
vì pháp môn nầy không bỏ phế pháp thế gian mà chứng Phật pháp, không lìa Phật
pháp mà hành pháp thế gian, tùy thời tùy cơ mà có thể tu hành, không cần vào
núi ẩn tu, hoặc đóng cửa ngồi yên, đối với việc hữu ích cho đời vẫn có thể làm
được.
vì pháp môn nầy không bỏ phế pháp thế gian mà chứng Phật pháp, không lìa Phật
pháp mà hành pháp thế gian, tùy thời tùy cơ mà có thể tu hành, không cần vào
núi ẩn tu, hoặc đóng cửa ngồi yên, đối với việc hữu ích cho đời vẫn có thể làm
được.
Muốn được lợi ích Phật pháp thì phải có
tâm cung kính, có một phần cung kính thì tiêu được một phần tội nghiệp, thêm
một phần phước huệ. Có được sự cung kính mười phần thì tiêu mười phần tội
nghiệp, tăng thêm mười phần phước huệ. Nếu không có tâm cung kính thì dẫn đến
thói hư hèn ngạo mạn, nghiệp tội ngày càng tăng mà phước huệ ngày càng giảm đi.
Do đó mà sự cung kính chí thành thật là “siêu phàm nhập thánh”, cũng là bí
quyết “liễu sinh thoát tử”. Có thể đem tâm chí thành, nhất tâm niệm Phật, tâm
cung kính nhớ Phật, chắc chắn có thể lìa được biển khổ sinh tử. Chỉ cần một
lòng buộc niệm không rạn vỡ, chắc chắn sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.
tâm cung kính, có một phần cung kính thì tiêu được một phần tội nghiệp, thêm
một phần phước huệ. Có được sự cung kính mười phần thì tiêu mười phần tội
nghiệp, tăng thêm mười phần phước huệ. Nếu không có tâm cung kính thì dẫn đến
thói hư hèn ngạo mạn, nghiệp tội ngày càng tăng mà phước huệ ngày càng giảm đi.
Do đó mà sự cung kính chí thành thật là “siêu phàm nhập thánh”, cũng là bí
quyết “liễu sinh thoát tử”. Có thể đem tâm chí thành, nhất tâm niệm Phật, tâm
cung kính nhớ Phật, chắc chắn có thể lìa được biển khổ sinh tử. Chỉ cần một
lòng buộc niệm không rạn vỡ, chắc chắn sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.
Tâm cung kính là rất tin tưởng đối với
Phật và Bồ tát, cần nương theo pháp mà làm, tôn trọng pháp. Mà không phải là
cung kính bên ngoài, thấy tượng Phật khúm núm vái chào. Bên ngoài biểu hiện
cung kính mà trong tâm không cung kính đó là hư ngụy. Nên phải từ trong tâm
chân chính rõ hiểu Phật và Bồ tát, không phải là cung kính bướng bỉnh miễn
cưỡng. Thật sự có chỗ rõ hiểu rồi, thì từ trong tâm sinh khởi lòng cung kính,
đây tức là “như pháp”.
Phật và Bồ tát, cần nương theo pháp mà làm, tôn trọng pháp. Mà không phải là
cung kính bên ngoài, thấy tượng Phật khúm núm vái chào. Bên ngoài biểu hiện
cung kính mà trong tâm không cung kính đó là hư ngụy. Nên phải từ trong tâm
chân chính rõ hiểu Phật và Bồ tát, không phải là cung kính bướng bỉnh miễn
cưỡng. Thật sự có chỗ rõ hiểu rồi, thì từ trong tâm sinh khởi lòng cung kính,
đây tức là “như pháp”.
Niệm Phật và tâm chí thành, tâm cung
kính có phải là chơn chánh không? Chư vị nghĩ xem trong lúc niệm Phật hoặc tụng
kinh nếu như gặp một người khá quan trọng hoặc một công việc quan trọng, thì
niệm Phật tụng kinh sẽ trở thành thứ yếu (ít quan trọng hơn); Như vậy có thể
thấy rằng sự cung kính, chí thành nầy chưa được chơn thuần, cho nên cần phải
chân thành cung kính một cách chơn chánh, thì niệm Phật tụng kinh mới là việc
lớn thứ nhất của đời người. Ví như có người, trong lúc anh niệm Phật tụng kinh,
bảo anh rằng: “Hiện tại có một việc buôn bán nếu làm gấp thì sẽ thu được lãi là
trăm vạn đồng”, bảo đảm rằng anh sẽ quay đầu đi, không niệm Phật được rồi. Có
thể thấy rằng chúng ta cung kính, chí thành đối với Phật và Bồ Tát mà chịu
không nổi thử thách, khi trải qua thử thách thì mới hiểu được tâm cung kính,
tâm chí thành nầy không chơn thật một chút nào cả.
kính có phải là chơn chánh không? Chư vị nghĩ xem trong lúc niệm Phật hoặc tụng
kinh nếu như gặp một người khá quan trọng hoặc một công việc quan trọng, thì
niệm Phật tụng kinh sẽ trở thành thứ yếu (ít quan trọng hơn); Như vậy có thể
thấy rằng sự cung kính, chí thành nầy chưa được chơn thuần, cho nên cần phải
chân thành cung kính một cách chơn chánh, thì niệm Phật tụng kinh mới là việc
lớn thứ nhất của đời người. Ví như có người, trong lúc anh niệm Phật tụng kinh,
bảo anh rằng: “Hiện tại có một việc buôn bán nếu làm gấp thì sẽ thu được lãi là
trăm vạn đồng”, bảo đảm rằng anh sẽ quay đầu đi, không niệm Phật được rồi. Có
thể thấy rằng chúng ta cung kính, chí thành đối với Phật và Bồ Tát mà chịu
không nổi thử thách, khi trải qua thử thách thì mới hiểu được tâm cung kính,
tâm chí thành nầy không chơn thật một chút nào cả.
à Pháp môn niệm Phật, không phải là
phương pháp kỳ diệu gì cả, chỉ cần chúng ta có thể dốc lòng mà niệm, nhất định
sẽ thành công. Thế nào gọi là dốc lòng (hay còn gọi là “tâm chết”), tức là làm
cho chết sạch đi tất cả những cái tâm phiền não, vọng tưởng, chấp trước. Nhất
tâm chuyên niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, trong tâm có Phật, Phật không lìa tâm,
tâm không lìa Phật, nhất tâm bất loạn.
phương pháp kỳ diệu gì cả, chỉ cần chúng ta có thể dốc lòng mà niệm, nhất định
sẽ thành công. Thế nào gọi là dốc lòng (hay còn gọi là “tâm chết”), tức là làm
cho chết sạch đi tất cả những cái tâm phiền não, vọng tưởng, chấp trước. Nhất
tâm chuyên niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, trong tâm có Phật, Phật không lìa tâm,
tâm không lìa Phật, nhất tâm bất loạn.
Tác dụng của trì danh niệm Phật là cần
phải đem tâm ta và tâm Phật họp nhất, đến mức chí thành, yên tĩnh, chân không,
vắng lặng, cùng Phật tâm tâm nhiếp với nhau, tâm ta và tâm Phật trọn vẹn một
thể. Tự nhiên có những cảnh giới bất khả tư nghì. Nếu tâm ta mờ mịt tán loạn,
nguyện đã mất đi sức lực vốn có của bản tâm, làm sao có được những cảnh giới ấy
xuất hiện.
phải đem tâm ta và tâm Phật họp nhất, đến mức chí thành, yên tĩnh, chân không,
vắng lặng, cùng Phật tâm tâm nhiếp với nhau, tâm ta và tâm Phật trọn vẹn một
thể. Tự nhiên có những cảnh giới bất khả tư nghì. Nếu tâm ta mờ mịt tán loạn,
nguyện đã mất đi sức lực vốn có của bản tâm, làm sao có được những cảnh giới ấy
xuất hiện.
Ví dụ như một giọt nước rơi vào trong
đất thì chẳng làm được gì, nếu rời đất mà vào biển thì nước cả biển cùng với
giọt nước nầy hoà thành một thể, lực đó rất lớn bất khả tư nghì.
đất thì chẳng làm được gì, nếu rời đất mà vào biển thì nước cả biển cùng với
giọt nước nầy hoà thành một thể, lực đó rất lớn bất khả tư nghì.
Giọt nước dụ cái tâm, đất dụ cho sáu
căn, sáu trần và sáu thức (6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. 6 trần: sắc, tiếng, mùi, vị, va
chạm, pháp. 6 thức: là sự
cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). Nhiếp giữ các căn, xa rời các
trần, vượt thoát các thức, tức chung thông với tâm Phật, chứng với tâm Phật,
thành là một thể. Sức oai thần đó cũng là bất khả tư nghì.
căn, sáu trần và sáu thức (6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. 6 trần: sắc, tiếng, mùi, vị, va
chạm, pháp. 6 thức: là sự
cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). Nhiếp giữ các căn, xa rời các
trần, vượt thoát các thức, tức chung thông với tâm Phật, chứng với tâm Phật,
thành là một thể. Sức oai thần đó cũng là bất khả tư nghì.
Trì danh niệm Phật tuy dễ dàng, một
phương pháp tu hành nhẹ nhàng thoải mái; Song khó ở chỗ là không có tín tâm,
nguyện tâm, hằng tâm đối với Đức Di Đà, chỉ muốn sinh về thế giới Cực Lạc
phương tây! Niệm Phật kiểu làm theo lệ, có thể qua loa thì qua loa, có thể bày
biện thì bày biện, tùy tiện không chuyên tâm, qua được cho qua, thế thì không
có chút gì ở tại tâm ý.
phương pháp tu hành nhẹ nhàng thoải mái; Song khó ở chỗ là không có tín tâm,
nguyện tâm, hằng tâm đối với Đức Di Đà, chỉ muốn sinh về thế giới Cực Lạc
phương tây! Niệm Phật kiểu làm theo lệ, có thể qua loa thì qua loa, có thể bày
biện thì bày biện, tùy tiện không chuyên tâm, qua được cho qua, thế thì không
có chút gì ở tại tâm ý.
Trì danh niệm Phật, nên cần phải trong
lúc niệm chuyên chú vào một cảnh, không nghĩ tưởng việc khác, tất cả đều buông
bỏ, nên nhất tâm niệm Phật, hễ nghĩ là Phật, tưởng cũng là Phật, đến lúc công
phu thuần thục, rỗng rang tự nhiên rơi rụng câu niệm Phật, chứng nhập vào cảnh
giới “vô niệm” mà không niệm nào chẳng niệm. Công phu đến đây niệm Phật mới là
đạt đến phương pháp, cảm ứng với đạo, thấy được sức công hiệu tốt đẹp.
lúc niệm chuyên chú vào một cảnh, không nghĩ tưởng việc khác, tất cả đều buông
bỏ, nên nhất tâm niệm Phật, hễ nghĩ là Phật, tưởng cũng là Phật, đến lúc công
phu thuần thục, rỗng rang tự nhiên rơi rụng câu niệm Phật, chứng nhập vào cảnh
giới “vô niệm” mà không niệm nào chẳng niệm. Công phu đến đây niệm Phật mới là
đạt đến phương pháp, cảm ứng với đạo, thấy được sức công hiệu tốt đẹp.
NHẤT TÂM NIỆM PHẬT
Nhất tâm niệm Phật, là chỉ có một tâm
niệm Phật, ngoài ra không có niệm tạp vọng tưởng phiền não. Miệng niệm Di Đà mà
tâm không tán loạn, miệng niệm Di Đà tâm tán loạn thì không được lợi ích.
niệm Phật, ngoài ra không có niệm tạp vọng tưởng phiền não. Miệng niệm Di Đà mà
tâm không tán loạn, miệng niệm Di Đà tâm tán loạn thì không được lợi ích.
Niệm cần phải niệm nhất tâm, trong
miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, niệm là Phật, tưởng cũng là Phật, không
kể là có vọng tưởng hay không vọng tưởng, nếu là niệm Phật mà tâm tán loạn,
hoặc tưởng việc khác, thì không phải là nhất tâm niệm Phật.
miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, niệm là Phật, tưởng cũng là Phật, không
kể là có vọng tưởng hay không vọng tưởng, nếu là niệm Phật mà tâm tán loạn,
hoặc tưởng việc khác, thì không phải là nhất tâm niệm Phật.
Niệm Phật không khó mà khó ở chỗ trì
lâu, trì lâu không khó mà khó ở nhất tâm, nhất tâm thế nào? Nhất tâm tức là xả
bỏ tất cả công việc của thế tục, buông tất cả việc đời đi, chẳng nên nghĩ,
chẳng muốn nhớ, không mong lấy, không vọng dùng, mà chỉ có tâm niệm Phật tưởng
Phật.
lâu, trì lâu không khó mà khó ở nhất tâm, nhất tâm thế nào? Nhất tâm tức là xả
bỏ tất cả công việc của thế tục, buông tất cả việc đời đi, chẳng nên nghĩ,
chẳng muốn nhớ, không mong lấy, không vọng dùng, mà chỉ có tâm niệm Phật tưởng
Phật.
Giữ gìn sáu hoặc bốn chữ danh hiệu Đức
A Di Đà, đều cần phải chí thành khẩn thiết, nhất tâm niệm Phật, vọng tưởng tạp
niệm khởi, không nên để ý nó, càng không được lởn vởn theo nó, anh niệm Phật
của anh, ngày ngày dụng công, năm năm dụng công, thời gian lâu rồi niệm Phật
thuần thục, tâm chẳng dong ruổi bên ngoài, vọng tưởng tập khí từ vô thỉ kiếp
đến nay tự nhiên tiêu ma hết. Tối kỵ là tất cả trạng thái bồng bồng bềnh bềnh,
một cái tâm trôi trôi nổi nổi, chẳng dùng một chút sức lực nào cả, kiểu như thế
thì chỉ có một sự rỗng tuếch buông trôi thời gian mà thôi!
A Di Đà, đều cần phải chí thành khẩn thiết, nhất tâm niệm Phật, vọng tưởng tạp
niệm khởi, không nên để ý nó, càng không được lởn vởn theo nó, anh niệm Phật
của anh, ngày ngày dụng công, năm năm dụng công, thời gian lâu rồi niệm Phật
thuần thục, tâm chẳng dong ruổi bên ngoài, vọng tưởng tập khí từ vô thỉ kiếp
đến nay tự nhiên tiêu ma hết. Tối kỵ là tất cả trạng thái bồng bồng bềnh bềnh,
một cái tâm trôi trôi nổi nổi, chẳng dùng một chút sức lực nào cả, kiểu như thế
thì chỉ có một sự rỗng tuếch buông trôi thời gian mà thôi!
Giữ gìn danh hiệu Phật, niệm từ tâm
khởi, tiếng từ miệng phát, âm vào nơi tai, từng chữ từng câu niệm được rõ ràng,
nghe được rõ ràng, nhiếp cả sáu căn, chẳng được niệm kiểu nuốt chửng hàm hồ qua
đi. Nhất tâm niệm Phật, nếu hay chí thành, chẳng chấp thủ ở nơi tướng, tự có
thể nhiếp cả sáu căn, có ngày công phu thuần thục, định – huệ tự nhiên hiện tiền,
ba món độc (tham – sân – si) không khởi, ác nghiệp chẳng tạo ra.
khởi, tiếng từ miệng phát, âm vào nơi tai, từng chữ từng câu niệm được rõ ràng,
nghe được rõ ràng, nhiếp cả sáu căn, chẳng được niệm kiểu nuốt chửng hàm hồ qua
đi. Nhất tâm niệm Phật, nếu hay chí thành, chẳng chấp thủ ở nơi tướng, tự có
thể nhiếp cả sáu căn, có ngày công phu thuần thục, định – huệ tự nhiên hiện tiền,
ba món độc (tham – sân – si) không khởi, ác nghiệp chẳng tạo ra.
Có những người miệng thì niệm Phật,
trong tâm ham muốn suy nghĩ sai quấy loạn tưởng, phép niệm như thế là không có
chỗ tác dụng. Nên cần phải niệm Phật nơi miệng, tưởng Phật nơi tâm, tâm và
miệng họp nhất. Ngoài câu niệm Phật ra, việc gì cũng không tưởng nghĩ, niệm gì
cũng không khởi, mới dễ được nhất tâm bất loạn.
trong tâm ham muốn suy nghĩ sai quấy loạn tưởng, phép niệm như thế là không có
chỗ tác dụng. Nên cần phải niệm Phật nơi miệng, tưởng Phật nơi tâm, tâm và
miệng họp nhất. Ngoài câu niệm Phật ra, việc gì cũng không tưởng nghĩ, niệm gì
cũng không khởi, mới dễ được nhất tâm bất loạn.
Thử nghĩ, miệng niệm Phật, tay lần
chuỗi, mà tâm lại tưởng việc khác, hoặc mắt nhìn ngó đông tây, hoặc nghe âm
thinh nào đó, hoặc có người nào đi qua bên cạnh thì quay đầu mà dòm ngó đánh
tiếng đưa tin, hoặc tâm tình buồn phiền, hoặc công việc bận rộn khó nhọc, vả
lại gấp rút thời gian làm như qua loa niệm số mục cho hết việc, tức khiến cho
mỗi ngày số lượng niệm đến ngàn câu danh hiệu Phật, cũng chẳng được kể là nhất
tâm niệm Phật.
chuỗi, mà tâm lại tưởng việc khác, hoặc mắt nhìn ngó đông tây, hoặc nghe âm
thinh nào đó, hoặc có người nào đi qua bên cạnh thì quay đầu mà dòm ngó đánh
tiếng đưa tin, hoặc tâm tình buồn phiền, hoặc công việc bận rộn khó nhọc, vả
lại gấp rút thời gian làm như qua loa niệm số mục cho hết việc, tức khiến cho
mỗi ngày số lượng niệm đến ngàn câu danh hiệu Phật, cũng chẳng được kể là nhất
tâm niệm Phật.
Niệm Phật không nên mong cầu công hiệu
tâm mới có thể thanh tịnh, nên làm đến chỗ “vô sở cầu”. Người tu hành niệm
Phật, tuy hàng ngày bề bộn công việc, dù công việc bề bộn mà tâm không bề bộn,
giữ gìn tâm thanh tịnh.
tâm mới có thể thanh tịnh, nên làm đến chỗ “vô sở cầu”. Người tu hành niệm
Phật, tuy hàng ngày bề bộn công việc, dù công việc bề bộn mà tâm không bề bộn,
giữ gìn tâm thanh tịnh.
Học Phật tu hành, điều cần yếu trước
nhất là tâm sạch và ít ham muốn, mới hay đạm bạc với việc đời, không mang không
vát, không buồn, không suy nghĩ, mới có thể chuyên chí nhất tâm niệm Phật. Nếu
đa dục (ham muốn nhiều) thì bị sự trói buộc của tham sân si, bị lao vào sự lao
nhọc lọc lừa mưu mẹo của việc đời, tâm tình rối loạn niệm Phật làm sao được
nhất tâm?
nhất là tâm sạch và ít ham muốn, mới hay đạm bạc với việc đời, không mang không
vát, không buồn, không suy nghĩ, mới có thể chuyên chí nhất tâm niệm Phật. Nếu
đa dục (ham muốn nhiều) thì bị sự trói buộc của tham sân si, bị lao vào sự lao
nhọc lọc lừa mưu mẹo của việc đời, tâm tình rối loạn niệm Phật làm sao được
nhất tâm?
Niệm Phật cần phải niệm toàn cả phương
vị, cũng tức là nói: tâm, hành vi và miệng của người niệm Phật cần phải kết họp
thành một thể, mở miệng niệm Phật, trong tâm nên cần phải tưởng nhớ Phật và
hành vi cũng không nên trái với lời dạy răn của Phật. Thân, miệng và tâm họp
nhất là cương lĩnh chính yếu của niệm Phật giải thoát. Nếu như danh hiệu Phật
mà ta niệm chỉ dính ngoài cửa miệng và không cùng tâm, thân kết họp với nhau
làm sao có thể đạt được sự lợi ích của niệm Phật.
vị, cũng tức là nói: tâm, hành vi và miệng của người niệm Phật cần phải kết họp
thành một thể, mở miệng niệm Phật, trong tâm nên cần phải tưởng nhớ Phật và
hành vi cũng không nên trái với lời dạy răn của Phật. Thân, miệng và tâm họp
nhất là cương lĩnh chính yếu của niệm Phật giải thoát. Nếu như danh hiệu Phật
mà ta niệm chỉ dính ngoài cửa miệng và không cùng tâm, thân kết họp với nhau
làm sao có thể đạt được sự lợi ích của niệm Phật.
Chánh tín niệm Phật là không nên chấp
trước phải niệm như thế nào, nghĩ tưởng đến thì niệm, quên niệm cũng bất tất
phải vấn vương nơi ý, có những lúc bệnh hoạn hoặc đau khổ, có thể niệm thì lập
tức niệm.
trước phải niệm như thế nào, nghĩ tưởng đến thì niệm, quên niệm cũng bất tất
phải vấn vương nơi ý, có những lúc bệnh hoạn hoặc đau khổ, có thể niệm thì lập
tức niệm.
NIỆM PHẬT NHIỀU
Niệm Phật nhiều không phải là số lượng
cho nhiều, mà là hằng ngày niệm Phật, tùy thời gian, tùy nơi chỗ, đi đứng ngồi
nằm, lúc động lúc tịnh rảnh rang hay bận rộn, công việc không dụng tâm mà đều
là A Di Đà Phật. Có thể niệm Phật số mục nhiều lại có thể tinh thuần “nhất
tâm”, thế thì càng tốt.
cho nhiều, mà là hằng ngày niệm Phật, tùy thời gian, tùy nơi chỗ, đi đứng ngồi
nằm, lúc động lúc tịnh rảnh rang hay bận rộn, công việc không dụng tâm mà đều
là A Di Đà Phật. Có thể niệm Phật số mục nhiều lại có thể tinh thuần “nhất
tâm”, thế thì càng tốt.
Niệm Phật nên phải niệm nhiều mới có
thể nuôi thành thói quen niệm Phật, thói quen trở thành tự nhiên, bình thường
mới có thể khởi niệm niệm Phật tùy thời tùy chỗ. Niệm Phật không có thói quen,
chỉ định thời gian công khóa mới khởi được tưởng niệm Phật, lúc bình thường sẽ
khởi không được tưởng niệm Phật. Nếu ngẫu nhiên khởi được tưởng niệm Phật, thì
niệm cũng không được bao nhiêu tiếng rồi dứt mất. Cho nên niệm Phật cần phải
niệm nhiều để tập thành thói quen niệm Phật.
thể nuôi thành thói quen niệm Phật, thói quen trở thành tự nhiên, bình thường
mới có thể khởi niệm niệm Phật tùy thời tùy chỗ. Niệm Phật không có thói quen,
chỉ định thời gian công khóa mới khởi được tưởng niệm Phật, lúc bình thường sẽ
khởi không được tưởng niệm Phật. Nếu ngẫu nhiên khởi được tưởng niệm Phật, thì
niệm cũng không được bao nhiêu tiếng rồi dứt mất. Cho nên niệm Phật cần phải
niệm nhiều để tập thành thói quen niệm Phật.
Muốn tập thành thói quen niệm Phật,
không phải là một sớm một chiều thì có thể được, mà phải là năm dài tháng rộng
nuôi dưỡng mà thành, thói quen thành thục một cách tự nhiên càng phải cần đến
công phu sâu dày.
không phải là một sớm một chiều thì có thể được, mà phải là năm dài tháng rộng
nuôi dưỡng mà thành, thói quen thành thục một cách tự nhiên càng phải cần đến
công phu sâu dày.
Vì sao cần niệm Phật nhiều? Đó là vì
tăng thêm lớn lực niệm Phật, khiến cho nghiệp lực giảm lại ít đi, lực niệm Phật
càng lớn thì lực của nghiệp càng nhỏ. Lực niệm Phật lớn, đến lúc “nhất tâm bất
loạn” thì được “Niệm Phật tam muội”. Lực của nghiệp nhỏ, nhỏ đến khi vọng tưởng
tạp niệm không khởi, phiền não sẽ dứt. Lực niệm Phật lớn thì lúc mạng chung
biết trước thời gian, chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo mà niệm Phật
vãng sanh. Còn lực của nghiệp mà lớn hơn lực niệm Phật, thì lúc mạng chung nghiệp
lực hiện tiền, nghiệp của ngày trước chiêu cảm khiến tâm sinh sợ sệt, tâm chẳng
điên đảo trở thành điên đảo, tâm một khi điên đảo thì bị nghiệp lực dẫn chạy,
chuyển nhập luân hồi.
tăng thêm lớn lực niệm Phật, khiến cho nghiệp lực giảm lại ít đi, lực niệm Phật
càng lớn thì lực của nghiệp càng nhỏ. Lực niệm Phật lớn, đến lúc “nhất tâm bất
loạn” thì được “Niệm Phật tam muội”. Lực của nghiệp nhỏ, nhỏ đến khi vọng tưởng
tạp niệm không khởi, phiền não sẽ dứt. Lực niệm Phật lớn thì lúc mạng chung
biết trước thời gian, chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo mà niệm Phật
vãng sanh. Còn lực của nghiệp mà lớn hơn lực niệm Phật, thì lúc mạng chung nghiệp
lực hiện tiền, nghiệp của ngày trước chiêu cảm khiến tâm sinh sợ sệt, tâm chẳng
điên đảo trở thành điên đảo, tâm một khi điên đảo thì bị nghiệp lực dẫn chạy,
chuyển nhập luân hồi.
Người đời do tập khí vô minh phiền não,
không phải đời nầy mới có, mà đời đời kiếp kiếp đã có rồi, vả lại từ nhỏ đã
nuôi dưỡng thêm lớn, hằng ngày đều tưởng đến, hằng giờ đều dùng đến, thì bảo
làm sao nó không phát sinh nghiệp lực rất lớn? Cũng như vậy, chúng ta nên niệm
Phật cho thành một sức mạnh, trực tiếp lôi kéo khắc phục những vô minh tập khí,
phiền não, vọng tưởng. Cũng tương tự, nên hằng ngày niệm Phật, hằng giờ niệm
Phật, trong cuộc sống thường ngày tùy thời, tùy chỗ mà tưởng mà niệm. Niệm lâu
rồi thì sự niệm Phật mới phát sinh ra “lực niệm Phật”, niệm Phật càng nhiều thì
lực niệm Phật càng lớn, nghiệp lực sẽ theo đó mà bị diệt nhỏ đi hoặc tiêu mất,
lúc mạng chung vãng sinh mới không có chướng ngại, mới có sự nắm chắc!
không phải đời nầy mới có, mà đời đời kiếp kiếp đã có rồi, vả lại từ nhỏ đã
nuôi dưỡng thêm lớn, hằng ngày đều tưởng đến, hằng giờ đều dùng đến, thì bảo
làm sao nó không phát sinh nghiệp lực rất lớn? Cũng như vậy, chúng ta nên niệm
Phật cho thành một sức mạnh, trực tiếp lôi kéo khắc phục những vô minh tập khí,
phiền não, vọng tưởng. Cũng tương tự, nên hằng ngày niệm Phật, hằng giờ niệm
Phật, trong cuộc sống thường ngày tùy thời, tùy chỗ mà tưởng mà niệm. Niệm lâu
rồi thì sự niệm Phật mới phát sinh ra “lực niệm Phật”, niệm Phật càng nhiều thì
lực niệm Phật càng lớn, nghiệp lực sẽ theo đó mà bị diệt nhỏ đi hoặc tiêu mất,
lúc mạng chung vãng sinh mới không có chướng ngại, mới có sự nắm chắc!
Chúng tại gia đã bận rộn công việc nhà
lại càng bề bộn công việc xã hội, thực là rất bộn rộn, vậy thì cái nhân chính
là bận rộn! Vì việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây, dù bận rộn cũng
nên lợi dụng thời gian để niệm Phật; không như vậy thì không có lực niệm Phật,
trong tâm không có Phật, lúc mạng chung làm sao có thể chánh niệm hiện tiền,
tâm không điên đảo để mà niệm Phật vãng sanh!
lại càng bề bộn công việc xã hội, thực là rất bộn rộn, vậy thì cái nhân chính
là bận rộn! Vì việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây, dù bận rộn cũng
nên lợi dụng thời gian để niệm Phật; không như vậy thì không có lực niệm Phật,
trong tâm không có Phật, lúc mạng chung làm sao có thể chánh niệm hiện tiền,
tâm không điên đảo để mà niệm Phật vãng sanh!
TRONG TÂM CÓ PHẬT
Trong tâm có Phật, là tùy thời tùy chỗ
khởi tưởng niệm Phật, đi, đứng, ngồi, nằm, lúc động, tịnh, nhàn nhã, bận rộn,
công việc không dụng tâm mà đều có A Di Đà Phật, lúc miệng không niệm mà tâm
vẫn ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự niệm, không niệm mà không phải chẳng niệm,
Phật không rời tâm, tâm không rời Phật, mới có thể được “nhất tâm bất loạn”,
tâm ta với tâm Phật thông nhau, tâm và Phật ở cảnh giới “nhất như”, được niệm
Phật tam muội.
khởi tưởng niệm Phật, đi, đứng, ngồi, nằm, lúc động, tịnh, nhàn nhã, bận rộn,
công việc không dụng tâm mà đều có A Di Đà Phật, lúc miệng không niệm mà tâm
vẫn ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự niệm, không niệm mà không phải chẳng niệm,
Phật không rời tâm, tâm không rời Phật, mới có thể được “nhất tâm bất loạn”,
tâm ta với tâm Phật thông nhau, tâm và Phật ở cảnh giới “nhất như”, được niệm
Phật tam muội.
à Trong miệng niệm Phật không ổn định,
trong tâm nghĩ bậy tưởng loạn, phép niệm như thế thì đều không có chỗ tác dụng.
Nên cần phải trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, tâm – miệng như nhất.
Ngoài một câu danh hiệu Phật ra, việc nào cũng không nên nghĩ tưởng đến, niệm
nào cũng không nên khởi, đây tức gọi là nhất tâm bất loạn, nhiên hậu mới dễ
dàng thành công.
trong tâm nghĩ bậy tưởng loạn, phép niệm như thế thì đều không có chỗ tác dụng.
Nên cần phải trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, tâm – miệng như nhất.
Ngoài một câu danh hiệu Phật ra, việc nào cũng không nên nghĩ tưởng đến, niệm
nào cũng không nên khởi, đây tức gọi là nhất tâm bất loạn, nhiên hậu mới dễ
dàng thành công.
Nhất tâm bất loạn, mà nếu như xen lộn
niệm khác, thẳng đến chuyên niệm mà không đạt được, chuyên niệm mà hãy còn
chẳng thành, thì nhất tâm bất loạn càng khó làm được.
niệm khác, thẳng đến chuyên niệm mà không đạt được, chuyên niệm mà hãy còn
chẳng thành, thì nhất tâm bất loạn càng khó làm được.
Niệm Phật khi công phu thuần thục nhất
định có cảm ứng bất khả tư nghì. Người ở thế gian phước báo lớn không phải là
giàu có tiền bạc hay sống lâu, mà phước báo chân chánh là lúc lâm chung không
có bệnh, tinh thần sáng suốt, biết được đi đến đâu, đây mới là phước chân
chánh.
định có cảm ứng bất khả tư nghì. Người ở thế gian phước báo lớn không phải là
giàu có tiền bạc hay sống lâu, mà phước báo chân chánh là lúc lâm chung không
có bệnh, tinh thần sáng suốt, biết được đi đến đâu, đây mới là phước chân
chánh.
Trong cuộc sống hằng ngày tùy duyên mà
qua ngày, mang mọi cái phân biệt, chấp trước, buồn lo… buông bỏ cả đi, được
đại tự tại, đó mới là hạnh phúc chân chính.
qua ngày, mang mọi cái phân biệt, chấp trước, buồn lo… buông bỏ cả đi, được
đại tự tại, đó mới là hạnh phúc chân chính.
Như gặp tai nạn lớn, nên niệm: Nam Mô A
Di Đà Phật tiếp dẫn con… vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Niệm ngày đêm không
dừng, đến lúc vãng sinh.
Di Đà Phật tiếp dẫn con… vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Niệm ngày đêm không
dừng, đến lúc vãng sinh.
Niệm Phật, nếu như không thể nghiêm trì
giới luật, dừng dứt tham sân, hàng phục vọng niệm, đánh phá chấp trước, mà muốn
cầu nhất tâm bất loạn thì ắt sẽ vời vợi xa xăm.
giới luật, dừng dứt tham sân, hàng phục vọng niệm, đánh phá chấp trước, mà muốn
cầu nhất tâm bất loạn thì ắt sẽ vời vợi xa xăm.
Gọi là “nhất tâm bất loạn” tức là chỉ
có một tâm niệm Phật, không có tạp niệm của phiền não vọng tưởng.
có một tâm niệm Phật, không có tạp niệm của phiền não vọng tưởng.
Nếu trong tâm không có Phật, không
những lúc bình thường mất niệm (không khởi được tưởng niệm), nếu là ngẫu nhiên
khởi được tưởng niệm, niệm cũng không được mấy câu thì dứt quãng rồi, có lúc
ngay cả thời khóa sáng chiều cũng không biết niệm.
những lúc bình thường mất niệm (không khởi được tưởng niệm), nếu là ngẫu nhiên
khởi được tưởng niệm, niệm cũng không được mấy câu thì dứt quãng rồi, có lúc
ngay cả thời khóa sáng chiều cũng không biết niệm.
Lúc niệm Phật, người khác gọi anh, anh
đều không biết, như thế mới có “định lực”, có công phu. Lúc niệm Phật mà có gió
thổi cỏ động anh đều biết cả, như thế là không có định lực, nên cần phải quyết
tâm công phu thêm nữa.
đều không biết, như thế mới có “định lực”, có công phu. Lúc niệm Phật mà có gió
thổi cỏ động anh đều biết cả, như thế là không có định lực, nên cần phải quyết
tâm công phu thêm nữa.
Đương nhiên chẳng phải là ngay khi bắt
đầu niệm thì đạt được cảnh giới “trong tâm có Phật”. Anh (chị) không ngại thì
từ ngày nay bắt đầu, cố gắng công phu không dứt, như vậy thời gian lâu, anh
(chị) nhất định trong tâm có Phật. Nên biết thành công tất cả đều là bắt đầu từ
hiện tại.
đầu niệm thì đạt được cảnh giới “trong tâm có Phật”. Anh (chị) không ngại thì
từ ngày nay bắt đầu, cố gắng công phu không dứt, như vậy thời gian lâu, anh
(chị) nhất định trong tâm có Phật. Nên biết thành công tất cả đều là bắt đầu từ
hiện tại.
Người sơ cơ học Phật niệm Phật, cố
nhiên là chẳng dễ niệm Phật nhiều, càng chẳng thể bàn luận trong tâm có Phật.
Song có thể chuyên tâm nhất ý niệm hằng ngày, niệm hằng giờ, lâu ngày công phu
sâu dày, tự nhiên sẽ có thể niệm Phật nhiều, trong tâm có Phật. Không nên chỉ
vì công việc thế tục bận rộn mà không chịu dụng công niệm Phật, không niệm thì
trong tâm làm sao có Phật?
nhiên là chẳng dễ niệm Phật nhiều, càng chẳng thể bàn luận trong tâm có Phật.
Song có thể chuyên tâm nhất ý niệm hằng ngày, niệm hằng giờ, lâu ngày công phu
sâu dày, tự nhiên sẽ có thể niệm Phật nhiều, trong tâm có Phật. Không nên chỉ
vì công việc thế tục bận rộn mà không chịu dụng công niệm Phật, không niệm thì
trong tâm làm sao có Phật?
Tối kỵ là ngay lúc có thời gian mà chỉ
biết ăn uống chơi vui, nói khoét, xem ti vi… bỏ câu A Di Đà Phật sang bên một
cách thoải mái, thế thì trong tâm làm sao có Phật!
biết ăn uống chơi vui, nói khoét, xem ti vi… bỏ câu A Di Đà Phật sang bên một
cách thoải mái, thế thì trong tâm làm sao có Phật!
Trong tâm anh không có Phật, thì
cần trong tâm Phật có anh không? Lúc anh mạng chung cần Phật đến tiếp dẫn anh
không? Phải biết rằng cầu sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây là tự anh cần
đến thôi, chứ không phải là đức A Di Đà cần anh đến đâu nhé!
cần trong tâm Phật có anh không? Lúc anh mạng chung cần Phật đến tiếp dẫn anh
không? Phải biết rằng cầu sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây là tự anh cần
đến thôi, chứ không phải là đức A Di Đà cần anh đến đâu nhé!
Thử nghĩ, có một người ở nơi xa muốn
kết bạn cùng anh mà chỉ cho anh danh thiếp, mỗi lần thấy mặt cũng chỉ một
thoáng, đánh tiếng thăm hỏi, ngay cả nói cũng không được lấy một câu, giao
thiệp càng ít ỏi, người đó muốn đến chỗ anh ở, cần anh đi đón tiếp, anh đi đón
tiếp không? Như vậy đem lòng mình so ra thì biết.
kết bạn cùng anh mà chỉ cho anh danh thiếp, mỗi lần thấy mặt cũng chỉ một
thoáng, đánh tiếng thăm hỏi, ngay cả nói cũng không được lấy một câu, giao
thiệp càng ít ỏi, người đó muốn đến chỗ anh ở, cần anh đi đón tiếp, anh đi đón
tiếp không? Như vậy đem lòng mình so ra thì biết.
Chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật đơn
giản dễ làm. Chuyên là chuyên nhất, chuyên tâm. Trì là giữ gìn không để mất nó
đi. Danh hiệu là sáu hoặc bốn chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Chúng ta một ngày đến
tối, không được rời xa câu Phật hiệu nầy, niệm to tiếng, nhỏ tiếng hay mặc niệm
(niệm thầm) đều được. Không nên gián đoạn, lộn xộn, hoài nghi; nên phải chân
thành, khẩn thiết, cung kính, chơn chánh phát nguyện vãng sinh về thế giới Cực
Lạc, vãng sinh về thế giới Cực Lạc là cơ sở nắm chắc.
giản dễ làm. Chuyên là chuyên nhất, chuyên tâm. Trì là giữ gìn không để mất nó
đi. Danh hiệu là sáu hoặc bốn chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Chúng ta một ngày đến
tối, không được rời xa câu Phật hiệu nầy, niệm to tiếng, nhỏ tiếng hay mặc niệm
(niệm thầm) đều được. Không nên gián đoạn, lộn xộn, hoài nghi; nên phải chân
thành, khẩn thiết, cung kính, chơn chánh phát nguyện vãng sinh về thế giới Cực
Lạc, vãng sinh về thế giới Cực Lạc là cơ sở nắm chắc.
Vãng sinh về thế giới Cực Lạc có 2 vấn
đề cần thiết không thể không biết: 1- Chánh niệm hiện tiền. 2 – Tâm không điên
đảo.
đề cần thiết không thể không biết: 1- Chánh niệm hiện tiền. 2 – Tâm không điên
đảo.
Chánh niệm hiện tiền: Là khi mạng
chung, nghĩ niệm là Phật mà tưởng cũng là Phật, lúc cuối cùng của hơi thở còn ở
tại nơi câu niệm Phật, niệm Phật vãng sanh.
chung, nghĩ niệm là Phật mà tưởng cũng là Phật, lúc cuối cùng của hơi thở còn ở
tại nơi câu niệm Phật, niệm Phật vãng sanh.
Tâm không điên đảo: Là khi mạng
chung chỉ có tâm niệm Phật tưởng Phật thôi, không nhớ tưởng đến tất cả công
việc của thế tục. Ngày thường tu hành tinh tấn, niệm Phật niệm đến nhất tâm bất
loạn rồi, lúc mạng chung nếu có mảy may tưởng niệm việc thế tục tâm sẽ điên
đảo, một khi tâm điên đảo thì chẳng được vãng sanh!
chung chỉ có tâm niệm Phật tưởng Phật thôi, không nhớ tưởng đến tất cả công
việc của thế tục. Ngày thường tu hành tinh tấn, niệm Phật niệm đến nhất tâm bất
loạn rồi, lúc mạng chung nếu có mảy may tưởng niệm việc thế tục tâm sẽ điên
đảo, một khi tâm điên đảo thì chẳng được vãng sanh!
Lúc bình thường không cố công niệm Phật,
mà từ trong tâm tham ái dính mắc gốc rễ sinh tử như: Giàu có, sự nghiệp, danh
tiếng, người thân, ăn uống, chơi bời, không như ý thì giận dữ oán hận… lúc
mạng chung làm sao mà không nghĩ đến chúng? Ngay lúc nghĩ nó, tâm sẽ diên đảo,
cộng thêm nghiệp đời trước chiêu cảm, tâm hoang mang, ý hoảng loạn, bệnh khổ
rất nhiều, tà niệm hiện tiền, tâm không điên đảo cũng thành điên đảo!
mà từ trong tâm tham ái dính mắc gốc rễ sinh tử như: Giàu có, sự nghiệp, danh
tiếng, người thân, ăn uống, chơi bời, không như ý thì giận dữ oán hận… lúc
mạng chung làm sao mà không nghĩ đến chúng? Ngay lúc nghĩ nó, tâm sẽ diên đảo,
cộng thêm nghiệp đời trước chiêu cảm, tâm hoang mang, ý hoảng loạn, bệnh khổ
rất nhiều, tà niệm hiện tiền, tâm không điên đảo cũng thành điên đảo!
Trong tâm phàm phu của chúng ta vọng
tưởng tạp niệm rất là nhiều, niệm nầy vừa đi thì niệm khác lại đến. Niệm Phật
tức là cần gom trói cái tâm vọng tưởng tạp niệm nầy, niệm danh hiệu Phật nhiều
một chút thì niệm tạp loạn vọng tưởng ít đi một chút, hằng giờ dụng công, công
phu sâu dày thì có thể thu gom tất cả các niệm tạp niệm vọng tưởng nầy trên
danh hiệu Phật, tất cả các niệm tạp loạn vọng tưởng đều không có, đó là nhất
tâm bất loạn rồi.
tưởng tạp niệm rất là nhiều, niệm nầy vừa đi thì niệm khác lại đến. Niệm Phật
tức là cần gom trói cái tâm vọng tưởng tạp niệm nầy, niệm danh hiệu Phật nhiều
một chút thì niệm tạp loạn vọng tưởng ít đi một chút, hằng giờ dụng công, công
phu sâu dày thì có thể thu gom tất cả các niệm tạp niệm vọng tưởng nầy trên
danh hiệu Phật, tất cả các niệm tạp loạn vọng tưởng đều không có, đó là nhất
tâm bất loạn rồi.
Chánh niệm hiện tiền: Khi con người đến
lúc mạng sống gần như sắp đứt hơi thở, dứt khoát trong tâm rõ ràng biết được
muốn đến chỗ nào, trong tâm an tịnh chỉ có vấn đề niệm Phật tưởng Phật, không
được có niệm khác xuất hiện.
lúc mạng sống gần như sắp đứt hơi thở, dứt khoát trong tâm rõ ràng biết được
muốn đến chỗ nào, trong tâm an tịnh chỉ có vấn đề niệm Phật tưởng Phật, không
được có niệm khác xuất hiện.
Tà niệm hiện tiền: Người tu hành bình
thường không cố công niệm Phật, chỉ giải đãi (biếng nhác), bày biện, lơ là, đến
lúc mạng chung tâm nầy sẽ chắc chắn hôn mê tán loạn, điên điên đảo đảo, một
chút cũng đoán không được!
thường không cố công niệm Phật, chỉ giải đãi (biếng nhác), bày biện, lơ là, đến
lúc mạng chung tâm nầy sẽ chắc chắn hôn mê tán loạn, điên điên đảo đảo, một
chút cũng đoán không được!
Niệm Phật phải sinh chánh tín, mới có
thể dụng công tốt đẹp, tùy thời tùy chỗ niệm Phật. Nếu sinh “bất chánh tín” thì
niệm Phật thành ra cầu tài, cầu bình yên… có lúc niệm lúc không.
thể dụng công tốt đẹp, tùy thời tùy chỗ niệm Phật. Nếu sinh “bất chánh tín” thì
niệm Phật thành ra cầu tài, cầu bình yên… có lúc niệm lúc không.
Tâm của người niệm Phật nếu không phải
là tâm thanh tịnh mà là tâm niệm Phật. Tức là tâm phiền não, tâm vọng tưởng,
tham ái dính mắc việc thế tục, trong tâm thường nghĩ đến nó, cả ngày nhớ mãi
không quên, lúc mạng chung làm sao không nghĩ tới nó! Như vậy làm sao có thể
chánh niệm hiện tiền, niệm Phật vãng sinh! Vậy nên cần phải buông bỏ việc thế
tục. Có nó hay không, không nên nghĩ đến nó, càng không được để nó trong tâm để
mà nghĩ tưởng.
là tâm thanh tịnh mà là tâm niệm Phật. Tức là tâm phiền não, tâm vọng tưởng,
tham ái dính mắc việc thế tục, trong tâm thường nghĩ đến nó, cả ngày nhớ mãi
không quên, lúc mạng chung làm sao không nghĩ tới nó! Như vậy làm sao có thể
chánh niệm hiện tiền, niệm Phật vãng sinh! Vậy nên cần phải buông bỏ việc thế
tục. Có nó hay không, không nên nghĩ đến nó, càng không được để nó trong tâm để
mà nghĩ tưởng.
Không luận ở nơi hoàn cảnh nào, lại nữa
bận rộn cũng được, khi công việc cần suy nghĩ nghiên cứu mà buông câu Phật
hiệu, công việc xong rồi lập tức khởi ngay Phật hiệu. Giả như trong việc không
nhu cầu vấn đề suy nghĩ nghiên cứu có thể một mặt làm việc, một mặt niệm Phật,
lúc gặp cảnh thuận hay nghịch đều không quên niệm Phật, làm được thế nầy, việc
vãng sinh có hy vọng.
bận rộn cũng được, khi công việc cần suy nghĩ nghiên cứu mà buông câu Phật
hiệu, công việc xong rồi lập tức khởi ngay Phật hiệu. Giả như trong việc không
nhu cầu vấn đề suy nghĩ nghiên cứu có thể một mặt làm việc, một mặt niệm Phật,
lúc gặp cảnh thuận hay nghịch đều không quên niệm Phật, làm được thế nầy, việc
vãng sinh có hy vọng.
Tâm niệm Phật chơn hay không chơn, chỉ
nên xét nghiệm ở trong phiền não vui ưa, hay ghét bỏ. Ví dụ người niệm Phật có
chơn tâm, ở trong phiền não ưa ghét, tất nhiên niệm Phật mỗi niệm mỗi niệm
không gián đoạn; còn nếu như một vài vui giận đến trước, mà A Di Đà Phật vứt bỏ
ở sau, như thế làm sao có thể được sự linh nghiệm của niệm Phật!
nên xét nghiệm ở trong phiền não vui ưa, hay ghét bỏ. Ví dụ người niệm Phật có
chơn tâm, ở trong phiền não ưa ghét, tất nhiên niệm Phật mỗi niệm mỗi niệm
không gián đoạn; còn nếu như một vài vui giận đến trước, mà A Di Đà Phật vứt bỏ
ở sau, như thế làm sao có thể được sự linh nghiệm của niệm Phật!
Cổ đức nói rằng: “Học Phật không khó mà
khó ở sự phát tâm, phát tâm không khó má khó ở sự dõng mãnh, dõng mãnh không
khó mà khó ở sự giữ gìn lâu xa”. Lại nói: không luận là nghề nghiệp công việc
gì, lúc bắt đầu chưa có chi không chịu cố gắng siêng năng, dẫn đến lâu ngày
tình thế dời đổi, tâm mỏi mệt sanh, hoặc được ít cho là đủ, hoặc sợ khó mà sống
cầu an, phép đời như thế, học Phật cũng vậy.
khó ở sự phát tâm, phát tâm không khó má khó ở sự dõng mãnh, dõng mãnh không
khó mà khó ở sự giữ gìn lâu xa”. Lại nói: không luận là nghề nghiệp công việc
gì, lúc bắt đầu chưa có chi không chịu cố gắng siêng năng, dẫn đến lâu ngày
tình thế dời đổi, tâm mỏi mệt sanh, hoặc được ít cho là đủ, hoặc sợ khó mà sống
cầu an, phép đời như thế, học Phật cũng vậy.
SỰ TỐI KỴ TRONG NIỆM PHẬT
Sự tối kỵ trong niệm Phật: “Tinh thần
phân tán, câu chữ mơ hồ, đã không âm tiết lại không liền lạc, tâm chẳng ứng với
miệng, tiếng chẳng nhiếp với niệm, khinh lờn thành quen”.
phân tán, câu chữ mơ hồ, đã không âm tiết lại không liền lạc, tâm chẳng ứng với
miệng, tiếng chẳng nhiếp với niệm, khinh lờn thành quen”.
Người niệm Phật chủ yếu dễ phát sinh
sai lệch, thì cần ngăn chặng.
sai lệch, thì cần ngăn chặng.
Tinh thần phân tán: Lúc niệm Phật
tư tưởng không tập trung, đưa tinh thần lên không được. Tâm tình rơi rớt, ý chí
thì chìm mất, không tinh ròng khơi dậy, tạp niệm thì vô cùng, chẳng hôn trầm
cũng trạo cử, đây là vấn đề tối kỵ. Còn vấn đề kiêng kỵ là câu chữ mơ hồ.
tư tưởng không tập trung, đưa tinh thần lên không được. Tâm tình rơi rớt, ý chí
thì chìm mất, không tinh ròng khơi dậy, tạp niệm thì vô cùng, chẳng hôn trầm
cũng trạo cử, đây là vấn đề tối kỵ. Còn vấn đề kiêng kỵ là câu chữ mơ hồ.
Câu chữ mơ hồ: Một câu hiệu Phật
nầy, thanh âm phát ra thì lờ lờ mờ mờ, người khác nghe không rõ ngay cả chính
mình nghe cũng không rõ. Cho nên có câu rằng: “Mình còn chưa nghe thì Phật làm
sao nghe”.
nầy, thanh âm phát ra thì lờ lờ mờ mờ, người khác nghe không rõ ngay cả chính
mình nghe cũng không rõ. Cho nên có câu rằng: “Mình còn chưa nghe thì Phật làm
sao nghe”.
Đã không âm tiết: Âm tiết điều
hòa thích ứng thì niệm Phật dễ nhiếp tâm, phương pháp hữu ích thì lực mới to
lớn; Ngược lại, sáu chữ trong một câu Phật hiệu, bất kể nhịp gõ chữ nào, lúc
thì một nhịp, nửa nhịp, một phần tư nhịp, một phần tám nhịp, thế thì làm cho
mỗi câu hiệu Phật bị biến đổi, niệm loạn thành một mảng, còn bàn luận nhiếp tâm
thế nào. Không những thời gian từng chữ sắp đặt được tốt, mà sự cao thấp nhẹ
nặng của thanh âm cũng phải hợp với tiết tấu. Bỡi vì niệm Phật có tiết tấu thì
giống nước chảy róc rách, tự nhiên hợp vận, niệm Phật dễ dàng rõ ràng. Không âm
tiết đã chẳng tốt, cọng thêm lại chẳng liên quan thì càng sai.
hòa thích ứng thì niệm Phật dễ nhiếp tâm, phương pháp hữu ích thì lực mới to
lớn; Ngược lại, sáu chữ trong một câu Phật hiệu, bất kể nhịp gõ chữ nào, lúc
thì một nhịp, nửa nhịp, một phần tư nhịp, một phần tám nhịp, thế thì làm cho
mỗi câu hiệu Phật bị biến đổi, niệm loạn thành một mảng, còn bàn luận nhiếp tâm
thế nào. Không những thời gian từng chữ sắp đặt được tốt, mà sự cao thấp nhẹ
nặng của thanh âm cũng phải hợp với tiết tấu. Bỡi vì niệm Phật có tiết tấu thì
giống nước chảy róc rách, tự nhiên hợp vận, niệm Phật dễ dàng rõ ràng. Không âm
tiết đã chẳng tốt, cọng thêm lại chẳng liên quan thì càng sai.
Lại chẳng liền lạc: Là câu sau
không tiếp câu trước. “Tịnh niệm tương tục” rất là trọng yếu của sự niệm Phật,
mà nếu không liên quan làm sao kế tục với nhau.
không tiếp câu trước. “Tịnh niệm tương tục” rất là trọng yếu của sự niệm Phật,
mà nếu không liên quan làm sao kế tục với nhau.
Tâm chẳng ứng với niệm Phật: Là
trong miệng thì niệm Nam Mô A Di Đà Phật, mà ở trong tâm tính toán riêng một
việc ở bên ngoài như: mua chiếc xe mới, hoặc muốn đến chỗ nào, vì tính toán
những việc đó thì tâm và miệng làm sao có thể ứng với nhau. Đến nỗi ngoài ra có
một tình huống là: ngay lúc niệm Phật, tạp niệm lăng xăng không biết tạp niệm
nhiều thế nầy từ đâu đến, đây khởi kia mất, không cách nào trừ bỏ. Tuy vậy
chẳng nên buồn lo, vì đây là hiện tượng tất nhiên trong quá trình niệm Phật,
chẳng nên quan tâm nó (mặc cho vọng niệm lăng xăng, hãy nghe chính mình và niệm
Phật rõ ràng), đây là yếu quyết. Then chốt vẫn là khởi lên một câu hiệu Phật
nầy.
trong miệng thì niệm Nam Mô A Di Đà Phật, mà ở trong tâm tính toán riêng một
việc ở bên ngoài như: mua chiếc xe mới, hoặc muốn đến chỗ nào, vì tính toán
những việc đó thì tâm và miệng làm sao có thể ứng với nhau. Đến nỗi ngoài ra có
một tình huống là: ngay lúc niệm Phật, tạp niệm lăng xăng không biết tạp niệm
nhiều thế nầy từ đâu đến, đây khởi kia mất, không cách nào trừ bỏ. Tuy vậy
chẳng nên buồn lo, vì đây là hiện tượng tất nhiên trong quá trình niệm Phật,
chẳng nên quan tâm nó (mặc cho vọng niệm lăng xăng, hãy nghe chính mình và niệm
Phật rõ ràng), đây là yếu quyết. Then chốt vẫn là khởi lên một câu hiệu Phật
nầy.
Tiếng không nhiếp niệm: Tiếng –
chỉ cho lúc niệm Phật, tiếng niệm Phật trong miệng phát ra, âm thinh nầy có tác
dụng rất lớn, then chốt của pháp môn tịnh độ, cũng có thể nói là “Mật quyết”,
tức ở nơi tự niệm tự nghe. Cái được niệm là Nam Mô A Di Đà Phật, cái được nghe
cũng là: Nam Mô A Di Đà Phật. Cho nên đều nhiếp sáu căn, trước tiên thì thiệt
căn (lưỡi) và nhĩ căn (tai) đều nhiếp. Lúc nầy niệm là danh hiệu Phật, mà nghe
cũng là danh hiệu Phật, tưởng cũng là danh hiệu Phật, nên ý căn (ý) cũng được
nhiếp, tay giữ chuỗi niệm (thân), (mắt) thì nhìn tượng Phật, trong tỷ căn (mũi)
được nghe là mùi hương đốt cúng Phật, cho nên ba căn nầy cũng được nhiếp. Nhiếp
sáu căn đều là then chốt ở nơi nghe. Thông thường chúng ta tự tu, dùng cách
“Kim cang trì” tốt nhất, tức là có một tí âm thanh vừa vừa ở giữa miệng môi và
chân răng, không phải to lắm. Cách nầy niệm đã có âm thanh lại vừa dưỡng khí,
gọi là Kim cang trì. Mặc nhiên cũng có thể nghe, song mặc niệm thì mệt một
chút. Âm thanh lớn nhỏ có thể linh hoạt, lúc tán loạn và lúc phiền não khởi có
thể niệm lớn, dùng âm thanh để nhiếp niệm. Nếu niệm được yên tịnh thì có thể
niệm nhỏ, niệm cách Kim cang trì hoặc nhỏ một chút đều có thể được. Cần có
tiếng, cần nghe được tiếng nầy. Âm thanh nầy thì có nhiếp được niệm; đây là chỗ
thù thắng của pháp môn niệm Phật, then chốt là ở nơi “Tự nghe”.
chỉ cho lúc niệm Phật, tiếng niệm Phật trong miệng phát ra, âm thinh nầy có tác
dụng rất lớn, then chốt của pháp môn tịnh độ, cũng có thể nói là “Mật quyết”,
tức ở nơi tự niệm tự nghe. Cái được niệm là Nam Mô A Di Đà Phật, cái được nghe
cũng là: Nam Mô A Di Đà Phật. Cho nên đều nhiếp sáu căn, trước tiên thì thiệt
căn (lưỡi) và nhĩ căn (tai) đều nhiếp. Lúc nầy niệm là danh hiệu Phật, mà nghe
cũng là danh hiệu Phật, tưởng cũng là danh hiệu Phật, nên ý căn (ý) cũng được
nhiếp, tay giữ chuỗi niệm (thân), (mắt) thì nhìn tượng Phật, trong tỷ căn (mũi)
được nghe là mùi hương đốt cúng Phật, cho nên ba căn nầy cũng được nhiếp. Nhiếp
sáu căn đều là then chốt ở nơi nghe. Thông thường chúng ta tự tu, dùng cách
“Kim cang trì” tốt nhất, tức là có một tí âm thanh vừa vừa ở giữa miệng môi và
chân răng, không phải to lắm. Cách nầy niệm đã có âm thanh lại vừa dưỡng khí,
gọi là Kim cang trì. Mặc nhiên cũng có thể nghe, song mặc niệm thì mệt một
chút. Âm thanh lớn nhỏ có thể linh hoạt, lúc tán loạn và lúc phiền não khởi có
thể niệm lớn, dùng âm thanh để nhiếp niệm. Nếu niệm được yên tịnh thì có thể
niệm nhỏ, niệm cách Kim cang trì hoặc nhỏ một chút đều có thể được. Cần có
tiếng, cần nghe được tiếng nầy. Âm thanh nầy thì có nhiếp được niệm; đây là chỗ
thù thắng của pháp môn niệm Phật, then chốt là ở nơi “Tự nghe”.
Khinh lờn thành quen: Nếu như lúc
niệm tự tâm phiền tạp tán loạn, tiếng được niệm tất nhiên lộn xộn khó nghe. Tâm
không chuyên chú tai cũng mất linh nghiệm, tác dụng của tiếng niệm tự nhiên
không nhiếp niệm một chút nào cả. Ở tình huống nầy đâu có tác dụng nhiếp đều
sáu căn. Ngược lại cái hay dẫn khởi là kết quả xấu có hại “Khinh lờn thành
quen”, đây là thành ngữ thường dùng ở trong đạo Phật. Niệm một cách khinh
thường không thể chuyển thức thành trí, mà là nuôi lớn cái thói quen (Thức).
Chúng ta niệm Phật tức là chuyển ý thức phân biệt thành “Diệu quán sát trí”.
Nên khiến nó chuyển. Nếu niệm như thế nầy: vừa không âm tiết, tán loạn, tinh
thần lăng xăng, lại vừa không liền suốt, tưởng trong tâm và niệm trong miệng
không giống nhau, âm thanh được niệm cũng nhiếp không được ở nơi tâm, phép niệm
nầy không phải là “chuyển” Thức mà là “nuôi dưỡng” Thức, Thức được bồi dưỡng ở
trong đó, đây chính là “nỗi buồn của cổ đức”, tức là niệm cách nầy rất đáng
tiếc! – Khó được thân người, khó sinh ở quốc gia trung tâm, khó nghe được Phật
pháp, khó tin tịnh độ; Dù còn chịu niệm, nhưng lại niệm kiểu nầy cho nên Cổ đức
rất là buồn tiếc. Niệm cách nầy thì “vĩnh viễn khó thành từng loạt”, niệm Phật
niệm đến khi nhất tâm bất loạn rất khó, trước nhất phải đạt đến niệm Phật thành
thói quen. Chúng ta nên phải niệm cho được thành thói quen, ít thì mười mấy
câu, nhiều thì ba chục câu, nhiều nữa thì một tràng hai tràng, trong lúc nầy
tâm không được động chạy, từ đầu đến cuối đều là: Nam Mô A Di Đà Phật, đây gọi
thành tràng, mức độ chính mình là thế nào, chính mình hoàn toàn có thể biết.
Cho nên pháp niệm nầy, kiểu như trên, tức là “vĩnh viễn chẳng thành loạt”, đây
là phép niệm không tốt, thì nên tránh đi, nên tránh khỏi chỗ dễ sinh sai lệch,
mà nên tập trung tinh thần sức lực mặt hướng về ánh sáng.
niệm tự tâm phiền tạp tán loạn, tiếng được niệm tất nhiên lộn xộn khó nghe. Tâm
không chuyên chú tai cũng mất linh nghiệm, tác dụng của tiếng niệm tự nhiên
không nhiếp niệm một chút nào cả. Ở tình huống nầy đâu có tác dụng nhiếp đều
sáu căn. Ngược lại cái hay dẫn khởi là kết quả xấu có hại “Khinh lờn thành
quen”, đây là thành ngữ thường dùng ở trong đạo Phật. Niệm một cách khinh
thường không thể chuyển thức thành trí, mà là nuôi lớn cái thói quen (Thức).
Chúng ta niệm Phật tức là chuyển ý thức phân biệt thành “Diệu quán sát trí”.
Nên khiến nó chuyển. Nếu niệm như thế nầy: vừa không âm tiết, tán loạn, tinh
thần lăng xăng, lại vừa không liền suốt, tưởng trong tâm và niệm trong miệng
không giống nhau, âm thanh được niệm cũng nhiếp không được ở nơi tâm, phép niệm
nầy không phải là “chuyển” Thức mà là “nuôi dưỡng” Thức, Thức được bồi dưỡng ở
trong đó, đây chính là “nỗi buồn của cổ đức”, tức là niệm cách nầy rất đáng
tiếc! – Khó được thân người, khó sinh ở quốc gia trung tâm, khó nghe được Phật
pháp, khó tin tịnh độ; Dù còn chịu niệm, nhưng lại niệm kiểu nầy cho nên Cổ đức
rất là buồn tiếc. Niệm cách nầy thì “vĩnh viễn khó thành từng loạt”, niệm Phật
niệm đến khi nhất tâm bất loạn rất khó, trước nhất phải đạt đến niệm Phật thành
thói quen. Chúng ta nên phải niệm cho được thành thói quen, ít thì mười mấy
câu, nhiều thì ba chục câu, nhiều nữa thì một tràng hai tràng, trong lúc nầy
tâm không được động chạy, từ đầu đến cuối đều là: Nam Mô A Di Đà Phật, đây gọi
thành tràng, mức độ chính mình là thế nào, chính mình hoàn toàn có thể biết.
Cho nên pháp niệm nầy, kiểu như trên, tức là “vĩnh viễn chẳng thành loạt”, đây
là phép niệm không tốt, thì nên tránh đi, nên tránh khỏi chỗ dễ sinh sai lệch,
mà nên tập trung tinh thần sức lực mặt hướng về ánh sáng.
Trước mắt chỉ nêu ra sự cấm kỵ của niệm
Phật, cần gắng sức trừ bỏ, sau đây chính là con đường vạch ra nên tuân thủ đối
với việc trước mắt:
Phật, cần gắng sức trừ bỏ, sau đây chính là con đường vạch ra nên tuân thủ đối
với việc trước mắt:
+ Âm
thanh hài hòa vận tiết ổn định: Thanh hòa, chỉ cho tiếng và ý khi niệm Phật
nên hài hòa, hòa mỹ, yên hòa. Bỡi vì âm rất là quan hệ, nếu niệm quá gắt gao
hay khàn giọng thì âm thanh chẳng được hòa. Tiếng của người đến chỗ mà âm thanh
tốt đẹp vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm, thì tự nhiên tâm sẽ khoáng đạt tinh
thần vui vẻ, thân tâm được an hòa. Ngược lại thì khiến tâm người loạn, nóng nảy
không an.
thanh hài hòa vận tiết ổn định: Thanh hòa, chỉ cho tiếng và ý khi niệm Phật
nên hài hòa, hòa mỹ, yên hòa. Bỡi vì âm rất là quan hệ, nếu niệm quá gắt gao
hay khàn giọng thì âm thanh chẳng được hòa. Tiếng của người đến chỗ mà âm thanh
tốt đẹp vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm, thì tự nhiên tâm sẽ khoáng đạt tinh
thần vui vẻ, thân tâm được an hòa. Ngược lại thì khiến tâm người loạn, nóng nảy
không an.
Vận ổn: Vận là âm thanh hài hòa, lại
chỉ cho khí độ của thần vận cao nhã. Ổn là chỉ cho sự an định thỏa đáng, vận ổn
là âm thanh an hòa trầm tĩnh, khí vận thì cao nhã, tự nhiên có một sự điều hòa
của âm vận.
chỉ cho khí độ của thần vận cao nhã. Ổn là chỉ cho sự an định thỏa đáng, vận ổn
là âm thanh an hòa trầm tĩnh, khí vận thì cao nhã, tự nhiên có một sự điều hòa
của âm vận.
+ Khẩn
thiết chu đáo: Khẩn thiết, ta niệm Phật như đang ở trước Phật, cách nầy mỗi
niệm một tiếng, đều là từ trong tâm chí thành phát ra, khẩn khẩn thiết thiết
niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, cần phải từng câu từng câu, đây tức là cách niệm chu
đáo, cũng tức là tịnh niệm nối nhau. Đối với người đã có thời khóa ổn định,
trước nhất yêu cầu là phải rất chu đáo ở trong thời khóa, thời gian nầy không
nên lệch lạc. Lại nói thêm rằng, thế thì không chỉ vỏn vẹn trong định khóa mới
chu đáo, mà nên phải xuyên suốt được tùy lúc tùy chỗ, đều cần phải thường
thường khởi lên một câu Phật hiệu nầy. Nếu có thể được như vậy, thành tràng
thành hạt cũng chẳng khó. Pháp môn tịnh độ (niệm Phật) có cái hay ở trong đây,
người đời có thể làm được, không phải là cao không vói tới. Cần anh khai ngộ,
thế thì khó rồi, không phải là người người đều có thể, anh cũng có tánh khả
năng, chỉ cần làm được cho dù một hai người của ngàn vạn người khó, hiện tại
anh có thể kể ra mấy chục người khai ngộ không? Niệm Phật vãng sanh cũng không
phải là kiểu nầy, mà ai cũng đều có thể niệm. Cần chu đáo, thường có một câu
nầy, sự tình là có thể làm được, vấn đề là tự mình không chịu niệm. Phiền não
một khi khởi lên thì không chịu niệm. Giận dữ gấp rút là phiền não, vui vẻ đắc
ý cũng là phiền não; Kỳ thật xét kỹ trong phiền não cũng có thể niệm, chỉ là
chính mình không chịu niệm, nếu hay tỉ mỉ chu đáo, trì niệm khẩn thiết, tự
nhiên sẽ thành loạt thành tràng, nhất tâm bất loạn. Cho nên việc niệm Phật vãng
sinh thường xuyên lúc nào cũng được quan tâm.
thiết chu đáo: Khẩn thiết, ta niệm Phật như đang ở trước Phật, cách nầy mỗi
niệm một tiếng, đều là từ trong tâm chí thành phát ra, khẩn khẩn thiết thiết
niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, cần phải từng câu từng câu, đây tức là cách niệm chu
đáo, cũng tức là tịnh niệm nối nhau. Đối với người đã có thời khóa ổn định,
trước nhất yêu cầu là phải rất chu đáo ở trong thời khóa, thời gian nầy không
nên lệch lạc. Lại nói thêm rằng, thế thì không chỉ vỏn vẹn trong định khóa mới
chu đáo, mà nên phải xuyên suốt được tùy lúc tùy chỗ, đều cần phải thường
thường khởi lên một câu Phật hiệu nầy. Nếu có thể được như vậy, thành tràng
thành hạt cũng chẳng khó. Pháp môn tịnh độ (niệm Phật) có cái hay ở trong đây,
người đời có thể làm được, không phải là cao không vói tới. Cần anh khai ngộ,
thế thì khó rồi, không phải là người người đều có thể, anh cũng có tánh khả
năng, chỉ cần làm được cho dù một hai người của ngàn vạn người khó, hiện tại
anh có thể kể ra mấy chục người khai ngộ không? Niệm Phật vãng sanh cũng không
phải là kiểu nầy, mà ai cũng đều có thể niệm. Cần chu đáo, thường có một câu
nầy, sự tình là có thể làm được, vấn đề là tự mình không chịu niệm. Phiền não
một khi khởi lên thì không chịu niệm. Giận dữ gấp rút là phiền não, vui vẻ đắc
ý cũng là phiền não; Kỳ thật xét kỹ trong phiền não cũng có thể niệm, chỉ là
chính mình không chịu niệm, nếu hay tỉ mỉ chu đáo, trì niệm khẩn thiết, tự
nhiên sẽ thành loạt thành tràng, nhất tâm bất loạn. Cho nên việc niệm Phật vãng
sinh thường xuyên lúc nào cũng được quan tâm.
+ Trầm
lắng an nhàn: Câu nói nầy chính là chỉ thẳng những chỗ bệnh trước mắt rất
nhiều của người tu hành. Có người dụng công chỉ có lòng muốn gấp gáp, bực tức
chẳng thể mau mau liền có chỗ thành tựu, do đó rất là khẩn trương, rất là gấp
rút. Đây cũng là có tâm mong cầu. Nhưng sự thù thắng của niệm Phật thì từ nơi
“hữu niệm” mà thầm hợp với “vô niệm”, từ “hữu cầu” mà khế hợp với “vô cầu”, từ
“vãng sanh” mà chứng được “vô sanh”. Nên “trầm lắng”, trầm lắng đến mức bình
tĩnh, tâm tư không có một chút lo nghĩ bồi hồi sợ được sợ mất nào, lo nghĩ bất
an nào. Mà vả lại nên “an nhàn”; Bỡi vì có người nổ lực, cũng bỡi ở tâm tư nôn
nóng mà rơi vào sự khẩn trương, bề bộn, rối loạn, lo lắng, gấp rút… Như vậy
là đi ngược lại lời dạy của bậc Thánh rồi!
lắng an nhàn: Câu nói nầy chính là chỉ thẳng những chỗ bệnh trước mắt rất
nhiều của người tu hành. Có người dụng công chỉ có lòng muốn gấp gáp, bực tức
chẳng thể mau mau liền có chỗ thành tựu, do đó rất là khẩn trương, rất là gấp
rút. Đây cũng là có tâm mong cầu. Nhưng sự thù thắng của niệm Phật thì từ nơi
“hữu niệm” mà thầm hợp với “vô niệm”, từ “hữu cầu” mà khế hợp với “vô cầu”, từ
“vãng sanh” mà chứng được “vô sanh”. Nên “trầm lắng”, trầm lắng đến mức bình
tĩnh, tâm tư không có một chút lo nghĩ bồi hồi sợ được sợ mất nào, lo nghĩ bất
an nào. Mà vả lại nên “an nhàn”; Bỡi vì có người nổ lực, cũng bỡi ở tâm tư nôn
nóng mà rơi vào sự khẩn trương, bề bộn, rối loạn, lo lắng, gấp rút… Như vậy
là đi ngược lại lời dạy của bậc Thánh rồi!
“An nhàn”, hai chữ này tiến đến một bực
nữa mà nói, không những chỉ là sự bình tĩnh (trấn định), mà còn là muôn duyên
đều nhất loạt buông mất, không giữ không cầu, cho nên là một người đại nhàn
giữa trời đất. Trong tâm chỉ nhớ câu niệm Phật, một câu danh hiệu Phật rõ ràng
trước mặt, đã không có điều ngăn ngại lại chẳng điên đảo, vắng lặng an tâm. Cho
nên có thể thấy rằng hai chữ AN NHÀN quan trọng cần yếu mười phần. Ngược lại,
nếu gấp rút ở trong lòng, muốn thấy Phật thấy hào quang, muốn thấy xuất hiện
điềm lành, niệm thế nầy thì sẽ sinh ra tâm bệnh; Vả lại không phải là do niệm
Phật mà sinh ra bệnh đâu, mà là do trong lòng, gấp rút như thế nên sinh ra tâm
bệnh. Chúng ta nên rất là an nhàn, vì sao có thể an nhàn? – Vì tín tâm! Người
có tín tâm thì rất an nhàn. Có người hỏi rằng: Ta sao lại niệm chưa tốt, còn
vọng tưởng tạp niệm? Ngài Ngẫu Ích đại sư giảng rất rõ: “vãng sanh hay không,
hoàn toàn do nơi chỗ có hay không có tín nguyện”. Vậy thì anh có hay không có
tín tâm sâu xa? Phải là phát nguyện chân chánh hay không? Chân chánh đó là
không muốn lưu luyến thế giới Ta Bà nầy, mà ưa thích Cực Lạc nguyện cầu vãng
sanh. Trên thực tế rất nhiều người còn lưu luyến, chẳng thể lìa bỏ, tham luyến
tài sản, sự nghiệp, danh vọng, vợ con, vật chất, hưởng thụ, cuộc sống hiện tại
tốt đẹp v.v… nên cố sức ham muốn nhiều nhưng sống được mấy năm, rồi lại muốn
tốt nhất là trường sinh bất lão! Chính là lưu luyến thế giới nầy mà bỏ lìa
không được. Cho nên ưa thích Cực Lạc cần phải phát “đại nguyện”. Nhiều kiếp trở
lại đây tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc của mình đang ở trong biển khổ đợi
chờ ta cứu độ, nhưng ta làm sao mới có thể độ chúng sinh đây! Tự ta còn là
người đang giãy giụa trong biển khổ, không có một chút năng lực nào cứu độ
người khác, chỉ sau khi vãng sanh, nương sức gia trì của Phật, ta sẽ có được
trí tuệ rồi cứu độ lập tức tất cả những quyến thuộc nầy. Phải là tâm tình như
thế nầy và nguyện lực như thế nầy. Có tín và nguyện tự nhiên sẽ niệm, thì nhất
định vãng sanh, cho nên vãng sanh hay không, hoàn toàn nhờ ở sự có hay không có
tín nguyện. Mọi người nói muốn vãng sanh, thì trước nhất mọi người ở ngay nơi
tín nguyện mà dốc sức công phu. Nguyện nầy của ta có chơn chánh hay không? Nếu
tín nguyện thiết tha thì chắc chắn vãng sanh; Lại nữa vấn đề niệm Phật, trong
tâm không nên gấp rút nôn nóng mà phải tự nhiên an nhàn.
nữa mà nói, không những chỉ là sự bình tĩnh (trấn định), mà còn là muôn duyên
đều nhất loạt buông mất, không giữ không cầu, cho nên là một người đại nhàn
giữa trời đất. Trong tâm chỉ nhớ câu niệm Phật, một câu danh hiệu Phật rõ ràng
trước mặt, đã không có điều ngăn ngại lại chẳng điên đảo, vắng lặng an tâm. Cho
nên có thể thấy rằng hai chữ AN NHÀN quan trọng cần yếu mười phần. Ngược lại,
nếu gấp rút ở trong lòng, muốn thấy Phật thấy hào quang, muốn thấy xuất hiện
điềm lành, niệm thế nầy thì sẽ sinh ra tâm bệnh; Vả lại không phải là do niệm
Phật mà sinh ra bệnh đâu, mà là do trong lòng, gấp rút như thế nên sinh ra tâm
bệnh. Chúng ta nên rất là an nhàn, vì sao có thể an nhàn? – Vì tín tâm! Người
có tín tâm thì rất an nhàn. Có người hỏi rằng: Ta sao lại niệm chưa tốt, còn
vọng tưởng tạp niệm? Ngài Ngẫu Ích đại sư giảng rất rõ: “vãng sanh hay không,
hoàn toàn do nơi chỗ có hay không có tín nguyện”. Vậy thì anh có hay không có
tín tâm sâu xa? Phải là phát nguyện chân chánh hay không? Chân chánh đó là
không muốn lưu luyến thế giới Ta Bà nầy, mà ưa thích Cực Lạc nguyện cầu vãng
sanh. Trên thực tế rất nhiều người còn lưu luyến, chẳng thể lìa bỏ, tham luyến
tài sản, sự nghiệp, danh vọng, vợ con, vật chất, hưởng thụ, cuộc sống hiện tại
tốt đẹp v.v… nên cố sức ham muốn nhiều nhưng sống được mấy năm, rồi lại muốn
tốt nhất là trường sinh bất lão! Chính là lưu luyến thế giới nầy mà bỏ lìa
không được. Cho nên ưa thích Cực Lạc cần phải phát “đại nguyện”. Nhiều kiếp trở
lại đây tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc của mình đang ở trong biển khổ đợi
chờ ta cứu độ, nhưng ta làm sao mới có thể độ chúng sinh đây! Tự ta còn là
người đang giãy giụa trong biển khổ, không có một chút năng lực nào cứu độ
người khác, chỉ sau khi vãng sanh, nương sức gia trì của Phật, ta sẽ có được
trí tuệ rồi cứu độ lập tức tất cả những quyến thuộc nầy. Phải là tâm tình như
thế nầy và nguyện lực như thế nầy. Có tín và nguyện tự nhiên sẽ niệm, thì nhất
định vãng sanh, cho nên vãng sanh hay không, hoàn toàn nhờ ở sự có hay không có
tín nguyện. Mọi người nói muốn vãng sanh, thì trước nhất mọi người ở ngay nơi
tín nguyện mà dốc sức công phu. Nguyện nầy của ta có chơn chánh hay không? Nếu
tín nguyện thiết tha thì chắc chắn vãng sanh; Lại nữa vấn đề niệm Phật, trong
tâm không nên gấp rút nôn nóng mà phải tự nhiên an nhàn.
+ Tiếng
hợp với tâm, tâm ứng với tiếng: Tiếng niệm Phật từ trong tâm thành khẩn thanh
tịnh phát ra tự nhiên hài hòa an ổn, âm thanh câu niệm Phật nầy vi diệu, trải
qua tai mình mà đạt đến bản tâm, được nghe chính là được niệm, cho nên tự nhiên
họp nhau, tiếng họp với tâm. Âm thanh nầy là danh hiệu Phật muôn đức trang
nghiêm, cũng tức là âm thanh muôn đức trang nghiêm vậy. Âm thanh nầy vào từ nhĩ
căn là tự tâm được niệm, tự tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm chắc
chắn tương ứng với tiếng được nghe. Tiếng hợp tâm, tâm hợp tiếng, cho nên nói
rằng: “tâm và tiếng nương nhau”. Nói một cách đơn giản: Ta niệm Phật, mà niệm
Phật có tiếng thì âm thanh trở lại trợ giúp cho ta. Do ta phát ra tiếng, tiếng
trở lại giúp ta, cho nên nói nương nhau. Niệm như thế nầy không cần dùng cách
bài trừ vọng niệm mà vọng niệm tự tiêu mất.
hợp với tâm, tâm ứng với tiếng: Tiếng niệm Phật từ trong tâm thành khẩn thanh
tịnh phát ra tự nhiên hài hòa an ổn, âm thanh câu niệm Phật nầy vi diệu, trải
qua tai mình mà đạt đến bản tâm, được nghe chính là được niệm, cho nên tự nhiên
họp nhau, tiếng họp với tâm. Âm thanh nầy là danh hiệu Phật muôn đức trang
nghiêm, cũng tức là âm thanh muôn đức trang nghiêm vậy. Âm thanh nầy vào từ nhĩ
căn là tự tâm được niệm, tự tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm chắc
chắn tương ứng với tiếng được nghe. Tiếng hợp tâm, tâm hợp tiếng, cho nên nói
rằng: “tâm và tiếng nương nhau”. Nói một cách đơn giản: Ta niệm Phật, mà niệm
Phật có tiếng thì âm thanh trở lại trợ giúp cho ta. Do ta phát ra tiếng, tiếng
trở lại giúp ta, cho nên nói nương nhau. Niệm như thế nầy không cần dùng cách
bài trừ vọng niệm mà vọng niệm tự tiêu mất.
Chưa có thể “nhất tâm” thì trước phải
cầu “chuyên niệm”, chưa có thể được “bất loạn” thì trước phải học tập “thành
từng loạt”.
cầu “chuyên niệm”, chưa có thể được “bất loạn” thì trước phải học tập “thành
từng loạt”.
Nhất tâm bất loạn là lúc niệm Phật tâm
không tán loạn, dẫn tới tâm chí thành, chuyên niệm danh hiệu Phật. Trong “Kinh
Vô Lượng Thọ”, một điều kiện căn bản được yêu cầu của “ba hạng vãng sanh” đó
là: “một hướng (lòng) chuyên niệm”. Thường xuyên chuyên niệm một câu A Di Đà
Phật nầy, là thời gian niệm rất chuyên tâm, không có vọng tưởng tạp niệm. Chưa
thể đạt được nhất tâm thì trước phải chuyên niệm. Chuyên nhất chẳng biến đổi,
là đối với người thấy khác hay suy nghĩ dời đổi mà nói, đứng núi nầy trông núi
nọ, nói chung là chẳng thể yên được ở pháp môn mình tu, có nghĩa là ngày nay
muốn niệm Phật, ngày mai muốn tham thiền, ngày mốt lại muốn tu mật, tóm lại
muốn học nhiều bao nhiêu cách mới có thể nương nhờ được?
không tán loạn, dẫn tới tâm chí thành, chuyên niệm danh hiệu Phật. Trong “Kinh
Vô Lượng Thọ”, một điều kiện căn bản được yêu cầu của “ba hạng vãng sanh” đó
là: “một hướng (lòng) chuyên niệm”. Thường xuyên chuyên niệm một câu A Di Đà
Phật nầy, là thời gian niệm rất chuyên tâm, không có vọng tưởng tạp niệm. Chưa
thể đạt được nhất tâm thì trước phải chuyên niệm. Chuyên nhất chẳng biến đổi,
là đối với người thấy khác hay suy nghĩ dời đổi mà nói, đứng núi nầy trông núi
nọ, nói chung là chẳng thể yên được ở pháp môn mình tu, có nghĩa là ngày nay
muốn niệm Phật, ngày mai muốn tham thiền, ngày mốt lại muốn tu mật, tóm lại
muốn học nhiều bao nhiêu cách mới có thể nương nhờ được?
+ Chưa
có thể “bất loạn”, trước phải “học thành từng loạt”: Làm chưa đạt được cái
tâm “hoàn toàn đều không tán loạn”, thì trước nên khiến nó thành từng loạt. Ta
không thể suốt không tán loạn, nhưng ta có cách làm mấy mươi câu thành một
loạt, trong một loạt mấy mươi câu nầy không có vọng tưởng tạp loạn; Nếu người
không chân thật dụng công thì ngay cả lập thành loạt niệm như thế nầy cũng khó
mà làm được. Cho nên nói rằng: “Chơn siêng chơn chuyên, công hiệu tự thấy,
không cần hỏi người, xin tự nghiệm lấy”. Như người uống nước, lạnh hay nóng tự
biết.
có thể “bất loạn”, trước phải “học thành từng loạt”: Làm chưa đạt được cái
tâm “hoàn toàn đều không tán loạn”, thì trước nên khiến nó thành từng loạt. Ta
không thể suốt không tán loạn, nhưng ta có cách làm mấy mươi câu thành một
loạt, trong một loạt mấy mươi câu nầy không có vọng tưởng tạp loạn; Nếu người
không chân thật dụng công thì ngay cả lập thành loạt niệm như thế nầy cũng khó
mà làm được. Cho nên nói rằng: “Chơn siêng chơn chuyên, công hiệu tự thấy,
không cần hỏi người, xin tự nghiệm lấy”. Như người uống nước, lạnh hay nóng tự
biết.
Từng câu niệm mà chơn, chắc chắn ra
khỏi Ta Bà. Thế nào gọi là CHƠN? – Một câu giải thích rất bình thường, nếu muốn
niệm được chơn, chỉ cần niệm của chơn. Không phải là ngụy trang dối người,
không phải là làm trên hình thức, không phải là có mục đích khác, không phải là
vọng cầu điều quấy, không phải là cái vỏ bề ngoài. Phải nên khẩn cầu thiết tha,
thường thật tín nguyện trì danh, một câu danh hiệu Phật nầy tự mình niệm rất rõ
ràng, toàn bộ rất rõ ràng, tức là niệm chơn rồi vậy.
khỏi Ta Bà. Thế nào gọi là CHƠN? – Một câu giải thích rất bình thường, nếu muốn
niệm được chơn, chỉ cần niệm của chơn. Không phải là ngụy trang dối người,
không phải là làm trên hình thức, không phải là có mục đích khác, không phải là
vọng cầu điều quấy, không phải là cái vỏ bề ngoài. Phải nên khẩn cầu thiết tha,
thường thật tín nguyện trì danh, một câu danh hiệu Phật nầy tự mình niệm rất rõ
ràng, toàn bộ rất rõ ràng, tức là niệm chơn rồi vậy.
Niệm Phật chẳng thể cầu trước tiên là
nhất tâm bất loạn, vì nhất tâm bất loạn rất là khó, có thể được một loạt một
tràng, tức là ba mươi, năm mươi hoặc ba trăm, năm trăm câu… mà không loạn,
lại có thể tùy lúc tùy nơi mà có thể khởi tưởng niệm Phật.
nhất tâm bất loạn, vì nhất tâm bất loạn rất là khó, có thể được một loạt một
tràng, tức là ba mươi, năm mươi hoặc ba trăm, năm trăm câu… mà không loạn,
lại có thể tùy lúc tùy nơi mà có thể khởi tưởng niệm Phật.
Niệm Phật mà có thể “nhất tâm bất loạn”
đương nhiên là điều tốt rồi, nhưng có thể niệm được thành loạt thành tràng mà
chẳng loạn đều không phải là dễ đâu. Có thể niệm được thành loạt thành tràng
không loạn, tùy lúc tùy nơi khởi được tưởng niệm cũng là niệm Phật rồi. E rằng
chỉ biết niệm Phật trong thời khóa nhất định, ngoài ra lúc bình thường chẳng
tưởng được để niệm Phật!
đương nhiên là điều tốt rồi, nhưng có thể niệm được thành loạt thành tràng mà
chẳng loạn đều không phải là dễ đâu. Có thể niệm được thành loạt thành tràng
không loạn, tùy lúc tùy nơi khởi được tưởng niệm cũng là niệm Phật rồi. E rằng
chỉ biết niệm Phật trong thời khóa nhất định, ngoài ra lúc bình thường chẳng
tưởng được để niệm Phật!
Lúc niệm Phật nhất định nên niệm một
cách “chánh tâm thành ý” và “cung kính”, đây là bí quyết nhiệm mầu của niệm
Phật trì danh, mà vả lại trong lúc niệm Phật cần tâm không nên thêm việc,
chuyên tâm chỉ Nam MôA Di Đà Phật, niệm được thuần thục, thì có thể nhất tâm
bất loạn rồi.
cách “chánh tâm thành ý” và “cung kính”, đây là bí quyết nhiệm mầu của niệm
Phật trì danh, mà vả lại trong lúc niệm Phật cần tâm không nên thêm việc,
chuyên tâm chỉ Nam MôA Di Đà Phật, niệm được thuần thục, thì có thể nhất tâm
bất loạn rồi.
CHẲNG NIỆM GÌ CẢ – CHỈ NIỆM A DI ĐÀ
PHẬT
PHẬT
Niệm Phật như thế nào? Xin bảo cùng mọi
người một phương pháp: Tức là tùy lúc tùy nơi đi đứng ngồi nằm, động tịnh rổi
rảnh hay bận rộn, lúc đi đường niệm, lúc đứng cũng niệm, lúc ngồi cũng niệm,
lúc nằm cũng niệm, công tác chẳng dụng tâm suy nghĩ cũng niệm, lúc phiền não
niệm, lúc vui vẻ cũng niệm. Việc quá khứ không nghĩ tưởng, việc hiện tại trừ
lúc đang công tác cũng không nghĩ tưởng, việc vị lai không nghĩ tưởng, việc lớn
không tưởng, việc nhỏ cũng không tưởng, việc ác không tưởng, việc thiện cũng
không tưởng, chung qui đều không nghĩ tưởng. Như thế nào mới là chẳng nghĩ
tưởng? – Tức là niệm chí thành chuyên nhất: A Di Đà Phật, không chấp trước tốt
xấu, có không, được mất, chê khen, buông hết tình đời việc tục, chỉ có một câu
A Di Đà Phật. Con người cả ngày vì tình đời việc tục mà bận rộn, nghĩ đông nghĩ
tây, tâm làm sao có thể yên tịnh được, chẳng những lúc niệm Phật tâm không thể
nhất tâm bất loạn, ngay cả lúc niệm Phật thành loạt thành tràng cũng chẳng thể
được; Như thế việc vãng sanh thế giới Cực Lạc dẹp bỏ ư?
người một phương pháp: Tức là tùy lúc tùy nơi đi đứng ngồi nằm, động tịnh rổi
rảnh hay bận rộn, lúc đi đường niệm, lúc đứng cũng niệm, lúc ngồi cũng niệm,
lúc nằm cũng niệm, công tác chẳng dụng tâm suy nghĩ cũng niệm, lúc phiền não
niệm, lúc vui vẻ cũng niệm. Việc quá khứ không nghĩ tưởng, việc hiện tại trừ
lúc đang công tác cũng không nghĩ tưởng, việc vị lai không nghĩ tưởng, việc lớn
không tưởng, việc nhỏ cũng không tưởng, việc ác không tưởng, việc thiện cũng
không tưởng, chung qui đều không nghĩ tưởng. Như thế nào mới là chẳng nghĩ
tưởng? – Tức là niệm chí thành chuyên nhất: A Di Đà Phật, không chấp trước tốt
xấu, có không, được mất, chê khen, buông hết tình đời việc tục, chỉ có một câu
A Di Đà Phật. Con người cả ngày vì tình đời việc tục mà bận rộn, nghĩ đông nghĩ
tây, tâm làm sao có thể yên tịnh được, chẳng những lúc niệm Phật tâm không thể
nhất tâm bất loạn, ngay cả lúc niệm Phật thành loạt thành tràng cũng chẳng thể
được; Như thế việc vãng sanh thế giới Cực Lạc dẹp bỏ ư?
CHỈ SỚM TỐI MỖI NGÀY NIỆM MỘT LẦN NIỆM
PHẬT THÌ LỰC CHẲNG ĐỦ
PHẬT THÌ LỰC CHẲNG ĐỦ
Chẳng nên cho là sớm tối mỗi ngày niệm
một lần niệm Phật, thì là đã niệm Phật, lúc mạng chung có thể vãng sanh thế
giới Cực Lạc rồi! Không có việc tốt như thế đâu. Chỉ nương vào sớm tối mỗi ngày
niệm một lần niệm Phật, thì có thể nhất tâm bất loạn không? Trong tâm có Phật
không? Nhân vì nghiệp chướng của chúng ta rất sâu nặng, ngày trước chẳng nói
chi, tức là phiền nào, dục vọng, ác niệm, ác hạnh của hiện tại nay đây không
phải là ít, những phiền não ác niệm nầy cần nương nơi lực niệm Phật để tiêu
trừ, lực niệm Phật càng lớn thì lực của nghiệp sẽ càng nhỏ đi, lúc mạng chung
mới có thể “chánh niệm” hiện ra trước mặt, niệm Phật vãng sanh. Ta thử nghĩ xem
lực niệm Phật của ta có thể lớn hơn lực của nghiệp không? – Trong kinh A Di Đà
có nói:
một lần niệm Phật, thì là đã niệm Phật, lúc mạng chung có thể vãng sanh thế
giới Cực Lạc rồi! Không có việc tốt như thế đâu. Chỉ nương vào sớm tối mỗi ngày
niệm một lần niệm Phật, thì có thể nhất tâm bất loạn không? Trong tâm có Phật
không? Nhân vì nghiệp chướng của chúng ta rất sâu nặng, ngày trước chẳng nói
chi, tức là phiền nào, dục vọng, ác niệm, ác hạnh của hiện tại nay đây không
phải là ít, những phiền não ác niệm nầy cần nương nơi lực niệm Phật để tiêu
trừ, lực niệm Phật càng lớn thì lực của nghiệp sẽ càng nhỏ đi, lúc mạng chung
mới có thể “chánh niệm” hiện ra trước mặt, niệm Phật vãng sanh. Ta thử nghĩ xem
lực niệm Phật của ta có thể lớn hơn lực của nghiệp không? – Trong kinh A Di Đà
có nói:
“Không thể lấy chút ít thiện căn
nhân duyên phước đức, mà được sinh nước kia (Cực Lạc)”.
nhân duyên phước đức, mà được sinh nước kia (Cực Lạc)”.
Nếu ta chỉ sớm tối mỗi ngày niệm một
lần niệm Phật, thì trong ta không hiện hữu Phật, sao có thể cảm thông cùng đức
Phật A Di Đà? Như thế chẳng ngại rằng Phật A Di Đà quên ta lâu quá, đến lúc ta
mạng chung chẳng đến đón ta; mà chỉ ngại rằng tự mình không thật sự thường
xuyên niệm Phật, chẳng niệm Phật nhiều, trong tâm không có Phật. Bình thường
không biết niệm Phật, lúc mạng chung làm sao có thể khởi tưởng niệm Phật!
lần niệm Phật, thì trong ta không hiện hữu Phật, sao có thể cảm thông cùng đức
Phật A Di Đà? Như thế chẳng ngại rằng Phật A Di Đà quên ta lâu quá, đến lúc ta
mạng chung chẳng đến đón ta; mà chỉ ngại rằng tự mình không thật sự thường
xuyên niệm Phật, chẳng niệm Phật nhiều, trong tâm không có Phật. Bình thường
không biết niệm Phật, lúc mạng chung làm sao có thể khởi tưởng niệm Phật!
Thiện căn nhân duyên phước đức; chí
thành trì niệm danh hiệu đức A Di Đà là “chánh hạnh”, gọi là thiện căn. Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, thọ giữ giới cấm, chẳng làm việc ác, ưa làm
việc thiện, đó là “trợ hạnh”, gọi là phước đức. Không rõ được việc tu chân
chánh nầy tức là không có thiện căn. Tu mà chỉ cầu tự độ, không phát tâm độ
chúng sinh, tức là thiện căn ít. Không rõ việc tu các trợ hạnh thì là không có
phước đức. Tu chỉ cầu phước báo trời người, mà không hồi hướng cho chúng sinh,
tức là phước đức ít. Niệm Phật là nhân chính, dừng ác tu thiện là duyên trợ
giúp. Cho nên nói rằng: không thể lấy chút ít thiện căn nhân duyên phước đức mà
được sinh nước kia.
thành trì niệm danh hiệu đức A Di Đà là “chánh hạnh”, gọi là thiện căn. Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, thọ giữ giới cấm, chẳng làm việc ác, ưa làm
việc thiện, đó là “trợ hạnh”, gọi là phước đức. Không rõ được việc tu chân
chánh nầy tức là không có thiện căn. Tu mà chỉ cầu tự độ, không phát tâm độ
chúng sinh, tức là thiện căn ít. Không rõ việc tu các trợ hạnh thì là không có
phước đức. Tu chỉ cầu phước báo trời người, mà không hồi hướng cho chúng sinh,
tức là phước đức ít. Niệm Phật là nhân chính, dừng ác tu thiện là duyên trợ
giúp. Cho nên nói rằng: không thể lấy chút ít thiện căn nhân duyên phước đức mà
được sinh nước kia.
Mười niệm có thể vãng sanh! Từ sớm đến
tối niệm Phật gom lại hơn mười niệm không? Niệm Phật sớm tối sao không thể vãng
sanh? Nếu có thể, thì có chỗ nắm chắc không? – Người mà mười niệm có thể được
vãng sanh, trong muôn người khó được mấy người! Chúng ta muốn sanh về thế giới
Cực Lạc nên mới niệm Phật, vì sao không làm cái việc có cơ sở chắc chắn ư?
tối niệm Phật gom lại hơn mười niệm không? Niệm Phật sớm tối sao không thể vãng
sanh? Nếu có thể, thì có chỗ nắm chắc không? – Người mà mười niệm có thể được
vãng sanh, trong muôn người khó được mấy người! Chúng ta muốn sanh về thế giới
Cực Lạc nên mới niệm Phật, vì sao không làm cái việc có cơ sở chắc chắn ư?
Mười niệm vãng sanh; Là khi mạng chung
gặp được Thiện tri thức khai thị, dạy cho niệm Phật, thì tâm sinh hoan hỉ, thần
chí trong sáng, nguyện sanh thế giới Cực Lạc, mình lại có thể niệm chí tâm, cho
đến mười niệm, nhưng đây là do sự quan hệ từ sự gieo trồng đời trước mà nay
chín, nếu chẳng phải vậy, thì sợ rằng nghiệp chướng dắt dẫn, bạn lành khó gặp,
mười niệm khó thành. Bị bệnh khổ bức xúc, nghiệp trước chiêu cảm, chánh niệm
khó thành, mười niệm tuy dễ, thật ra khó may mắn tập trung. Ngay lúc thân thể
con người khỏe mạnh, dõng mãnh tinh tấn mà không thể giữ gìn tâm may mắn ấy,
sớm chuẩn bị cho tư lương tịnh độ, để khỏi đến lúc cần đến không kịp.
gặp được Thiện tri thức khai thị, dạy cho niệm Phật, thì tâm sinh hoan hỉ, thần
chí trong sáng, nguyện sanh thế giới Cực Lạc, mình lại có thể niệm chí tâm, cho
đến mười niệm, nhưng đây là do sự quan hệ từ sự gieo trồng đời trước mà nay
chín, nếu chẳng phải vậy, thì sợ rằng nghiệp chướng dắt dẫn, bạn lành khó gặp,
mười niệm khó thành. Bị bệnh khổ bức xúc, nghiệp trước chiêu cảm, chánh niệm
khó thành, mười niệm tuy dễ, thật ra khó may mắn tập trung. Ngay lúc thân thể
con người khỏe mạnh, dõng mãnh tinh tấn mà không thể giữ gìn tâm may mắn ấy,
sớm chuẩn bị cho tư lương tịnh độ, để khỏi đến lúc cần đến không kịp.
Giữ không được cái tâm ở lại lúc ta
mạng chung, muốn mời Thiện tri thức đến để khai thị hoặc trợ niệm, thì có biết
lúc mạng chung đến không? Mời được Thiện tri thức không? Cần có Thiện tri thức
khai thị trợ niệm cũng khó được để mà nhờ cậy! (Có người trợ niệm thì chẳng
vãng sanh, không người trợ niệm đã vãng sanh rồi), ngay cả tự mình còn nương
cậy không được, huống nữa nương cậy người khác! Nương cậy có được không? Lúc
vãng sanh phát sanh chướng ngại, mạng anh liền dứt rồi; cho nên muốn vãng sanh
về thế giới Cực Lạc thì nên làm cái việc có cơ sở chắc chắn, không nên giữ lấy
cái tâm may mắn đó!
mạng chung, muốn mời Thiện tri thức đến để khai thị hoặc trợ niệm, thì có biết
lúc mạng chung đến không? Mời được Thiện tri thức không? Cần có Thiện tri thức
khai thị trợ niệm cũng khó được để mà nhờ cậy! (Có người trợ niệm thì chẳng
vãng sanh, không người trợ niệm đã vãng sanh rồi), ngay cả tự mình còn nương
cậy không được, huống nữa nương cậy người khác! Nương cậy có được không? Lúc
vãng sanh phát sanh chướng ngại, mạng anh liền dứt rồi; cho nên muốn vãng sanh
về thế giới Cực Lạc thì nên làm cái việc có cơ sở chắc chắn, không nên giữ lấy
cái tâm may mắn đó!
Ngài Thiện Đạo đại sư, trong bài kệ
khuyến hóa, nói rằng:
khuyến hóa, nói rằng:
“Lần nữa da gà tóc hạt, nhìn xem
bước đi lóng cóng, chỉ có tu hành nẻo chánh, thường chuyên niệm Phật A Di Đà”.
bước đi lóng cóng, chỉ có tu hành nẻo chánh, thường chuyên niệm Phật A Di Đà”.
NUÔI THÀNH THÓI QUEN NIỆM PHẬT
Niệm Phật là sớm tối mỗi ngày biết được
niệm, vậy thì bình thường biết được niệm không? Ngẫu nhiên nhớ được niệm, niệm
cũng không được mấy câu thì dứt. Nếu muốn nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật,
tốt nhất là sáng sớm thức dậy còn ở trên giường thì niệm (niệm thầm), tối lại
lúc ngủ cũng niệm, niệm đến khi ngủ, từ nay bắt tay làm đi thì thói quen niệm
Phật dễ nuôi dưỡng thành. Ngày ngày niệm, giờ giờ niệm, khởi tưởng thì niệm
liền, mới có thể nuôi thành thói quen niệm Phật, khiến thói quen trở thành tự
nhiên, tự nhiên miệng lúc chẳng niệm mà tâm vẫn ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự
niệm, trong tâm có Phật, lâu ngày công phu sâu dày, miệng niệm tâm nghĩ, tự
nhiên thành một, nhất tâm bất loạn. Niệm Phật niệm đến lúc quên ta (vong ngã),
thì đạt được niệm Phật tam muội, cũng có thể ngộ đạo, đoạn trừ phiền não, liễu
thoát sinh tử.
niệm, vậy thì bình thường biết được niệm không? Ngẫu nhiên nhớ được niệm, niệm
cũng không được mấy câu thì dứt. Nếu muốn nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật,
tốt nhất là sáng sớm thức dậy còn ở trên giường thì niệm (niệm thầm), tối lại
lúc ngủ cũng niệm, niệm đến khi ngủ, từ nay bắt tay làm đi thì thói quen niệm
Phật dễ nuôi dưỡng thành. Ngày ngày niệm, giờ giờ niệm, khởi tưởng thì niệm
liền, mới có thể nuôi thành thói quen niệm Phật, khiến thói quen trở thành tự
nhiên, tự nhiên miệng lúc chẳng niệm mà tâm vẫn ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự
niệm, trong tâm có Phật, lâu ngày công phu sâu dày, miệng niệm tâm nghĩ, tự
nhiên thành một, nhất tâm bất loạn. Niệm Phật niệm đến lúc quên ta (vong ngã),
thì đạt được niệm Phật tam muội, cũng có thể ngộ đạo, đoạn trừ phiền não, liễu
thoát sinh tử.
Nếu cả ngày vì công việc bận rộn! Vì
danh lợi bận rộn! Vì hưởng thụ dằng dặc xao nhãng, phân tán buông lung, tâm
chẳng ở tại đạo, cần công phu tu tập cũng lúc có lúc không, dứt quãng hay tới
tấp bất thường, thường bị động chuyển trong sự vui, giận, buồn, ưa… đối việc
thuận ý thì tâm sinh khấp khởi vui reo, đối với việc nghịch ý thì khởi tâm ghét
hận (trôi nổi theo sóng phiền não, làm sao bình tâm tịnh ý mà xét việc sai
đúng), thì làm sao có thể nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật. Đâu rõ biết ba
tạng, mười hai bộ kinh, biện tài không ngăn ngại, danh tướng thì bàn luận lung
tung, biết rõ mà không làm, nói rõ mà không luyện, thì ra không khỏi ba cõi!
danh lợi bận rộn! Vì hưởng thụ dằng dặc xao nhãng, phân tán buông lung, tâm
chẳng ở tại đạo, cần công phu tu tập cũng lúc có lúc không, dứt quãng hay tới
tấp bất thường, thường bị động chuyển trong sự vui, giận, buồn, ưa… đối việc
thuận ý thì tâm sinh khấp khởi vui reo, đối với việc nghịch ý thì khởi tâm ghét
hận (trôi nổi theo sóng phiền não, làm sao bình tâm tịnh ý mà xét việc sai
đúng), thì làm sao có thể nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật. Đâu rõ biết ba
tạng, mười hai bộ kinh, biện tài không ngăn ngại, danh tướng thì bàn luận lung
tung, biết rõ mà không làm, nói rõ mà không luyện, thì ra không khỏi ba cõi!
NIỆM PHẬT CÓ NỀ NẾP
Mọi người đều có thể hiểu được ý tứ của
câu “Niệm Phật có nề nếp”, tức là toàn tâm toàn lực niệm Phật mà tâm không xen
thêm việc khác, lúc có phiền não – niệm Phật, lúc hoan hỉ – cũng niệm Phật, ban
ngày – niệm Phật, ban đêm – niệm Phật, lúc bận rộn – niệm Phật, lúc nhàn rỗi –
cũng niệm Phật, không lúc nào là không khắc sâu và không ở tại câu niệm Phật.
Đại khái là mọi người liệu hiểu được ý nghĩa vấn đề niệm Phật có nề nếp (thói
quen). Kỳ thật đây chỉ là nêu lên sự công phu trên bề mặt, mà chưa phải là niệm
Phật trên vấn đề “Đức hạnh”. Tu hành mà chỉ ở mỗi sự biểu hiện của công phu bên
ngoài, mà không có sự nổ lực thăng tiến ở nơi “đức hạnh”, nghiêm trì giới luật
(năm giới, mười giới, sáu độ), thanh tịnh tâm; Thế thì, thói quen niệm Phật của
người đó cũng giống như một máy niệm Phật quay chuyển tự động, tự động niệm
hoài câu hiệu Phật, máy tự động niệm Phật tuy có thể có thói quen niệm Phật,
song không thấy có thể vãng sanh thế Cực Lạc.
câu “Niệm Phật có nề nếp”, tức là toàn tâm toàn lực niệm Phật mà tâm không xen
thêm việc khác, lúc có phiền não – niệm Phật, lúc hoan hỉ – cũng niệm Phật, ban
ngày – niệm Phật, ban đêm – niệm Phật, lúc bận rộn – niệm Phật, lúc nhàn rỗi –
cũng niệm Phật, không lúc nào là không khắc sâu và không ở tại câu niệm Phật.
Đại khái là mọi người liệu hiểu được ý nghĩa vấn đề niệm Phật có nề nếp (thói
quen). Kỳ thật đây chỉ là nêu lên sự công phu trên bề mặt, mà chưa phải là niệm
Phật trên vấn đề “Đức hạnh”. Tu hành mà chỉ ở mỗi sự biểu hiện của công phu bên
ngoài, mà không có sự nổ lực thăng tiến ở nơi “đức hạnh”, nghiêm trì giới luật
(năm giới, mười giới, sáu độ), thanh tịnh tâm; Thế thì, thói quen niệm Phật của
người đó cũng giống như một máy niệm Phật quay chuyển tự động, tự động niệm
hoài câu hiệu Phật, máy tự động niệm Phật tuy có thể có thói quen niệm Phật,
song không thấy có thể vãng sanh thế Cực Lạc.
Người không tu hành thì có thể làm
người không cần nề nếp lắm, nhưng người tu hành thì nửa chút việc cũng chẳng
nên lơ là, chẳng nên thường bị việc thế tục như: Công tác, kết hôn, sinh con,
lo gia đình, mua xe mua nhà… nhiều việc nhiều việc bận rộn! Trong tâm tham ái
dính mắc sinh – tử – yêu – hận! Nên nương theo lời dạy như pháp mà tu hành nề
nề nếp nếp, nhiên hậu mới có thể được giải thoát (sinh về thế giới Cực Lạc ở
tây phương), đây là vấn đề ý vị sâu xa, cũng là chỗ diệu nghĩa của một câu
“Niệm Phật có nề nếp” nầy. Nếu như người có thể dụng công niệm Phật phát ra
bằng miệng thì càng bổ sung được những thiếu sót trên nhân phẩm; như thế có thể
khẳng định rằng Phật giáo đồ bao gồm đại bộ phận đều được giải thoát (sinh tây)
rồi. Song đứng trên sự thật ngược lại không phải là như thế, có rất nhiều người
niệm Phật chính mình đối với chính mình không có tín tâm, lại còn thưa với thân
hữu (bạn bè thân) hãy vì mình mà lúc lâm chung niệm giúp mình một phen (người
có tín tâm đầy đủ thì không cần phải thưa gởi như thế đâu); đây chính là người
tu hành niệm Phật chẳng đủ sự thành thục, tín tâm dễ bị động lay vậy. Cũng tức
là nói rằng danh hiệu Phật bình thường ta niệm chẳng đủ thành nề nếp, trong tâm
ta bị những sự việc hoặc những ý niệm “không nề nếp” của ta chiếm lĩnh, trong
tâm tồn tại những việc thế tục so tính cưu mang dắt dẫn mãi, khiến cho ta biến
thành kẻ “miệng thì nề nếp mà tâm không nề nếp”. Cần nên biết rằng sự tình giải
thoát (sinh tây) là chẳng thể hoàn toàn nhờ vào cửa miệng là xong, càng nên
quan trọng là công phu trong tâm, nề nếp (thanh tịnh) trong tâm; trên miệng
niệm tới niệm lui đều là một câu A Di Đà Phật, miệng không biết được chính mình
có thói quen hay không, nó chỉ là phản ảnh lại nhu cầu của nội tâm mà thôi, nó
chẳng qua là công cụ phát thanh, nếu ta không dùng nó thì cũng chẳng thể ảnh
hưởng lại nội tâm; cho nên công phu trên miệng không hoàn toàn chứng minh chỗ
có nề nếp hay không, công phu trong tâm mới là chính của nề nếp. Ta nếu niệm
Phật nề nếp thì nên dùng nề nếp (thanh tịnh) trong tâm để niệm, ngàn vạn lần
xin chớ nên dùng tâm không nề nếp mà niệm đức Phật nề nếp (thanh tịnh)! Nếu thế
là hành vi tự khi dối, là chướng ngại cho việc giải thoát (sinh tây).
người không cần nề nếp lắm, nhưng người tu hành thì nửa chút việc cũng chẳng
nên lơ là, chẳng nên thường bị việc thế tục như: Công tác, kết hôn, sinh con,
lo gia đình, mua xe mua nhà… nhiều việc nhiều việc bận rộn! Trong tâm tham ái
dính mắc sinh – tử – yêu – hận! Nên nương theo lời dạy như pháp mà tu hành nề
nề nếp nếp, nhiên hậu mới có thể được giải thoát (sinh về thế giới Cực Lạc ở
tây phương), đây là vấn đề ý vị sâu xa, cũng là chỗ diệu nghĩa của một câu
“Niệm Phật có nề nếp” nầy. Nếu như người có thể dụng công niệm Phật phát ra
bằng miệng thì càng bổ sung được những thiếu sót trên nhân phẩm; như thế có thể
khẳng định rằng Phật giáo đồ bao gồm đại bộ phận đều được giải thoát (sinh tây)
rồi. Song đứng trên sự thật ngược lại không phải là như thế, có rất nhiều người
niệm Phật chính mình đối với chính mình không có tín tâm, lại còn thưa với thân
hữu (bạn bè thân) hãy vì mình mà lúc lâm chung niệm giúp mình một phen (người
có tín tâm đầy đủ thì không cần phải thưa gởi như thế đâu); đây chính là người
tu hành niệm Phật chẳng đủ sự thành thục, tín tâm dễ bị động lay vậy. Cũng tức
là nói rằng danh hiệu Phật bình thường ta niệm chẳng đủ thành nề nếp, trong tâm
ta bị những sự việc hoặc những ý niệm “không nề nếp” của ta chiếm lĩnh, trong
tâm tồn tại những việc thế tục so tính cưu mang dắt dẫn mãi, khiến cho ta biến
thành kẻ “miệng thì nề nếp mà tâm không nề nếp”. Cần nên biết rằng sự tình giải
thoát (sinh tây) là chẳng thể hoàn toàn nhờ vào cửa miệng là xong, càng nên
quan trọng là công phu trong tâm, nề nếp (thanh tịnh) trong tâm; trên miệng
niệm tới niệm lui đều là một câu A Di Đà Phật, miệng không biết được chính mình
có thói quen hay không, nó chỉ là phản ảnh lại nhu cầu của nội tâm mà thôi, nó
chẳng qua là công cụ phát thanh, nếu ta không dùng nó thì cũng chẳng thể ảnh
hưởng lại nội tâm; cho nên công phu trên miệng không hoàn toàn chứng minh chỗ
có nề nếp hay không, công phu trong tâm mới là chính của nề nếp. Ta nếu niệm
Phật nề nếp thì nên dùng nề nếp (thanh tịnh) trong tâm để niệm, ngàn vạn lần
xin chớ nên dùng tâm không nề nếp mà niệm đức Phật nề nếp (thanh tịnh)! Nếu thế
là hành vi tự khi dối, là chướng ngại cho việc giải thoát (sinh tây).
Lại nói rằng, một việc niệm Phật có nề
nếp nầy thật chẳng phải dễ, đa số mọi người thật ra rất khó mà niệm Phật có nề
nếp, tóm lại là đem Phật mình niệm thành ra ông thần tài để cầu tài, mong rằng
có thể được của tiền giàu có v.v… đây vốn là bản tính của con người sai quấy
sâu dày, nhưng ta có thể ở trong quá trình niệm Phật cầu tài, ngược lại mà xen
lẫn sự ham muốn càng nhiều của mình, khiến cho mình càng khó bỏ thoát được
vướng mắc của ham muốn, biến thành niệm Phật cầu phước báo trời người. Cho nên
niệm Phật thành nề nếp, tức là cần gội bỏ sạch hết tất cả những ý niệm ham muốn
của thế tục nầy, nhìn rõ buông cả, đem tâm nhẹ nhàn không chấp, không vọng lấy,
không vọng dùng, niệm Phật một cách chân thực tồn tại. Chẳng nên chỉ niệm Phật
trên miệng mà ngược lại trong tâm, để cho sáu dục chiếm đầy, thế thì chỗ thành
tựu mà ta niệm Phật thu hoạch được khả năng ít ỏi không đủ dùng cho ta, vì ta
đã đều để nó dụng cho việc tiền tài, giàu có, thân nhân… trên những việc
ngoài thân, mà không tập trung lực lượng để đối phó ngay cái nguồn của tất cả
phiền não (tâm) đã phát ra. Ta có thể đúng như chỗ nguyện mà được sự linh
nghiệm về tiền bạc giàu có v.v… thì ta ngược lại cũng khó chiến thắng nổi kẻ
địch rất lớn của nhân loại đó là: Tự ngã; Nó từ trong danh lợi và lòng ham muốn
mong cầu của thế gian mà thoát ra. Do vì tâm niệm của ta đã chẳng thuần tịnh
được.
nếp nầy thật chẳng phải dễ, đa số mọi người thật ra rất khó mà niệm Phật có nề
nếp, tóm lại là đem Phật mình niệm thành ra ông thần tài để cầu tài, mong rằng
có thể được của tiền giàu có v.v… đây vốn là bản tính của con người sai quấy
sâu dày, nhưng ta có thể ở trong quá trình niệm Phật cầu tài, ngược lại mà xen
lẫn sự ham muốn càng nhiều của mình, khiến cho mình càng khó bỏ thoát được
vướng mắc của ham muốn, biến thành niệm Phật cầu phước báo trời người. Cho nên
niệm Phật thành nề nếp, tức là cần gội bỏ sạch hết tất cả những ý niệm ham muốn
của thế tục nầy, nhìn rõ buông cả, đem tâm nhẹ nhàn không chấp, không vọng lấy,
không vọng dùng, niệm Phật một cách chân thực tồn tại. Chẳng nên chỉ niệm Phật
trên miệng mà ngược lại trong tâm, để cho sáu dục chiếm đầy, thế thì chỗ thành
tựu mà ta niệm Phật thu hoạch được khả năng ít ỏi không đủ dùng cho ta, vì ta
đã đều để nó dụng cho việc tiền tài, giàu có, thân nhân… trên những việc
ngoài thân, mà không tập trung lực lượng để đối phó ngay cái nguồn của tất cả
phiền não (tâm) đã phát ra. Ta có thể đúng như chỗ nguyện mà được sự linh
nghiệm về tiền bạc giàu có v.v… thì ta ngược lại cũng khó chiến thắng nổi kẻ
địch rất lớn của nhân loại đó là: Tự ngã; Nó từ trong danh lợi và lòng ham muốn
mong cầu của thế gian mà thoát ra. Do vì tâm niệm của ta đã chẳng thuần tịnh
được.
Trong “nề nếp” đã bao hàm ý nghĩa là
hướng theo Phật Đà mà học tập, nhìn chung, ngoan ngoãn chiếu theo lời dạy của
Phật Đà mà làm. Người chẳng có nề nếp, ngoài việc niệm Phật trên cữa miệng ra,
các bộ phận khác đều xa lìa tâm Phật và hạnh Phật, nên biết rằng đức Di Đà thì
không thể mang được một bộ răng của anh lúc anh lâm chung vãng sanh, cái mà
ngài mang là cái TÂM của anh, một cái tâm thanh tịnh, tâm học Ngài, nghĩ tưởng
Ngài và có nề nề nếp nếp (thói quen) niệm đến Ngài!
hướng theo Phật Đà mà học tập, nhìn chung, ngoan ngoãn chiếu theo lời dạy của
Phật Đà mà làm. Người chẳng có nề nếp, ngoài việc niệm Phật trên cữa miệng ra,
các bộ phận khác đều xa lìa tâm Phật và hạnh Phật, nên biết rằng đức Di Đà thì
không thể mang được một bộ răng của anh lúc anh lâm chung vãng sanh, cái mà
ngài mang là cái TÂM của anh, một cái tâm thanh tịnh, tâm học Ngài, nghĩ tưởng
Ngài và có nề nề nếp nếp (thói quen) niệm đến Ngài!
Niệm Phật đương nhiên có thể giải thoát
(sanh tây), chẳng thế thì cũng không thể có nhiều người xét rộng pháp môn nầy,
nhưng niệm Phật giải thoát thật ra chẳng phải là không có điều kiện, nhân vì
danh hiệu Phật ắt phải cần kết hợp với người niệm Phật, mới có thể khiến cho
một câu danh hiệu Phật phát huy có sức ứng hợp của nó; cũng tức là nói tâm của
người niệm Phật, hành vi (thân) và miệng cần phải kết hợp thành một thể; Miệng
niệm Phật, trong tâm cũng cần tưởng Phật, hành vi thì không thể trái với sự dạy
răn của Phật, đây mới là sự niệm Phật chu toàn.
(sanh tây), chẳng thế thì cũng không thể có nhiều người xét rộng pháp môn nầy,
nhưng niệm Phật giải thoát thật ra chẳng phải là không có điều kiện, nhân vì
danh hiệu Phật ắt phải cần kết hợp với người niệm Phật, mới có thể khiến cho
một câu danh hiệu Phật phát huy có sức ứng hợp của nó; cũng tức là nói tâm của
người niệm Phật, hành vi (thân) và miệng cần phải kết hợp thành một thể; Miệng
niệm Phật, trong tâm cũng cần tưởng Phật, hành vi thì không thể trái với sự dạy
răn của Phật, đây mới là sự niệm Phật chu toàn.
Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy rằng:
“…Chánh tâm chánh ý, trai giới
thanh tịnh, một ngày một đêm, hơn cả trăm năm làm thiện ở cõi nước Vô Lượng
Thọ, bỡi vì sao? Vì cõi nước kia là Vô Vi tự nhiên, sẵn chứa các việc thiện,
không có việc ác dù nhỏ; ở cõi nầy tu thiện, mười ngày mười đêm, hơn cả trăm
năm làm việc thiện ở các nước Phật phương khác, bỡi vì sao? Ở các nước Phật
khác người làm việc thiện rất nhiều, người làm ác rất ít ỏi, phước đức tự
nhiên, không có chỗ tạo ra ác. Chỉ vì cõi nầy việc ác rất nhiều, không có tự
nhiên, siêng nơi khổ cầu ham muốn, chuyển đến dối gạt nhau, tâm nhọc nhằn thân khốn
cùng, uống đắng ăn độc, việc ác như thế, chưa từng yên dứt”.
thanh tịnh, một ngày một đêm, hơn cả trăm năm làm thiện ở cõi nước Vô Lượng
Thọ, bỡi vì sao? Vì cõi nước kia là Vô Vi tự nhiên, sẵn chứa các việc thiện,
không có việc ác dù nhỏ; ở cõi nầy tu thiện, mười ngày mười đêm, hơn cả trăm
năm làm việc thiện ở các nước Phật phương khác, bỡi vì sao? Ở các nước Phật
khác người làm việc thiện rất nhiều, người làm ác rất ít ỏi, phước đức tự
nhiên, không có chỗ tạo ra ác. Chỉ vì cõi nầy việc ác rất nhiều, không có tự
nhiên, siêng nơi khổ cầu ham muốn, chuyển đến dối gạt nhau, tâm nhọc nhằn thân khốn
cùng, uống đắng ăn độc, việc ác như thế, chưa từng yên dứt”.
NHẤT NIỆM LÚC LÂM CHUNG RẤT LÀ QUAN
TRỌNG
TRỌNG
Chúng ta niệm Phật phải toàn lực
ở lúc lâm chung, nhất niệm chánh niệm (niệm Phật tưởng Phật) thì niệm Phật vãng
sanh; nhất niệm tà niệm (tưởng việc thế gian, một khi tưởng việc thế gian thì
tâm điên đảo) thì rơi vào luân hồi. Sớm niệm tối niệm một câu danh hiệu Phật,
đi niệm ngồi niệm… cho đến cả ngày cả năm niệm niệm không thôi, không lúc nào
chẳng là thuần thục câu niệm nầy đến khi lâm chung nhất niệm mới thôi. Do nhất
niệm nầy chỗ liên hệ rất là quan trọng, nó dắt hồn dẫn phách, tạo mạng sanh
thân, chẳng việc gì chẳng do đây, nên niệm thiện thì lên thiên đàng, niệm ác
thì xuống địa ngục, niệm ma bèn thành ma, niệm Phật lại thành Phật. Nếu bình thường
chẳng niệm nhiều, huân tập chín chắn sắc bén, trong tâm có Phật, đến lúc lâm
chung thì sớm đã quên mất chánh niệm niệm Phật, vẫn phải theo các niệm thiện ác
đã huân tập chín muồi từ nhiều đời mà đi, luân hồi khắp sáu nẻo đều từ một niệm
nầy làm chủ. Nếu chuyên chú ở nơi đức Phật, thì thân tuy chết mất, mà thần thức
trong sáng, tức theo nơi nhất niệm mà vãng sanh về thế giới Cực Lạc vậy.
ở lúc lâm chung, nhất niệm chánh niệm (niệm Phật tưởng Phật) thì niệm Phật vãng
sanh; nhất niệm tà niệm (tưởng việc thế gian, một khi tưởng việc thế gian thì
tâm điên đảo) thì rơi vào luân hồi. Sớm niệm tối niệm một câu danh hiệu Phật,
đi niệm ngồi niệm… cho đến cả ngày cả năm niệm niệm không thôi, không lúc nào
chẳng là thuần thục câu niệm nầy đến khi lâm chung nhất niệm mới thôi. Do nhất
niệm nầy chỗ liên hệ rất là quan trọng, nó dắt hồn dẫn phách, tạo mạng sanh
thân, chẳng việc gì chẳng do đây, nên niệm thiện thì lên thiên đàng, niệm ác
thì xuống địa ngục, niệm ma bèn thành ma, niệm Phật lại thành Phật. Nếu bình thường
chẳng niệm nhiều, huân tập chín chắn sắc bén, trong tâm có Phật, đến lúc lâm
chung thì sớm đã quên mất chánh niệm niệm Phật, vẫn phải theo các niệm thiện ác
đã huân tập chín muồi từ nhiều đời mà đi, luân hồi khắp sáu nẻo đều từ một niệm
nầy làm chủ. Nếu chuyên chú ở nơi đức Phật, thì thân tuy chết mất, mà thần thức
trong sáng, tức theo nơi nhất niệm mà vãng sanh về thế giới Cực Lạc vậy.
Cho nên niệm thuần thục (trong tâm có
Phật) một câu: Nam Mô A Di Đà Phật, lúc mạng chung mới có thể chánh niệm hiện
tiền, tâm không điên đảo, niệm Phật vãng sanh; nếu bình thường chẳng niệm Phật
(trong tâm không có Phật), lúc mạng chung làm sao biết Phật! Lúc ấy tưởng và
niệm đều là những chuyện thế gian, lại thêm khi lâm chung bệnh nguy đau khổ rất
nhiều, hoặc sanh ý bên ngoài, hoặc tiếng kêu khóc của vợ con, thần chí thì hôn
mê, nghiệp trước thì chiêu cảm, ác nghiệp thì hiện ra, tâm hoảng hốt, ý tán
loạn, sáu thần không chủ, hoặc tham yêu cội gốc thức ái sanh tử thế gian, tà
niệm hiện ra, điên điên đảo đảo, tâm niệm Phật thế nào cũng không làm sao khởi
lên được, nghiệp lực hiện ra, bị nghiệp lực dẫn dắt vào luân hồi, cho nên biết
rằng nhất niệm lúc lâm chung rất là quan trọng, quan trọng lắm!
Phật) một câu: Nam Mô A Di Đà Phật, lúc mạng chung mới có thể chánh niệm hiện
tiền, tâm không điên đảo, niệm Phật vãng sanh; nếu bình thường chẳng niệm Phật
(trong tâm không có Phật), lúc mạng chung làm sao biết Phật! Lúc ấy tưởng và
niệm đều là những chuyện thế gian, lại thêm khi lâm chung bệnh nguy đau khổ rất
nhiều, hoặc sanh ý bên ngoài, hoặc tiếng kêu khóc của vợ con, thần chí thì hôn
mê, nghiệp trước thì chiêu cảm, ác nghiệp thì hiện ra, tâm hoảng hốt, ý tán
loạn, sáu thần không chủ, hoặc tham yêu cội gốc thức ái sanh tử thế gian, tà
niệm hiện ra, điên điên đảo đảo, tâm niệm Phật thế nào cũng không làm sao khởi
lên được, nghiệp lực hiện ra, bị nghiệp lực dẫn dắt vào luân hồi, cho nên biết
rằng nhất niệm lúc lâm chung rất là quan trọng, quan trọng lắm!
Phải quán sát thân nầy như hư không.
Thân vì nghiệp chướng từ vô thỉ trở lại đây sinh ra, nghiệp chướng thì do vọng
tưởng mà khởi. Chánh niệm sanh, thì vọng tưởng diệt, nghiệp chướng tiêu trừ.
Thân vì nghiệp chướng từ vô thỉ trở lại đây sinh ra, nghiệp chướng thì do vọng
tưởng mà khởi. Chánh niệm sanh, thì vọng tưởng diệt, nghiệp chướng tiêu trừ.
Phải biết rằng bệnh khổ vây lấy thân là
vì nghiệp báo, đây bỡi đời trước tạo ra các ác nghiệp nên đời nầy thọ báo, thấy
như quả báo nặng thọ nhận nhẹ, mình niệm Phật của mình, nhất tâm niệm Phật, lại
chẳng thấy khổ. Chẳng được để bệnh làm khổ, tâm sanh phiền não vọng tưởng. Vọng
tưởng một khi khởi lên thì nghiệp chướng liền đến, mà nghiệp chướng đến thì tâm
liền điên đảo.
vì nghiệp báo, đây bỡi đời trước tạo ra các ác nghiệp nên đời nầy thọ báo, thấy
như quả báo nặng thọ nhận nhẹ, mình niệm Phật của mình, nhất tâm niệm Phật, lại
chẳng thấy khổ. Chẳng được để bệnh làm khổ, tâm sanh phiền não vọng tưởng. Vọng
tưởng một khi khởi lên thì nghiệp chướng liền đến, mà nghiệp chướng đến thì tâm
liền điên đảo.
Vì sao niệm Phật nhiều như thế mà có
người chẳng được vãng sanh ư? Bỡi vì là “TÍN – HẠNH – NGUYỆN chẳng đầy đủ nên
lúc mạng chung tâm sanh điên đảo”, nghiệp lực hiện ra, bỡi bị nghiệp lực dẫn đi
chuyển đến trong sáu đường.
người chẳng được vãng sanh ư? Bỡi vì là “TÍN – HẠNH – NGUYỆN chẳng đầy đủ nên
lúc mạng chung tâm sanh điên đảo”, nghiệp lực hiện ra, bỡi bị nghiệp lực dẫn đi
chuyển đến trong sáu đường.
Cho nên niệm Phật cần phải nhất tâm
chuyên niệm, niệm nhiều, niệm cho nề nếp để dưỡng thành thói quen niệm Phật,
trong tâm có Phật, lúc mạng chung mới có thể chánh niệm hiện tiền, tâm không
điên đảo mà niệm Phật vãng sanh.
chuyên niệm, niệm nhiều, niệm cho nề nếp để dưỡng thành thói quen niệm Phật,
trong tâm có Phật, lúc mạng chung mới có thể chánh niệm hiện tiền, tâm không
điên đảo mà niệm Phật vãng sanh.
HỌC PHẬT CẦN KỊP THỜI
Học Phật tu hành là việc rất yên vui
của người đời, cũng là việc đáng quí khó có thể được. Căn cứ pháp của Phật dạy
rằng: “Thân người khó được, quốc gia trung tâm (nơi có Phật pháp) khó sinh
vào, Phật pháp khó nghe, Bậc đại thiện tri thức khó gặp”. Một tầng lại khó
hơn một tầng. Trong kinh lấy người nghe được Phật pháp khó cũng giống như ví dụ
con rùa mù gặp được lỗ bộng cây nổi, chín chắn mà nghĩ lại, thật là chẳng sai
một chút nào! Hiện tại nhân khẩu trên thế giới nhiều như thế nào, chân chánh có
thể nghe được Phật pháp thì có bao nhiêu người ư? Người trên thế giới có thể
vào đạo Phật học Phật tu hành, ở trong sóng của biển người, thực tại là số ít
trong số ít. Người học Phật tu hành đại khái là như đây không dễ dàng, chỉ khó
như đây mới đáng quí, nhưng vì sao có những người rốt cuộc đem việc đó cho là
việc dư thừa, rồi thì tránh né chỉ sợ rằng chẳng kịp? Đây chính là vấn đề rất ý
vị! Thật có phải là nhân duyên chưa tới không?
của người đời, cũng là việc đáng quí khó có thể được. Căn cứ pháp của Phật dạy
rằng: “Thân người khó được, quốc gia trung tâm (nơi có Phật pháp) khó sinh
vào, Phật pháp khó nghe, Bậc đại thiện tri thức khó gặp”. Một tầng lại khó
hơn một tầng. Trong kinh lấy người nghe được Phật pháp khó cũng giống như ví dụ
con rùa mù gặp được lỗ bộng cây nổi, chín chắn mà nghĩ lại, thật là chẳng sai
một chút nào! Hiện tại nhân khẩu trên thế giới nhiều như thế nào, chân chánh có
thể nghe được Phật pháp thì có bao nhiêu người ư? Người trên thế giới có thể
vào đạo Phật học Phật tu hành, ở trong sóng của biển người, thực tại là số ít
trong số ít. Người học Phật tu hành đại khái là như đây không dễ dàng, chỉ khó
như đây mới đáng quí, nhưng vì sao có những người rốt cuộc đem việc đó cho là
việc dư thừa, rồi thì tránh né chỉ sợ rằng chẳng kịp? Đây chính là vấn đề rất ý
vị! Thật có phải là nhân duyên chưa tới không?
Có người nói: Hiện tại ta không có rảnh
tu hành, cũng không rảnh niệm Phật. Chúng ta một ngày hai mươi bốn tiếng đồng
hồ, thật ra không có rảnh rang một chút sao? Không phải thế, đều là vì danh lợi
và dục vọng chất đầy cả trong đầu, trong đó có rảnh không? Người có tín tâm lấy
Phật pháp làm của chí bảo, người không tín tâm đem Phật pháp làm vật phẩm tiêu
khiển lúc nhàn rổi! Có thể thọ dụng Phật pháp hay không cũng ở trong đây.
tu hành, cũng không rảnh niệm Phật. Chúng ta một ngày hai mươi bốn tiếng đồng
hồ, thật ra không có rảnh rang một chút sao? Không phải thế, đều là vì danh lợi
và dục vọng chất đầy cả trong đầu, trong đó có rảnh không? Người có tín tâm lấy
Phật pháp làm của chí bảo, người không tín tâm đem Phật pháp làm vật phẩm tiêu
khiển lúc nhàn rổi! Có thể thọ dụng Phật pháp hay không cũng ở trong đây.
Lại có người nói, mức độ của ta sáu
mươi tuổi về sau mới học Phật, hiện tại còn chưa phải là lúc. Người nói những
lời nầy, có đáng hay không – Khi đến tuổi sáu mươi thật sự học Phật, đương
nhiên là rất có vấn đề, bỡi vì trong đầu của anh ta trang bị đầy cả tiền bạc
giàu có, quyền thế, danh vọng địa vị, nam nữ, ăn uống… ham muốn những vật
chất hưởng thụ, sợ sệt lắm sau khi học Phật những vấn đề nầy thỏa mãn không
thành, nên quyết cần nhân cơ hội lúc còn thanh niên trẻ khỏe mà lăn lộn trong
năm dục, đợi đến khi tuổi tác già rồi, thể lực suy yếu, lúc không còn khí lực
vui chơi, muốn suy nghĩ học Phật tu hành, mà tâm học Phật của anh ta chẳng
thuần, ý lại không chánh, tâp khí tâm bệnh sửa mà không thể đổi, vấn đề lợi ích
Phật pháp dẫu có được cũng quyết chẳng thể to lớn.
mươi tuổi về sau mới học Phật, hiện tại còn chưa phải là lúc. Người nói những
lời nầy, có đáng hay không – Khi đến tuổi sáu mươi thật sự học Phật, đương
nhiên là rất có vấn đề, bỡi vì trong đầu của anh ta trang bị đầy cả tiền bạc
giàu có, quyền thế, danh vọng địa vị, nam nữ, ăn uống… ham muốn những vật
chất hưởng thụ, sợ sệt lắm sau khi học Phật những vấn đề nầy thỏa mãn không
thành, nên quyết cần nhân cơ hội lúc còn thanh niên trẻ khỏe mà lăn lộn trong
năm dục, đợi đến khi tuổi tác già rồi, thể lực suy yếu, lúc không còn khí lực
vui chơi, muốn suy nghĩ học Phật tu hành, mà tâm học Phật của anh ta chẳng
thuần, ý lại không chánh, tâp khí tâm bệnh sửa mà không thể đổi, vấn đề lợi ích
Phật pháp dẫu có được cũng quyết chẳng thể to lớn.
Có những người tuổi trẻ lầm cho là niệm
Phật chẳng cần sớm, chẳng cần phải niệm ở hiện tại, vì hiện tại còn phải chuẩn
bị làm rất nhiều việc, lại nói ra rất nhiều lý do, lầm cho pháp môn niệm Phật
rất là cạn cợt, coi khinh một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, ngược lại
chưa nghĩ ra lời dạy của người xưa:
Phật chẳng cần sớm, chẳng cần phải niệm ở hiện tại, vì hiện tại còn phải chuẩn
bị làm rất nhiều việc, lại nói ra rất nhiều lý do, lầm cho pháp môn niệm Phật
rất là cạn cợt, coi khinh một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, ngược lại
chưa nghĩ ra lời dạy của người xưa:
“Chớ đợi tuổi già mới học Phật
Mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh”
Chớ nên đợi lúc tuổi già nua tinh thần
sức lực suy yếu, bốn đại chẳng điều hòa, bệnh đau nhiều nỗi, ở trong phiền não
vì tham lam khốn đốn, nghiệp ác xâm lấn, danh lợi ham muốn lại khó buông bỏ,
nói tu hành (niệm Phật) đâu phải là việc dễ, niệm Phật chẳng có thói quen, nề
nếp, thì trong tâm không có Phật, lúc mạng chung làm sao có thể “Chánh niệm
hiện tiền”, tâm chẳng điên đảo? Niệm Phật vãng sanh? Cho nên càng là tuổi trẻ
thì càng nên học Phật (niệm Phật), nuôi thành thói quen niệm Phật, trong tâm có
Phật, nhất tâm bất loạn!
sức lực suy yếu, bốn đại chẳng điều hòa, bệnh đau nhiều nỗi, ở trong phiền não
vì tham lam khốn đốn, nghiệp ác xâm lấn, danh lợi ham muốn lại khó buông bỏ,
nói tu hành (niệm Phật) đâu phải là việc dễ, niệm Phật chẳng có thói quen, nề
nếp, thì trong tâm không có Phật, lúc mạng chung làm sao có thể “Chánh niệm
hiện tiền”, tâm chẳng điên đảo? Niệm Phật vãng sanh? Cho nên càng là tuổi trẻ
thì càng nên học Phật (niệm Phật), nuôi thành thói quen niệm Phật, trong tâm có
Phật, nhất tâm bất loạn!
Có người nói: Học Phật (niệm Phật) là
tốt, nhưng nhà người ta mỗi ngày bận rộn đến tối, mỗi năm bận rộn tới đầu, chỉ
có thể được cái no ấm, đã không tiền làm công đức, cũng không có thời gian rảnh
rổi để nghe kinh, niệm Phật. Cuộc sống cần khẩn trương, niệm Phật tuy cũng tốt,
nhưng không phải là đồ uống miếng ăn, hãy đợi đợi ta phát tài rồi mới niệm Phật
(!)
tốt, nhưng nhà người ta mỗi ngày bận rộn đến tối, mỗi năm bận rộn tới đầu, chỉ
có thể được cái no ấm, đã không tiền làm công đức, cũng không có thời gian rảnh
rổi để nghe kinh, niệm Phật. Cuộc sống cần khẩn trương, niệm Phật tuy cũng tốt,
nhưng không phải là đồ uống miếng ăn, hãy đợi đợi ta phát tài rồi mới niệm Phật
(!)
Có người cho rằng: Tôi là công nhân
viên chức, chỗ ở là nhà chung, chẳng thuận tiện. Cúng Phật lạy Phật hẳn nhiên
là không thuận tiện, niệm Phật cũng là làm rối sự yên ninh của người khác, tôi
làm không được. Nơi công cộng nhiều sự bất tiện, thật ra chẳng sai. Nhưng làm
việc gì cũng đều có cách thông suốt của nó, nếu biết niệm Phật là lớn, chỉ cần
“thành tâm” mặc niệm (niệm thầm), bèn có hiệu quả lớn, mà chẳng nhất định phải
là niệm ra tiếng.
viên chức, chỗ ở là nhà chung, chẳng thuận tiện. Cúng Phật lạy Phật hẳn nhiên
là không thuận tiện, niệm Phật cũng là làm rối sự yên ninh của người khác, tôi
làm không được. Nơi công cộng nhiều sự bất tiện, thật ra chẳng sai. Nhưng làm
việc gì cũng đều có cách thông suốt của nó, nếu biết niệm Phật là lớn, chỉ cần
“thành tâm” mặc niệm (niệm thầm), bèn có hiệu quả lớn, mà chẳng nhất định phải
là niệm ra tiếng.
Có người nói rằng: Niệm Phật là pháp
của ông già bà lão và người độn căn tu. Hễ gặp những luận điệu như thế nầy cần
phải đề cao cảnh giác, chớ nên vì những miệng lưỡi bén nhọn đó chuyển ý. Trong
sử Phật giáo chư vị Đại đức tôn kính, vì sao sau khi thấu triệt và giác ngộ
được đạo lý, đều ra sức suy tôn niệm Phật cầu sanh tịnh độ? Như vậy chư vị Đại
đức đâu phải là người tầm thường kẻ độn căn! Sự – Lý không nói cũng tự rõ,
chúng ta phải tự suy tư. Một điều khác, đó là xưa nay người thành tựu trong
niệm Phật rất nhiều. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thương xót chúng hữu tình, chỉ
bày cho thời kỳ mạt pháp, pháp môn niệm Phật rất là khế họp căn cơ chúng sinh,
pháp tu đơn giản rõ ràng, đạo tràng khắp nơi thuận tiện thích ứng, rảnh rổi bận
rộn đều có thể tu, hễ phàm là người chí thành niệm Phật, đều tương ứng với đại
bi đại nguyện của đức Phật A Di Đà.
của ông già bà lão và người độn căn tu. Hễ gặp những luận điệu như thế nầy cần
phải đề cao cảnh giác, chớ nên vì những miệng lưỡi bén nhọn đó chuyển ý. Trong
sử Phật giáo chư vị Đại đức tôn kính, vì sao sau khi thấu triệt và giác ngộ
được đạo lý, đều ra sức suy tôn niệm Phật cầu sanh tịnh độ? Như vậy chư vị Đại
đức đâu phải là người tầm thường kẻ độn căn! Sự – Lý không nói cũng tự rõ,
chúng ta phải tự suy tư. Một điều khác, đó là xưa nay người thành tựu trong
niệm Phật rất nhiều. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thương xót chúng hữu tình, chỉ
bày cho thời kỳ mạt pháp, pháp môn niệm Phật rất là khế họp căn cơ chúng sinh,
pháp tu đơn giản rõ ràng, đạo tràng khắp nơi thuận tiện thích ứng, rảnh rổi bận
rộn đều có thể tu, hễ phàm là người chí thành niệm Phật, đều tương ứng với đại
bi đại nguyện của đức Phật A Di Đà.
Đây đều là những vấn đề không rõ biết
pháp môn học Phật (trì danh niệm Phật) cho là học Phật (niệm Phật) cần tụng
kinh, hoặc ngồi yên, hoặc cần tiền làm công đức v.v… pháp môn niệm Phật chỉ
giữ một câu danh hiệu: “Nam Mô A Di Đà Phật”, đã đơn giản, lại thẳng tắc, không
tiền làm công đức cũng được; người giàu niệm, người nghèo cũng có thể niệm, lúc
rảnh rỗi niệm, lúc bận rộn cũng có thể niệm, là một phương pháp tùy lúc tùy nơi
đều có thể niệm.
pháp môn học Phật (trì danh niệm Phật) cho là học Phật (niệm Phật) cần tụng
kinh, hoặc ngồi yên, hoặc cần tiền làm công đức v.v… pháp môn niệm Phật chỉ
giữ một câu danh hiệu: “Nam Mô A Di Đà Phật”, đã đơn giản, lại thẳng tắc, không
tiền làm công đức cũng được; người giàu niệm, người nghèo cũng có thể niệm, lúc
rảnh rỗi niệm, lúc bận rộn cũng có thể niệm, là một phương pháp tùy lúc tùy nơi
đều có thể niệm.
Biết chân chánh, thấy chân chánh, đó là
vấn đề rất quan trọng. Nếu cái biết và thấy (tri kiến) của con người không chân
chánh, thì dễ lầm lạc vào ngoại đạo, ngoài tâm chấp lấy pháp, tất cả mê tình
nương tà kiến mà khởi, tức chỗ trụ làm nhân chịu sự trói buột, rất sợ ma, hoặc
nguyện lực có chỗ thiếu sót. Cho nên nói là nguyên nhân không Chơn thì chuốt
lấy kết quả gập ghềnh, nếu người tu hành tri kiến thuần chánh, chuyên chí niệm
Phật, sanh về nước Cực Lạc, có thể từ phàm phu thẳng đến quả Phật.
vấn đề rất quan trọng. Nếu cái biết và thấy (tri kiến) của con người không chân
chánh, thì dễ lầm lạc vào ngoại đạo, ngoài tâm chấp lấy pháp, tất cả mê tình
nương tà kiến mà khởi, tức chỗ trụ làm nhân chịu sự trói buột, rất sợ ma, hoặc
nguyện lực có chỗ thiếu sót. Cho nên nói là nguyên nhân không Chơn thì chuốt
lấy kết quả gập ghềnh, nếu người tu hành tri kiến thuần chánh, chuyên chí niệm
Phật, sanh về nước Cực Lạc, có thể từ phàm phu thẳng đến quả Phật.
Này các bạn tuổi trẻ! Nếu thật sự muốn
lúc mạng chung vãng sanh về thế giới Cực Lạc, học Phật tu hành (niệm Phật) thì
càng sớm càng tốt, nuôi thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật, khiến
vọng tưởng không sinh, phiền não dứt trừ, vãng sanh Cực Lạc thì có cơ sở chắc
chắn. Chẳng đợi tuổi già mới học Phật, vì tham lam vây quanh, nghiệp ác xâm
lấn, danh lợi ham muốn v.v… buông không rời được, nói vãng sanh thế giới Cực
Lạc đâu phải dễ, một khi mất thân người, lại rơi rớt ở trong sáu đường thì có
được vui không!
lúc mạng chung vãng sanh về thế giới Cực Lạc, học Phật tu hành (niệm Phật) thì
càng sớm càng tốt, nuôi thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật, khiến
vọng tưởng không sinh, phiền não dứt trừ, vãng sanh Cực Lạc thì có cơ sở chắc
chắn. Chẳng đợi tuổi già mới học Phật, vì tham lam vây quanh, nghiệp ác xâm
lấn, danh lợi ham muốn v.v… buông không rời được, nói vãng sanh thế giới Cực
Lạc đâu phải dễ, một khi mất thân người, lại rơi rớt ở trong sáu đường thì có
được vui không!
PHÁP NIỆM NIỆM PHẬT
Vì cần thích ứng hoàn cảnh và tâm cảnh
niệm Phật mà khởi lên cái nhìn thấy, vì cần thích ứng với căn khí của người
niệm Phật mà có các việc không đồng. Lúc nguời tu hành niệm Phật có thể lựa
chọn phương pháp thích hợp cho mình rồi mới thực hành. Nếu là niệm được một
thời gian mà cảm thấy phương pháp nầy không thể trấn định tâm cảnh lúc bấy giờ,
bèn có thể đổi một phương pháp, như thế một lần đổi lại một một lần đổi, đều
không có gì chẳng được, chỉ cần thời gian này có thể “định tâm” dẹp trừ vọng
tưởng tạp niệm thì là phương pháp tốt cho thời gian nầy. Thí như trị bệnh, chỉ
cần trị lành được bệnh tức là thuốc hay đối với chứng bệnh. Vọng tưởng của
chúng sinh là bệnh, danh hiệu Phật là thuốc, có thể trừ được cố tật, đó là diệu
dược.
niệm Phật mà khởi lên cái nhìn thấy, vì cần thích ứng với căn khí của người
niệm Phật mà có các việc không đồng. Lúc nguời tu hành niệm Phật có thể lựa
chọn phương pháp thích hợp cho mình rồi mới thực hành. Nếu là niệm được một
thời gian mà cảm thấy phương pháp nầy không thể trấn định tâm cảnh lúc bấy giờ,
bèn có thể đổi một phương pháp, như thế một lần đổi lại một một lần đổi, đều
không có gì chẳng được, chỉ cần thời gian này có thể “định tâm” dẹp trừ vọng
tưởng tạp niệm thì là phương pháp tốt cho thời gian nầy. Thí như trị bệnh, chỉ
cần trị lành được bệnh tức là thuốc hay đối với chứng bệnh. Vọng tưởng của
chúng sinh là bệnh, danh hiệu Phật là thuốc, có thể trừ được cố tật, đó là diệu
dược.
1 – Niệm
to tiếng: Là phép niệm mở to cổ họng, phép niệm đó chỉ giây lát thôi, ngại
vấn đề hao khí không thể trì lâu, chỉ đối trị với hôn ám nặng nề (hôn trầm),
biếng nhát mỏi mệt (giải đãi), vọng tưởng, hiệu qủa rất là rõ ràng. Nhân vì
niệm to tiếng có thể sảng khoái đầu óc, chấn chỉnh tinh thần, nhưng không nên
niệm lâu, niệm lâu sẽ làm thương tổn nguyên khí và đau cổ khan giọng… tâm
bệnh phát sinh. Lúc niệm to tiếng cần chú ý, chẳng nên làm trở ngại an ninh của
người khác mà chuốt lấy sự chán ghét, như thế không có tâm Từ bi.
to tiếng: Là phép niệm mở to cổ họng, phép niệm đó chỉ giây lát thôi, ngại
vấn đề hao khí không thể trì lâu, chỉ đối trị với hôn ám nặng nề (hôn trầm),
biếng nhát mỏi mệt (giải đãi), vọng tưởng, hiệu qủa rất là rõ ràng. Nhân vì
niệm to tiếng có thể sảng khoái đầu óc, chấn chỉnh tinh thần, nhưng không nên
niệm lâu, niệm lâu sẽ làm thương tổn nguyên khí và đau cổ khan giọng… tâm
bệnh phát sinh. Lúc niệm to tiếng cần chú ý, chẳng nên làm trở ngại an ninh của
người khác mà chuốt lấy sự chán ghét, như thế không có tâm Từ bi.
2 – Niệm
nhỏ tiếng: Niệm nhỏ tiếng thì khó nhiếp vọng tâm vọng niệm, thời gian thì
có thể niệm lâu được nhưng dễ bị hôn trầm. Lúc tinh thần hưng phấn, người và
cảnh không có sự trở ngại lại có thể niệm to tiếng.
nhỏ tiếng: Niệm nhỏ tiếng thì khó nhiếp vọng tâm vọng niệm, thời gian thì
có thể niệm lâu được nhưng dễ bị hôn trầm. Lúc tinh thần hưng phấn, người và
cảnh không có sự trở ngại lại có thể niệm to tiếng.
3 – Niệm
Kim Cang: Tức là miệng môi máy động, nửa có tiếng nửa im lặng, âm thanh
phát ra giữa môi và răng để chính mình nghe được thích nghi; người hành giả một
mặt niệm, một mặt dùng tai để nghe, bất luận là sáu hay bốn chữ, chỉ cần từng
chữ từng câu nghe được rõ ràng không sai chạy, tự nhiên tâm định. Pháp niệm nầy
hiệu lực rất lớn, cho nên dùng từ Kim Cang làm ví dụ mà đặt tên.
Kim Cang: Tức là miệng môi máy động, nửa có tiếng nửa im lặng, âm thanh
phát ra giữa môi và răng để chính mình nghe được thích nghi; người hành giả một
mặt niệm, một mặt dùng tai để nghe, bất luận là sáu hay bốn chữ, chỉ cần từng
chữ từng câu nghe được rõ ràng không sai chạy, tự nhiên tâm định. Pháp niệm nầy
hiệu lực rất lớn, cho nên dùng từ Kim Cang làm ví dụ mà đặt tên.
Ba cách trên đây là nối kết với duyên
bên ngoài.
bên ngoài.
4 – Niệm
thầm (mặt niệm): Nếu to tiếng, nhỏ tiếng đều không thích nghi, niệm Kim
Cang vẫn còn ngại dấu vết; hoặc là chỗ nhơ uế không sạch sẽ, cho đến tắm rửa,
đại tiểu tiện, lúc người ồn ào, không nên niệm ra tiếng, chỉ còn cách là niệm
thuần dụng tâm. Mặc niệm chữ nhiều khó niệm, niệm bốn chữ, ở trong tâm thức của
hành giả mới có sự sáng suốt rõ ràng.
thầm (mặt niệm): Nếu to tiếng, nhỏ tiếng đều không thích nghi, niệm Kim
Cang vẫn còn ngại dấu vết; hoặc là chỗ nhơ uế không sạch sẽ, cho đến tắm rửa,
đại tiểu tiện, lúc người ồn ào, không nên niệm ra tiếng, chỉ còn cách là niệm
thuần dụng tâm. Mặc niệm chữ nhiều khó niệm, niệm bốn chữ, ở trong tâm thức của
hành giả mới có sự sáng suốt rõ ràng.
5 – Niệm
nhớ tưởng: Tức là tâm niệm, miệng – môi – lưỡi đều không động, tâm niệm tất
cả rõ ràng, lúc nghe trở lại tiếng của tai rõ rõ ràng ràng thì vọng tưởng khởi,
ắt cần phải nhiếp tâm, thấy cảnh không duyên, tâm mới có thể định, mới là trên
đường niệm Phật, Nếu không như vậy tưởng khởi lên, đó là niệm Phật trống rỗng,
việc vãng sanh e rằng không đủ sức!
nhớ tưởng: Tức là tâm niệm, miệng – môi – lưỡi đều không động, tâm niệm tất
cả rõ ràng, lúc nghe trở lại tiếng của tai rõ rõ ràng ràng thì vọng tưởng khởi,
ắt cần phải nhiếp tâm, thấy cảnh không duyên, tâm mới có thể định, mới là trên
đường niệm Phật, Nếu không như vậy tưởng khởi lên, đó là niệm Phật trống rỗng,
việc vãng sanh e rằng không đủ sức!
Hai cách trên là nối kết với sự huân
tập bên trong.
tập bên trong.
6 – Niệm
truy đảnh (tiếp câu): Là dùng phương pháp niệm Kim Cang, nhưng giữa chữ và
chữ, giữa câu và câu, liên tiếp liền lạc nhau rất là nghiêm túc, hình như là
một chữ đuổi theo một chữ, một câu gối đầu một câu, khoảng giữa không có chỗ hở
đứt, cho nên gọi là “truy đảnh”. Lúc nầy trong lòng khẩn trương, tâm và miệng
đều tiến đến câu niệm, cho nên vọng tưởng tạm thời lắng lặng.
truy đảnh (tiếp câu): Là dùng phương pháp niệm Kim Cang, nhưng giữa chữ và
chữ, giữa câu và câu, liên tiếp liền lạc nhau rất là nghiêm túc, hình như là
một chữ đuổi theo một chữ, một câu gối đầu một câu, khoảng giữa không có chỗ hở
đứt, cho nên gọi là “truy đảnh”. Lúc nầy trong lòng khẩn trương, tâm và miệng
đều tiến đến câu niệm, cho nên vọng tưởng tạm thời lắng lặng.
7 – Niệm
ngồi yên: (tĩnh thổ thiền): Là xếp bằng ngồi ngay ngắn, trạng thái thoải
mái, thân cần phải chính ngay, không lắc lư thân, nên thuận với tự nhiên, không
gồng lưng ưỡn người, để khỏi bị khí nóng bốc lên, cũng chẳng nên cong lưng cúi
đầu, lưỡi tì vào hàm trên, nếu tiết nước dãi thì từ từ nuốt xuống yết hầu, khép
hờ mắt, lặng nhìn ngay sống mũi. Ngồi yên nghĩ tưởng niệm Phật, chẳng phải là
tham thiền, cũng chẳng phải là chỉ quán, có thể ngồi lâu dài. Hành giả khi mới
ngồi, do vọng tưởng nhiều hơn niệm Phật, do niệm tạp nhiễm nhiều hơn niệm tịnh
sạch; Lúc nầy thì nên phải dọn trừ đi muôn duyên, buông bỏ tất cả, nhiếp cả sáu
căn. Sớm tối mỗi lúc ngồi một lần, thời gian còn lại khác nên nhớ tưởng niệm
Phật. Niệm Phật như thế, thì hiệu quả của việc thu được tăng hơn nữa. Lâu xa về
sau, thì tùy lúc tùy nơi, một câu danh hiệu Phật, lúc miệng chẳng thể niệm thì
tâm cũng tại niệm, không niệm mà tự niệm, ở nơi niệm liên tục kỹ càng không
dứt, mới là trên đường niệm Phật. Niệm ngồi yên, chẳng dùng chuỗi để niệm, cũng
chẳng nhớ số lượng, chỉ cần có niệm thì tốt. Nhưng trong công khóa sớm tối nhất
định phải niệm ra tiếng, có thể niệm to tiếng càng tốt. Nếu ở trong nguy nạn
thì nên phát tiếng niệm to, lúc nầy chẳng nên so kể là chỗ nhơ uế. Đến lúc mạng
chung cũng cần phải niệm ra tiếng, có thể niệm to tiếng rất tốt, cần phải nhớ!
Phải nhớ!
ngồi yên: (tĩnh thổ thiền): Là xếp bằng ngồi ngay ngắn, trạng thái thoải
mái, thân cần phải chính ngay, không lắc lư thân, nên thuận với tự nhiên, không
gồng lưng ưỡn người, để khỏi bị khí nóng bốc lên, cũng chẳng nên cong lưng cúi
đầu, lưỡi tì vào hàm trên, nếu tiết nước dãi thì từ từ nuốt xuống yết hầu, khép
hờ mắt, lặng nhìn ngay sống mũi. Ngồi yên nghĩ tưởng niệm Phật, chẳng phải là
tham thiền, cũng chẳng phải là chỉ quán, có thể ngồi lâu dài. Hành giả khi mới
ngồi, do vọng tưởng nhiều hơn niệm Phật, do niệm tạp nhiễm nhiều hơn niệm tịnh
sạch; Lúc nầy thì nên phải dọn trừ đi muôn duyên, buông bỏ tất cả, nhiếp cả sáu
căn. Sớm tối mỗi lúc ngồi một lần, thời gian còn lại khác nên nhớ tưởng niệm
Phật. Niệm Phật như thế, thì hiệu quả của việc thu được tăng hơn nữa. Lâu xa về
sau, thì tùy lúc tùy nơi, một câu danh hiệu Phật, lúc miệng chẳng thể niệm thì
tâm cũng tại niệm, không niệm mà tự niệm, ở nơi niệm liên tục kỹ càng không
dứt, mới là trên đường niệm Phật. Niệm ngồi yên, chẳng dùng chuỗi để niệm, cũng
chẳng nhớ số lượng, chỉ cần có niệm thì tốt. Nhưng trong công khóa sớm tối nhất
định phải niệm ra tiếng, có thể niệm to tiếng càng tốt. Nếu ở trong nguy nạn
thì nên phát tiếng niệm to, lúc nầy chẳng nên so kể là chỗ nhơ uế. Đến lúc mạng
chung cũng cần phải niệm ra tiếng, có thể niệm to tiếng rất tốt, cần phải nhớ!
Phải nhớ!
Nếu vọng niệm nhiều, tức nên dùng pháp
“mười niệm nhớ số”, tức là niệm một hơi từ câu thứ nhất đến câu thứ mười thì
dừng, lại tiếp tục niệm từ câu một đến câu thứ mười, chẳng được niệm leo đến
hai, ba mươi chẳng hạn, để khỏi bị lực của tâm không kham nổi, ắt phải bị bệnh.
Nếu nhớ thẳng mười câu mà khó nhớ, có thể phân làm hai hơi, từ một đến năm, từ
sáu đến mười, chỉ nhờ vào sức nhớ của tâm mà chẳng được lần chuỗi, thì mới dốc
toàn tâm lực ở nơi một tiếng hiệu Phật, vọng niệm không dấy khởi, nhất tâm bất
loạn, lâu phải tự được; khi nhiếp được tâm thì đồng, mà khi dụng công thì rất
khác nhau. Người kia hết một hơi là một niệm, chỉ có thể sáng sớm một lần,
thường dụng công thì tổn khí thọ bệnh. Người nầy thì từ sáng đến tối, hoặc có
tiếng hoặc không tiếng, tùy lúc mau lúc chậm, đi đứng ngồi nằm đều không lúc
nào là chẳng thích nghi. Chẳng những bỏ được vọng mà rất có khả năng dưỡng
thần, so với người lần chuỗi nhớ số kia, lợi ích khác xa.
“mười niệm nhớ số”, tức là niệm một hơi từ câu thứ nhất đến câu thứ mười thì
dừng, lại tiếp tục niệm từ câu một đến câu thứ mười, chẳng được niệm leo đến
hai, ba mươi chẳng hạn, để khỏi bị lực của tâm không kham nổi, ắt phải bị bệnh.
Nếu nhớ thẳng mười câu mà khó nhớ, có thể phân làm hai hơi, từ một đến năm, từ
sáu đến mười, chỉ nhờ vào sức nhớ của tâm mà chẳng được lần chuỗi, thì mới dốc
toàn tâm lực ở nơi một tiếng hiệu Phật, vọng niệm không dấy khởi, nhất tâm bất
loạn, lâu phải tự được; khi nhiếp được tâm thì đồng, mà khi dụng công thì rất
khác nhau. Người kia hết một hơi là một niệm, chỉ có thể sáng sớm một lần,
thường dụng công thì tổn khí thọ bệnh. Người nầy thì từ sáng đến tối, hoặc có
tiếng hoặc không tiếng, tùy lúc mau lúc chậm, đi đứng ngồi nằm đều không lúc
nào là chẳng thích nghi. Chẳng những bỏ được vọng mà rất có khả năng dưỡng
thần, so với người lần chuỗi nhớ số kia, lợi ích khác xa.
Niệm có kỳ hạn: Nếu muốn được nhất tâm bất loạn, hiện
tại chứng được tam muội, cần lựa chọn một cái thất yên tịnh, bặt dứt duyên bên
ngoài, xin khách không nên nói chuyện, chỉ vì một câu danh hiệu Phật, niệm “
truy đảnh” (dùng phép niệm kim cang), hoặc phép “mười niệm nhớ số”. Không nên
to tiếng làm tổn thương khí lực, hoặc làm cho bị công hỏa lên; không được ngầm
giận mà tổn thương máu, hoặc lơ là thành thói quen, trầm tĩnh nặng nề tối tăm.
Cũng chẳng nên niệm qua loa cho hết ngày giờ, cho cùng năm mãn tháng; lúc còn
sức khỏe nên niệm mạnh mẽ một ngày một đêm đến bảy ngày bảy đêm không dừng,
tích cực nối tiếp, mạnh mẽ lại càng mạnh mẽ, tình thức dứt bặt, tự nhiên thân
tâm lại không bị loạn, tức gọi là nhất tâm bất loạn. Nếu chẳng được cảnh giới
nầy thì tuy có tạm thời thanh tịnh, cũng là nơi nghỉ tạm, lúc thanh tịnh thì có
niệm, lúc động loạn thì mất niệm, huống chi lúc lâm chung rất là đau khổ phiền
muộn thì sao? Có thể thấy rằng lúc bình thường trong cảnh yên tịnh chút chút,
thì tâm ý thức được việc ở bên, đến lúc buồn phiền thì dù ý thức thông minh làm
chủ cũng đều dùng chẳng được vậy.
tại chứng được tam muội, cần lựa chọn một cái thất yên tịnh, bặt dứt duyên bên
ngoài, xin khách không nên nói chuyện, chỉ vì một câu danh hiệu Phật, niệm “
truy đảnh” (dùng phép niệm kim cang), hoặc phép “mười niệm nhớ số”. Không nên
to tiếng làm tổn thương khí lực, hoặc làm cho bị công hỏa lên; không được ngầm
giận mà tổn thương máu, hoặc lơ là thành thói quen, trầm tĩnh nặng nề tối tăm.
Cũng chẳng nên niệm qua loa cho hết ngày giờ, cho cùng năm mãn tháng; lúc còn
sức khỏe nên niệm mạnh mẽ một ngày một đêm đến bảy ngày bảy đêm không dừng,
tích cực nối tiếp, mạnh mẽ lại càng mạnh mẽ, tình thức dứt bặt, tự nhiên thân
tâm lại không bị loạn, tức gọi là nhất tâm bất loạn. Nếu chẳng được cảnh giới
nầy thì tuy có tạm thời thanh tịnh, cũng là nơi nghỉ tạm, lúc thanh tịnh thì có
niệm, lúc động loạn thì mất niệm, huống chi lúc lâm chung rất là đau khổ phiền
muộn thì sao? Có thể thấy rằng lúc bình thường trong cảnh yên tịnh chút chút,
thì tâm ý thức được việc ở bên, đến lúc buồn phiền thì dù ý thức thông minh làm
chủ cũng đều dùng chẳng được vậy.
Nếu liên tục kỳ hạn mà dễ sinh bệnh,
thì chẳng nên làm lâu. Xin khuyên chư vị bạn đạo, nương theo phương pháp niệm
một ngày xem thử, nếu một ngày không thành, nên tập niệm lại một ngày, hoặc
liên tục hai ngày, ba ngày, đến bảy ngày, thấy tinh thần chưa ổn định lắm, một
lần bảy ngày chẳng thành, thì phải điều đưỡng tinh thần làm lại bảy ngày. Ngồi,
đứng, đi mỗi việc nửa giờ, vòng lại từ đầu. Đều đặn không dứt, ăn uống, vào nhà
xí, mặc áo v.v… một mực là Phật, miệng không niệm được mà tâm vẫn không dứt
niệm, chẳng nên khoảnh khắc lộn xộn dừng nghỉ hoặc cảm thấy mệt mỏi, chẳng nên
sợ ra ngoài kỳ hạn nên đợi đến lúc khỏe mới khởi niệm. Bỡi vì cách công phu làm
thế, không thể đánh dẹp được sự hôn trầm, tán loạn hoặc trạo cử; nếu sợ hôn
trầm, tán loạn và trạo cử, chỉ quan tâm dẹp đuổi, chính là đối tác với hôn
trầm, tán loạn và trạo cử, càng đấu đá càng thêm nhiều, chẳng bằng buông thân
ngủ một giấc, hôn trầm, tán loạn và trạo cử tự diệt mất, tinh thần hưng khởi
hơn lên, lựa lúc làm lại. Niệm một ngày tốt nhất là ăn ít hoặc chẳng ăn, chỉ
uống nước. Hai ngày trở lên cần phải ăn.
thì chẳng nên làm lâu. Xin khuyên chư vị bạn đạo, nương theo phương pháp niệm
một ngày xem thử, nếu một ngày không thành, nên tập niệm lại một ngày, hoặc
liên tục hai ngày, ba ngày, đến bảy ngày, thấy tinh thần chưa ổn định lắm, một
lần bảy ngày chẳng thành, thì phải điều đưỡng tinh thần làm lại bảy ngày. Ngồi,
đứng, đi mỗi việc nửa giờ, vòng lại từ đầu. Đều đặn không dứt, ăn uống, vào nhà
xí, mặc áo v.v… một mực là Phật, miệng không niệm được mà tâm vẫn không dứt
niệm, chẳng nên khoảnh khắc lộn xộn dừng nghỉ hoặc cảm thấy mệt mỏi, chẳng nên
sợ ra ngoài kỳ hạn nên đợi đến lúc khỏe mới khởi niệm. Bỡi vì cách công phu làm
thế, không thể đánh dẹp được sự hôn trầm, tán loạn hoặc trạo cử; nếu sợ hôn
trầm, tán loạn và trạo cử, chỉ quan tâm dẹp đuổi, chính là đối tác với hôn
trầm, tán loạn và trạo cử, càng đấu đá càng thêm nhiều, chẳng bằng buông thân
ngủ một giấc, hôn trầm, tán loạn và trạo cử tự diệt mất, tinh thần hưng khởi
hơn lên, lựa lúc làm lại. Niệm một ngày tốt nhất là ăn ít hoặc chẳng ăn, chỉ
uống nước. Hai ngày trở lên cần phải ăn.
Niệm Phật đáng quí là dụng công phu lúc
bình thường, trước có chỗ nghỉ tay, dẫn đến sinh làm người sống vui, lâm chung
quyết định vãng sanh. Pháp nầy rất vi diệu và rất ổn định, nguyên nhân lúc còn
sức khỏe cố gắng mà làm, để khỏi đến lúc lâm chung tay rối chân loạn. Tuy là
già cả yếu đuối, khí lực chẳng đủ, cũng nên khéo tự điều nhiếp mà tu hành. Lúc
lên ca làm việc cũng có thể lợi dụng ngày rảnh nghỉ, theo cách thức niệm một
ngày xem sao, từ chiều hôm trước đến chiều hôm sau, nếu một ngày không thành
sửa đổi làm lại ngày khác, hoặc làm liên tiếp hai ba ngày trong thời gian nghỉ
phép, hoặc xin nghỉ phép làm suốt bảy ngày.
bình thường, trước có chỗ nghỉ tay, dẫn đến sinh làm người sống vui, lâm chung
quyết định vãng sanh. Pháp nầy rất vi diệu và rất ổn định, nguyên nhân lúc còn
sức khỏe cố gắng mà làm, để khỏi đến lúc lâm chung tay rối chân loạn. Tuy là
già cả yếu đuối, khí lực chẳng đủ, cũng nên khéo tự điều nhiếp mà tu hành. Lúc
lên ca làm việc cũng có thể lợi dụng ngày rảnh nghỉ, theo cách thức niệm một
ngày xem sao, từ chiều hôm trước đến chiều hôm sau, nếu một ngày không thành
sửa đổi làm lại ngày khác, hoặc làm liên tiếp hai ba ngày trong thời gian nghỉ
phép, hoặc xin nghỉ phép làm suốt bảy ngày.
Phương pháp nầy nên lấy thời gian giữa
mùa xuân, hạ, thu, đông mà làm, để khỏi bị lạnh nóng khó phân.
mùa xuân, hạ, thu, đông mà làm, để khỏi bị lạnh nóng khó phân.
Lúc niệm Phật có thời hạn, động cơ của
người niệm càng đơn thuần càng tốt, công phu càng có thể dùng hiệu quả. Vì rất
đơn thuần thì rất thành tâm, niệm Phật rất chuyên tâm thì sẽ tự nhiên phát sinh
ra một sức tiến triển tốt đẹp.
người niệm càng đơn thuần càng tốt, công phu càng có thể dùng hiệu quả. Vì rất
đơn thuần thì rất thành tâm, niệm Phật rất chuyên tâm thì sẽ tự nhiên phát sinh
ra một sức tiến triển tốt đẹp.
Chuyên tu, là phương pháp hay để tu
thân, dưỡng tánh, đoạn ác, tu thiện, dễ phát sinh trí tuệ, được nhất tâm bất
loạn. Chuyên tu – không phải là tiểu thừa, là trước tự lợi rồi sau lợi tha.
Không có trí tuệ mà khuyên người tin Phật cũng chẳng dễ, sao có thể nói cho
chuyển động được người đời khẩu phục tâm phục mà học Phật tu hành, ra sức tu
trì!
thân, dưỡng tánh, đoạn ác, tu thiện, dễ phát sinh trí tuệ, được nhất tâm bất
loạn. Chuyên tu – không phải là tiểu thừa, là trước tự lợi rồi sau lợi tha.
Không có trí tuệ mà khuyên người tin Phật cũng chẳng dễ, sao có thể nói cho
chuyển động được người đời khẩu phục tâm phục mà học Phật tu hành, ra sức tu
trì!
Đơn thân không lụy phiền về gia đình mà
xét ra rất nhiều phiền não. Người có nhà, như trong sinh hoạt không suy nghĩ
thì lại không gánh vát được kế hoạch gia đình, một người ở riêng, đầy đủ không
ra khỏi cửa, không xem ti vi báo đài, không nghe âm nhạc, chẳng nhu cầu dựa
trên sự quấy rối của cảm giác, thì tự nhiên, lựa một cái thất yên tĩnh hoặc ra
ngoại ô che một cái nhà nhỏ, từ dứt duyên ngoài, đóng cữa, không việc thì không
ra khỏi cửa, chuyên tâm niệm Phật, tinh tấn không lười mỏi, chỉ cần sự quyết
tâm đúng mức, nếu không được nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội thì không ra
khỏi cửa.
xét ra rất nhiều phiền não. Người có nhà, như trong sinh hoạt không suy nghĩ
thì lại không gánh vát được kế hoạch gia đình, một người ở riêng, đầy đủ không
ra khỏi cửa, không xem ti vi báo đài, không nghe âm nhạc, chẳng nhu cầu dựa
trên sự quấy rối của cảm giác, thì tự nhiên, lựa một cái thất yên tĩnh hoặc ra
ngoại ô che một cái nhà nhỏ, từ dứt duyên ngoài, đóng cữa, không việc thì không
ra khỏi cửa, chuyên tâm niệm Phật, tinh tấn không lười mỏi, chỉ cần sự quyết
tâm đúng mức, nếu không được nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội thì không ra
khỏi cửa.
Lúc nằm và nơi không sạch như: nhà xí,
chỗ rửa giặt v.v… chỉ mặc niệm để khỏi lỗi mất cung kính. Chớ nên nói rằng
những lúc và những chỗ nầy không được niệm Phật, mà phải hiểu rằng những chỗ
nầy không nên phát ra tiếng mà thôi.
chỗ rửa giặt v.v… chỉ mặc niệm để khỏi lỗi mất cung kính. Chớ nên nói rằng
những lúc và những chỗ nầy không được niệm Phật, mà phải hiểu rằng những chỗ
nầy không nên phát ra tiếng mà thôi.
Nghi thức niệm Phật đơn giản mà dễ tu
hành.
hành.
ĐỊNH KHÓA SỚM TỐI
Thời khóa buổi sớm là nghe lời giáo
huấn của Phật, cảnh tỉnh chính mình, một ngày nay của ta, khởi tâm động niệm,
xử thế, tiếp người đãi vật, chẳng trái với lời dạy dẫn của Phật, đây là thời
khóa buổi sáng.
huấn của Phật, cảnh tỉnh chính mình, một ngày nay của ta, khởi tâm động niệm,
xử thế, tiếp người đãi vật, chẳng trái với lời dạy dẫn của Phật, đây là thời
khóa buổi sáng.
Thời khóa buổi tối là phản tỉnh là kiểm
điểm, nghiêm túc làm một lần phản tỉnh, lời dạy của Phật có cố nhớ hay không?
Nếu như không làm được, cần phải nghiêm túc sám hối, sửa lỗi lầm, tự làm mới
lại, ngày mai nhất định nổ lực làm cho được, đây tức là công đức lợi ích của
thời khóa sáng tối; mà không phải là sáng sớm niệm một niệm cho Phật và Bồ tát
nghe, tự mình nếu khởi tâm động niệm thì chẳng tương quan một chút nào với lời
dạy của đức Phật.
điểm, nghiêm túc làm một lần phản tỉnh, lời dạy của Phật có cố nhớ hay không?
Nếu như không làm được, cần phải nghiêm túc sám hối, sửa lỗi lầm, tự làm mới
lại, ngày mai nhất định nổ lực làm cho được, đây tức là công đức lợi ích của
thời khóa sáng tối; mà không phải là sáng sớm niệm một niệm cho Phật và Bồ tát
nghe, tự mình nếu khởi tâm động niệm thì chẳng tương quan một chút nào với lời
dạy của đức Phật.
Có phòng trống trong nhà, ta lấy một
gian thì rất tốt, nếu thật sự không có chỗ cúng tượng Phật, thì thiết trí ở
trong phòng mình cũng được, nhưng cần phải che trên mặt tượng Phật một chiếc
khăn vàng, lúc không tụng niệm thì buông phủ khăn vàng xuống, cách nầy khỏi bị
lỗi khinh mạn. Tượng Phật tốt nhất là hướng đông, người niệm Phật hướng tây,
đối với niệm Phật nếu như không thể thế nầy, thì là tùy tiện hướng bên nào cũng
cúng Phật được. Nếu thực tại mà không có chỗ cúng Phật, thì nên mặt hướng về
tây niệm cũng được.
gian thì rất tốt, nếu thật sự không có chỗ cúng tượng Phật, thì thiết trí ở
trong phòng mình cũng được, nhưng cần phải che trên mặt tượng Phật một chiếc
khăn vàng, lúc không tụng niệm thì buông phủ khăn vàng xuống, cách nầy khỏi bị
lỗi khinh mạn. Tượng Phật tốt nhất là hướng đông, người niệm Phật hướng tây,
đối với niệm Phật nếu như không thể thế nầy, thì là tùy tiện hướng bên nào cũng
cúng Phật được. Nếu thực tại mà không có chỗ cúng Phật, thì nên mặt hướng về
tây niệm cũng được.
Cúng dường Phật, thông thường có:
Hương, hoa, đèn, nước trong sạch, các thứ dưa và trái cây; Nếu không có, thiếu
mấy món hoặc hoàn toàn không có cũng được. Nhưng nhất quyết không được cúng
thịt chúng sinh và rượu, càng không được đốt giấy tiền, các loại giấy bạc, vàng
mã.
Hương, hoa, đèn, nước trong sạch, các thứ dưa và trái cây; Nếu không có, thiếu
mấy món hoặc hoàn toàn không có cũng được. Nhưng nhất quyết không được cúng
thịt chúng sinh và rượu, càng không được đốt giấy tiền, các loại giấy bạc, vàng
mã.
Lễ Phật: Đầu cúi sát đất, vái chào, cúi
mình kính cẩn, chắp tay; Nếu cúi đầu lễ lạy rất là cung kính thì rất có thể
diệt tội cầu phước. Quì, ngồi, đứng đều có thể niệm, nhưng cần phải tâm chí
thành thì được.
mình kính cẩn, chắp tay; Nếu cúi đầu lễ lạy rất là cung kính thì rất có thể
diệt tội cầu phước. Quì, ngồi, đứng đều có thể niệm, nhưng cần phải tâm chí
thành thì được.
Nhân chính làm chúng tại gia, nên làm
công việc gia đình bận rộn, làm công việc xã hội bận rộn, sợ rằng người niệm
Phật trước thì siêng năng sau thì biếng trễ hoăc chẳng niệm nữa. Do vậy mới sắp
xếp niệm Phật ngay trên thời khóa sớm tối là cảnh tỉnh người niệm Phật nên niệm
Phật mỗi ngày, không nên vì cuộc sống bận rộn! Sự nghiệp bận rộn! Phiền não!
Lúc cao hứng v.v… mà quên đi câu niệm Phật.
công việc gia đình bận rộn, làm công việc xã hội bận rộn, sợ rằng người niệm
Phật trước thì siêng năng sau thì biếng trễ hoăc chẳng niệm nữa. Do vậy mới sắp
xếp niệm Phật ngay trên thời khóa sớm tối là cảnh tỉnh người niệm Phật nên niệm
Phật mỗi ngày, không nên vì cuộc sống bận rộn! Sự nghiệp bận rộn! Phiền não!
Lúc cao hứng v.v… mà quên đi câu niệm Phật.
Người mà “trong tâm có Phật” tùy lúc
tùy nơi đều khởi tưởng niệm Phật, thì thời khóa sớm tối không làm cũng được.
tùy nơi đều khởi tưởng niệm Phật, thì thời khóa sớm tối không làm cũng được.
Chẳng nên cho là niệm Phật ở trước điện
Phật, tượng Phật mới trang nghiêm, mới cung kính; ở chỗ khác thì không trang
nghiêm, không cung kính, không phải niệm Phật. Niệm Phật chỉ cần tâm thành, nơi
nào, thời gian nào cũng đều trang nghiêm; chỉ ở chỗ không sạch như: nhà tắm,
nhà xí… hay lúc áo mũ không tề chỉnh thì mặc niệm mà thôi.
Phật, tượng Phật mới trang nghiêm, mới cung kính; ở chỗ khác thì không trang
nghiêm, không cung kính, không phải niệm Phật. Niệm Phật chỉ cần tâm thành, nơi
nào, thời gian nào cũng đều trang nghiêm; chỉ ở chỗ không sạch như: nhà tắm,
nhà xí… hay lúc áo mũ không tề chỉnh thì mặc niệm mà thôi.
Không nên cho là mua được cái máy niệm
Phật để nghe thì là niệm Phật rồi, như thế, công đức niệm Phật không phải là
của anh mà là của cái máy! Cho nên lúc nghe máy niệm thì người nghe phải cùng
với máy hòa niệm mới có được công đức.
Phật để nghe thì là niệm Phật rồi, như thế, công đức niệm Phật không phải là
của anh mà là của cái máy! Cho nên lúc nghe máy niệm thì người nghe phải cùng
với máy hòa niệm mới có được công đức.
Nếu là công tác rất bận rộn, bận đến mỗi
ngày cả thời khóa sớm tối cũng đều không có thời gian để làm! Lúc bình thường
càng không thể nói là niệm Phật được, thế thì kẻ học Phật tu hành nên khá tự
suy tư! Người lại có thời gian ăn uống vui chơi, xem ti vi, nhàn tản tán gẫu,
mà không có thời gian để niệm Phật! Như thế thật là không có thời gian để niệm
Phật rồi, vãng sanh thế giới Cực Lạc là việc của người khác!
ngày cả thời khóa sớm tối cũng đều không có thời gian để làm! Lúc bình thường
càng không thể nói là niệm Phật được, thế thì kẻ học Phật tu hành nên khá tự
suy tư! Người lại có thời gian ăn uống vui chơi, xem ti vi, nhàn tản tán gẫu,
mà không có thời gian để niệm Phật! Như thế thật là không có thời gian để niệm
Phật rồi, vãng sanh thế giới Cực Lạc là việc của người khác!
Sáng dậy sớm hơn một chút, tối ít xem
ti vi một chút, như thế thời khóa sớm tối có thời gian để làm.
ti vi một chút, như thế thời khóa sớm tối có thời gian để làm.
Biết rằng người vốn bận rộn, nói lệch
đi là chẳng được nhàn rỗi, kỳ thật có thật là bận rộn không? Thật chẳng thấy
được? Chưa chắc là thật bận rộn, niệm Phật vài giờ nói ngược là lắm sự trì
hoãn, vã lại nhìn người xưa nay mấy ai được tám mươi tuổi, chẳng thể vứt bỏ khổ
sinh tử ở bên sau, chân chánh việc chính mình, cần khẩn trương muôn ngàn lần,
khuyên người phát khởi sự xét nét mạnh mẽ, mau mau trồng sen chín phẩm.
đi là chẳng được nhàn rỗi, kỳ thật có thật là bận rộn không? Thật chẳng thấy
được? Chưa chắc là thật bận rộn, niệm Phật vài giờ nói ngược là lắm sự trì
hoãn, vã lại nhìn người xưa nay mấy ai được tám mươi tuổi, chẳng thể vứt bỏ khổ
sinh tử ở bên sau, chân chánh việc chính mình, cần khẩn trương muôn ngàn lần,
khuyên người phát khởi sự xét nét mạnh mẽ, mau mau trồng sen chín phẩm.
Trong kinh “Phật thuyết bát vô hạ”, đức
Phật dạy rằng:
Phật dạy rằng:
“Ở thế gian nầy, ít nghe không nói,
hạng phàm phu thường nói lời không rảnh rỗi – có rảnh rỗi, song chẳng rõ biết,
thế nào là không rảnh rỗi? Thế nào là có rảnh rỗi?… Nếu các loài hữu tình
muốn đến được hạnh Thánh, lúc tu thiện pháp có tám việc không rảnh tu tập”.
Trở xuống dưới đức Phật đưa ra tám việc không rảnh rổi để tu hành ấy là:
hạng phàm phu thường nói lời không rảnh rỗi – có rảnh rỗi, song chẳng rõ biết,
thế nào là không rảnh rỗi? Thế nào là có rảnh rỗi?… Nếu các loài hữu tình
muốn đến được hạnh Thánh, lúc tu thiện pháp có tám việc không rảnh tu tập”.
Trở xuống dưới đức Phật đưa ra tám việc không rảnh rổi để tu hành ấy là:
1 – Trụ đồng, trên sắt, các khổ não,
Tro nóng, phân tiểu, rừng dao đâm,
Ở trong địa ngục chịu khổ nầy.
2 – Đói khát, châm cổ, khổ hại thân,
Mưa rơi, sông chảy dòng lửa dữ,
Ở trong ngạ quỉ chịu khổ nầy.
3 – Lại luôn ôm lòng sợ bị hại,
Thường muốn xoay vần ăn nuốt nhau,
Ở trong bàng sanh (súc sinh) chịu khổ
nầy.
nầy.
4 – Nếu được ở nơi trời Hữu Đảnh,
Do phước ngày trước sinh ở đó,
Được trường thọ mà huệ chẳng thông.
5 – Sanh nơi quê mùa chốn xấu xa,
Tai chẳng từng nghe tiếng nói pháp,
Không biết, mãi ở chốn tồi tàn.
6 – Do thân trước kia tạo nghiệp ác,
Đui, điếc, ngọng, câm, thiếu các căn,
Ngu si tức là trâu thân người.
7 – Hoặc người chẳng tin nơi tam bảo,
Nói không nhân quả, không quí gần,
Tà kiến như thế phá nguồn tâm.
8 – Chư Phật đại sư (Bồ tát) chẳng xuất
hiện,
hiện,
Diệu pháp cũng không truyền thế gian,
Như người sinh ở trong đời tối.
Tám việc không rảnh rỗi để tu Phật;
việc thứ nhất là chỉ cho chúng sinh ở trong đường địa ngục, việc thứ hai là
chúng sinh ở đường ngạ quỉ; Việc thứ ba là chúng sinh ở đường súc sinh, thứ tư
là chúng sinh ở cõi trời, thứ năm là chúng sinh ở biên địa, thứ sáu là chúng
sinh thiếu các căn và si độn, thứ bảy là chúng sinh không tin nhân quả nghiệp
báo, thứ tám là chúng sinh gặp thời Phật không xuất hiện ở đời. Chúng sinh đọa
vào ba đường ác không nhàn rỗi tu hành là có thể lý giải, như thế nếu được sinh
làm người cũng không rảnh tu hành, đức Phật đã nhận định:
việc thứ nhất là chỉ cho chúng sinh ở trong đường địa ngục, việc thứ hai là
chúng sinh ở đường ngạ quỉ; Việc thứ ba là chúng sinh ở đường súc sinh, thứ tư
là chúng sinh ở cõi trời, thứ năm là chúng sinh ở biên địa, thứ sáu là chúng
sinh thiếu các căn và si độn, thứ bảy là chúng sinh không tin nhân quả nghiệp
báo, thứ tám là chúng sinh gặp thời Phật không xuất hiện ở đời. Chúng sinh đọa
vào ba đường ác không nhàn rỗi tu hành là có thể lý giải, như thế nếu được sinh
làm người cũng không rảnh tu hành, đức Phật đã nhận định:
“Ông đã được thân người, lại được
nghe chánh pháp, chẳng được Thánh quả bỡi vì trong nhiều đời không được rảnh
rỗi”.
nghe chánh pháp, chẳng được Thánh quả bỡi vì trong nhiều đời không được rảnh
rỗi”.
Trong đây nói rằng “không rảnh rỗi” là
chỉ cho người không tin nhân quả, vì họ tuy đã nghe được chánh pháp, nhưng
không tin tưởng. Đức Phật lại dạy rằng:
chỉ cho người không tin nhân quả, vì họ tuy đã nghe được chánh pháp, nhưng
không tin tưởng. Đức Phật lại dạy rằng:
“Ông đã được thân người, lại được
nghe chánh pháp, không thể làm như lời nói, nên trong luân hồi tám nạn, chuốt
lấy các cay đắng”. “Nếu người nghe ta nói, biết được rảnh và không rảnh rổi,
cho nên phải có tâm chuyên cần, chân chánh tu hành ở nơi phạm hạnh, Ta dạy
người mắt sáng, khéo giữ gìn ở các việc ác, chân chánh niệm để có thể ngăn giữ,
chẳng theo các hữu lậu, tất cả theo giấc ngủ, hàng phục đại ma oán, trọn vượt
ra khỏi dòng sinh tử, được lên ở bờ kia”.
nghe chánh pháp, không thể làm như lời nói, nên trong luân hồi tám nạn, chuốt
lấy các cay đắng”. “Nếu người nghe ta nói, biết được rảnh và không rảnh rổi,
cho nên phải có tâm chuyên cần, chân chánh tu hành ở nơi phạm hạnh, Ta dạy
người mắt sáng, khéo giữ gìn ở các việc ác, chân chánh niệm để có thể ngăn giữ,
chẳng theo các hữu lậu, tất cả theo giấc ngủ, hàng phục đại ma oán, trọn vượt
ra khỏi dòng sinh tử, được lên ở bờ kia”.
Lời dạy của đức Phật, đáng để cho chúng
ta sâu xa lấy làm Giới. Có còn nói là không rảnh rổi để niệm Phật hay không?
ta sâu xa lấy làm Giới. Có còn nói là không rảnh rổi để niệm Phật hay không?
Niệm Phật, là một phương pháp không
chia ra giàu sang hay bần tiện, già trẻ nam nữ, lúc rảnh lúc bận, mọi người đều
có thể niệm, mọi người niệm Phật thì mọi người đều được vãng sanh về thế giới
Cực Lạc ở phương tây; chỉ có điều là tự mỗi người tinh tấn mà thôi.
chia ra giàu sang hay bần tiện, già trẻ nam nữ, lúc rảnh lúc bận, mọi người đều
có thể niệm, mọi người niệm Phật thì mọi người đều được vãng sanh về thế giới
Cực Lạc ở phương tây; chỉ có điều là tự mỗi người tinh tấn mà thôi.
Niệm Phật, sợ nhất là trước thì siêng
mà sau lại lười, không có “hằng tâm”, cho nên người tu hành xưa nay đều đem một
việc niệm Phật, gắn chặt vào công khóa hàng ngày, ngày lại ngày thực hành, lúc
bình thường tùy lúc tùy nơi mà niệm Phật, để khỏi thối lui rơi rớt.
mà sau lại lười, không có “hằng tâm”, cho nên người tu hành xưa nay đều đem một
việc niệm Phật, gắn chặt vào công khóa hàng ngày, ngày lại ngày thực hành, lúc
bình thường tùy lúc tùy nơi mà niệm Phật, để khỏi thối lui rơi rớt.
Công khóa sớm tối, là việc làm (tu)
thông thường trong việc làm (tu) chân chánh; nghi thức rườm rà hay đơn giản có
thể do người chế ra để thích nghi, chung thì thừa riêng thì bề bộn, ấy là do
giản dị mà vào, chỉ có thể do giản dị mà thành rườm rà, không thể từ rườm rà mà
thành giản dị được, mà tự thối lui rơi rớt.
thông thường trong việc làm (tu) chân chánh; nghi thức rườm rà hay đơn giản có
thể do người chế ra để thích nghi, chung thì thừa riêng thì bề bộn, ấy là do
giản dị mà vào, chỉ có thể do giản dị mà thành rườm rà, không thể từ rườm rà mà
thành giản dị được, mà tự thối lui rơi rớt.
Sớm tối mỗi ngày, rửa xong, hướng về
tượng Phật hoặc mặt hướng về tây, quì gối hay ngồi hay đứng ngay ngắn, chắp tay
ngay ngực, mười ngón tay ngay ngắn không rỗng ở trong lòng bàn tay, tâm giữ sự
quán tưởng. Miệng niệm:
tượng Phật hoặc mặt hướng về tây, quì gối hay ngồi hay đứng ngay ngắn, chắp tay
ngay ngực, mười ngón tay ngay ngắn không rỗng ở trong lòng bàn tay, tâm giữ sự
quán tưởng. Miệng niệm:
– Nam mô thập phương thường trụ tam
bảo.(3 lần 3 lạy)
bảo.(3 lần 3 lạy)
– Nam mô đại từ đại bi bổn sư Thích Ca
Mâu Ni Phật(3 lần 3 lạy)
Mâu Ni Phật(3 lần 3 lạy)
– Nam mô tây phương Cực Lạc thế giới
tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật (3 lần 3 lạy)
tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật (3 lần 3 lạy)
– Nam mô A Di Đà Phật. (vài trăm hay
vài ngàn câu, càng nhiều càng tốt) (3 lần 3 lạy)
vài ngàn câu, càng nhiều càng tốt) (3 lần 3 lạy)
– Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần
3 lạy)
3 lạy)
– Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần 3
lạy)
lạy)
– Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ
tát (3 lần 3 lạy)
tát (3 lần 3 lạy)
(Thế giới Cực Lạc có rất nhiều Bồ tát
là thầy – bạn chúng ta. Cũng nên cần phải lạy).
là thầy – bạn chúng ta. Cũng nên cần phải lạy).
– Đệ tử (tên) nguyện qui y Phật, qui y
Pháp, qui y Tăng (1 lạy)
Pháp, qui y Tăng (1 lạy)
– Đệ tử (tên) nguyện sanh Tây phương
Cực Lạc thế giới. (1 lạy)
Cực Lạc thế giới. (1 lạy)
– Đệ tử (tên) phát bồ đề tâm, trên cầu
Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh. (1 lạy)
Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh. (1 lạy)
– Đệ tử (tên) nguyện đem tất cả công
đức làm được của ngày nay, trang nghiêm tịnh độ của Phật, trên báo đáp bốn ơn
nặng, dưới cứu giúp ba đường khổ, nếu có người thấy nghe, đều phát tâm bồ đề,
hết một báo thân nầy, đồng sinh nước Cực Lạc. (1 lạy)
đức làm được của ngày nay, trang nghiêm tịnh độ của Phật, trên báo đáp bốn ơn
nặng, dưới cứu giúp ba đường khổ, nếu có người thấy nghe, đều phát tâm bồ đề,
hết một báo thân nầy, đồng sinh nước Cực Lạc. (1 lạy)
Thời khóa niệm buổi tối, cũng có
thể thêm hồi hướng nhỏ:
thể thêm hồi hướng nhỏ:
– Đệ tử (tên) xưa kia đã tạo các ác
nghiệp, đều do tham sân si từ vô thỉ, sinh ra bỡi thân – miệng – ý, tất cả nay
đây con đều sám hối. (1lạy)
nghiệp, đều do tham sân si từ vô thỉ, sinh ra bỡi thân – miệng – ý, tất cả nay
đây con đều sám hối. (1lạy)
(Nếu có làm ác cũng có thể ở tại đây mà
sám hối)
sám hối)
Niệm Phật định số từ ít đến nhiều, chỉ
cần lấy sự thường siêng mà trì, chẳng nên gián đoạn, chẳng được mượn kế làm
hỏng công phu, tối kỵ làm cho đủ vẻ, vì đủ hình thức thì khó được lợi ích thật
sự.
cần lấy sự thường siêng mà trì, chẳng nên gián đoạn, chẳng được mượn kế làm
hỏng công phu, tối kỵ làm cho đủ vẻ, vì đủ hình thức thì khó được lợi ích thật
sự.
TU HÀNH CẦN BIẾT
Pháp môn niệm Phật, chung nhiếp năm
giáo, khắp trùm ba căn, là một thời giáo hóa của Như lai rất rộng rất lớn, là
pháp lớn rất đơn giản dễ dàng. Ngàn kinh tán tụng, muôn luận tuyên dương, chư
Phật mười phương khác miệng đồng âm mà khuyên bảo tin tưởng, cao tăng đại đức
xưa nay nhất tâm hoằng dương, sự sâu xa của triết lý, sự rộng lớn của vấn đề
nhiếp cơ, tám vạn bốn ngàn pháp môn, lấy đây làm thứ nhất. Bỡi vì pháp môn khác
đó đều nhờ tự lực mà đoạn hoặc chứng chơn; pháp môn tịnh độ nầy còn gồm cả sự
nhờ Phật lực rộng vượt ba cõi. Cõi Ta Bà nhơ uế trầm trọng, cần đến địa vị Thập
tín mới ra khỏi vòng khổ; cảnh giới của Cực Lạc hơn hẳn cõi Ta Bà, niệm Phật
vãng sanh chỉ chín phẩm cũng thảy đều “bất thối”. Từng nghe tôn giả Xá Lợi Phất
phát tâm từ thời đức Phật Đại Thông, đến nay trải qua nhiều kiếp số lượng nhiều
như hạt bụi, hãy còn ở địa vị (thanh văn), có thể thấy rằng cái khó của sự tự
lực tu chứng ở cõi nầy; Huống hồ hiện tại cõi nầy nhằm lúc mạt pháp, tâm tánh
chúng sinh chướng dày huệ mỏng, phước nhẹ và nhơ uế nặng, muốn nhờ tự lực để tu
chứng, lại là khó trên khó. Trong kinh Đại Tập, đức Thế tôn chỉ dạy đại chúng:
giáo, khắp trùm ba căn, là một thời giáo hóa của Như lai rất rộng rất lớn, là
pháp lớn rất đơn giản dễ dàng. Ngàn kinh tán tụng, muôn luận tuyên dương, chư
Phật mười phương khác miệng đồng âm mà khuyên bảo tin tưởng, cao tăng đại đức
xưa nay nhất tâm hoằng dương, sự sâu xa của triết lý, sự rộng lớn của vấn đề
nhiếp cơ, tám vạn bốn ngàn pháp môn, lấy đây làm thứ nhất. Bỡi vì pháp môn khác
đó đều nhờ tự lực mà đoạn hoặc chứng chơn; pháp môn tịnh độ nầy còn gồm cả sự
nhờ Phật lực rộng vượt ba cõi. Cõi Ta Bà nhơ uế trầm trọng, cần đến địa vị Thập
tín mới ra khỏi vòng khổ; cảnh giới của Cực Lạc hơn hẳn cõi Ta Bà, niệm Phật
vãng sanh chỉ chín phẩm cũng thảy đều “bất thối”. Từng nghe tôn giả Xá Lợi Phất
phát tâm từ thời đức Phật Đại Thông, đến nay trải qua nhiều kiếp số lượng nhiều
như hạt bụi, hãy còn ở địa vị (thanh văn), có thể thấy rằng cái khó của sự tự
lực tu chứng ở cõi nầy; Huống hồ hiện tại cõi nầy nhằm lúc mạt pháp, tâm tánh
chúng sinh chướng dày huệ mỏng, phước nhẹ và nhơ uế nặng, muốn nhờ tự lực để tu
chứng, lại là khó trên khó. Trong kinh Đại Tập, đức Thế tôn chỉ dạy đại chúng:
“Thời mạt pháp ức ức người tu hành,
hãn hữu một người đắc đạo, chỉ nương nơi niệm Phật, sẽ được qua khỏi sinh tử”.
hãn hữu một người đắc đạo, chỉ nương nơi niệm Phật, sẽ được qua khỏi sinh tử”.
Bậc cổ đức cũng có nói rằng:
“Học đạo các môn khác, giống như con
kiến lên ở núi cao; niệm Phật vãng sanh như buồm đi thuận gió”.
kiến lên ở núi cao; niệm Phật vãng sanh như buồm đi thuận gió”.
Kinh Phật lời Tổ, khăng khăng khuyên tu
tịnh độ niệm Phật, chúng ta sao được cô phụ lòng Từ bi của Phật Tổ, mà chẳng
chịu đọc và nghe để sanh tín tâm, phát nguyện niệm Phật, cầu sanh về thế giới
Cực Lạc ư!
tịnh độ niệm Phật, chúng ta sao được cô phụ lòng Từ bi của Phật Tổ, mà chẳng
chịu đọc và nghe để sanh tín tâm, phát nguyện niệm Phật, cầu sanh về thế giới
Cực Lạc ư!
Từ xưa đến nay người tu tịnh độ, pháp
môn trì danh niệm Phật, được thành tựu rất nhiều, pháp môn đó rất là thẳng tắt,
rất là viên đốn, có thể vượt bực, chẳng cần trải qua tu lần hồi mà có thể đốn
siêu. Từ tiểu học có thể thẳng lên đại học, mà phương pháp vả lại rất đơn giản,
khiến người chẳng dám tin, lại chẳng thể chẳng tin, thật là chẳng thể nghĩ bàn.
môn trì danh niệm Phật, được thành tựu rất nhiều, pháp môn đó rất là thẳng tắt,
rất là viên đốn, có thể vượt bực, chẳng cần trải qua tu lần hồi mà có thể đốn
siêu. Từ tiểu học có thể thẳng lên đại học, mà phương pháp vả lại rất đơn giản,
khiến người chẳng dám tin, lại chẳng thể chẳng tin, thật là chẳng thể nghĩ bàn.
– Tu hành, hành là hành vi sinh hoạt,
trong hành vi sinh hoạt khó mà tránh khỏi chẳng phát sinh sai lầm rất nhiều,
sửa cho chính lại những hành vi sai lầm, gọi là tu hành. Năm trần (sắc, thinh,
hương, vị, xúc) đều là hư giả, chẳng phân biệt thì có thể thọ dùng, chẳng thể
ái nhiễm càng chẳng được chấp trước.
trong hành vi sinh hoạt khó mà tránh khỏi chẳng phát sinh sai lầm rất nhiều,
sửa cho chính lại những hành vi sai lầm, gọi là tu hành. Năm trần (sắc, thinh,
hương, vị, xúc) đều là hư giả, chẳng phân biệt thì có thể thọ dùng, chẳng thể
ái nhiễm càng chẳng được chấp trước.
– Tu hành học Phật, trước nhất cần làm
cho rõ ràng, tin Phật là tin Phật, mà tu hành học Phật là tu hành học Phật!
cho rõ ràng, tin Phật là tin Phật, mà tu hành học Phật là tu hành học Phật!
Tin Phật, là đọc một vài quyển kinh, lạy
một vài hiệu Phật, hoặc niệm một vài tiếng Phật, ngồi tỉnh tọa giữ năm giới,
làm chút việc thiện, đời sau sinh lên cõi trời hoặc nhà giàu có. Cầu giàu có,
cầu bình an, cầu gia hộ… Dính mắc nặng nề cuộc sống vật chất, hưởng năm dục
của nhân gian, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tận tình ăn uống vui chơi.
một vài hiệu Phật, hoặc niệm một vài tiếng Phật, ngồi tỉnh tọa giữ năm giới,
làm chút việc thiện, đời sau sinh lên cõi trời hoặc nhà giàu có. Cầu giàu có,
cầu bình an, cầu gia hộ… Dính mắc nặng nề cuộc sống vật chất, hưởng năm dục
của nhân gian, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tận tình ăn uống vui chơi.
Tu hành học Phật. Là cần phải nương
theo lời dạy, như pháp mà tin thọ chịu làm, ngoài vấn đề trì giới (các ác chẳng
làm), bố thí (các thiện vâng làm), còn cần phải tự thanh tịnh ý, nhẫn nhục,
tinh tấn, ăn toàn chay, thọ trì một phương pháp đó, tức là phương pháp đó cần
phải chuyên tâm nhất ý. Ra khỏi luân hồi ba cõi, sáu đường lìa khổ được vui cho
đến thành Phật! Niệm Phật, khi mạng chung vãng sanh thế giới Cực Lạc chú trọng
đến cuộc sống tinh thần, ít ham muốn và biết đủ (thiểu dục tri túc), thì dẫn
tới sự đầy đủ, cuộc sống đạm bạc giản dị, sẽ đầy đủ đối với các hiện tượng và
tình huống, tùy nghi với những gì mình gặp mà được bình an thì “lý” sẽ được,
trên không hổ thẹn với trời, dưới không dối gạt với đất, không tranh, không
cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, tự nhiên tự tại, yên ổn vui vẻ.
theo lời dạy, như pháp mà tin thọ chịu làm, ngoài vấn đề trì giới (các ác chẳng
làm), bố thí (các thiện vâng làm), còn cần phải tự thanh tịnh ý, nhẫn nhục,
tinh tấn, ăn toàn chay, thọ trì một phương pháp đó, tức là phương pháp đó cần
phải chuyên tâm nhất ý. Ra khỏi luân hồi ba cõi, sáu đường lìa khổ được vui cho
đến thành Phật! Niệm Phật, khi mạng chung vãng sanh thế giới Cực Lạc chú trọng
đến cuộc sống tinh thần, ít ham muốn và biết đủ (thiểu dục tri túc), thì dẫn
tới sự đầy đủ, cuộc sống đạm bạc giản dị, sẽ đầy đủ đối với các hiện tượng và
tình huống, tùy nghi với những gì mình gặp mà được bình an thì “lý” sẽ được,
trên không hổ thẹn với trời, dưới không dối gạt với đất, không tranh, không
cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, tự nhiên tự tại, yên ổn vui vẻ.
Nếu tu hành học Phật mà còn dính nặng
nơi cuộc sống vật chất, như thế, cũng học mà không làm sao ra khỏi căn nhà danh
vọng đâu!
nơi cuộc sống vật chất, như thế, cũng học mà không làm sao ra khỏi căn nhà danh
vọng đâu!
– Tu hành học Phật, cần có CHÁNH TÍN,
không được không chánh tín! Chánh tín rất là trọng yếu! Chánh tín thì vãng sanh
thế giới Cực Lạc. Không chánh tín mà niệm Phật, tu phước, thì đời sau giàu có,
giàu có thì sinh cuộc sống hưởng thụ, dễ làm ác, tạo các nhân xấu; người không
chánh tín, đời nầy niệm Phật, đời sau hưởng phước, đời thứ ba phước hết thì rơi
rớt vào ba đường ác! Đây gọi là làm oán ba đời. Bỡi vậy chúng ta tu hành học
Phật thì nên sanh tín tâm chân chánh! Không được sinh tín tâm chẳng chân chánh.
“Chánh tín” và “chẳng chánh tín” khác xa nhau như trời và vực thẳm.
không được không chánh tín! Chánh tín rất là trọng yếu! Chánh tín thì vãng sanh
thế giới Cực Lạc. Không chánh tín mà niệm Phật, tu phước, thì đời sau giàu có,
giàu có thì sinh cuộc sống hưởng thụ, dễ làm ác, tạo các nhân xấu; người không
chánh tín, đời nầy niệm Phật, đời sau hưởng phước, đời thứ ba phước hết thì rơi
rớt vào ba đường ác! Đây gọi là làm oán ba đời. Bỡi vậy chúng ta tu hành học
Phật thì nên sanh tín tâm chân chánh! Không được sinh tín tâm chẳng chân chánh.
“Chánh tín” và “chẳng chánh tín” khác xa nhau như trời và vực thẳm.
– Tu hành học Phật không nên mê ở nơi
nhiều kiểu dáng nhiều trạng thái của hiện tượng vật chất, quên bẵng đi cội
nguồn sinh mạng là ở nơi cõi tinh thần. Kinh Phật thường nói: “chúng sinh bội
giác hiệp trần” (quay lưng lại với sự giác ngộ mà đi hợp với trần lào khổ lụy),
chỉ ra là buông bỏ sự giải thoát mà đi tìm cầu sự phú quí vinh hoa. Cũng vậy,
người tu hành nếu chẳng muốn đánh thức Phật tánh ở bên trong, cũng chỉ là ưa
thích cái xấu tệ cạn cợt trọn đời của sắc – thanh – hương – vị – xúc – pháp ở
bên ngoài. Cũng cần biết bỡi vì sao danh vọng, sự nghiệp, cơ đồ, hiển hách,
cũng có một ngày rơi rớt lụn bại; bỡi vì sao quyến thuộc ân ái thân mật cũng có
lúc phân ly.
nhiều kiểu dáng nhiều trạng thái của hiện tượng vật chất, quên bẵng đi cội
nguồn sinh mạng là ở nơi cõi tinh thần. Kinh Phật thường nói: “chúng sinh bội
giác hiệp trần” (quay lưng lại với sự giác ngộ mà đi hợp với trần lào khổ lụy),
chỉ ra là buông bỏ sự giải thoát mà đi tìm cầu sự phú quí vinh hoa. Cũng vậy,
người tu hành nếu chẳng muốn đánh thức Phật tánh ở bên trong, cũng chỉ là ưa
thích cái xấu tệ cạn cợt trọn đời của sắc – thanh – hương – vị – xúc – pháp ở
bên ngoài. Cũng cần biết bỡi vì sao danh vọng, sự nghiệp, cơ đồ, hiển hách,
cũng có một ngày rơi rớt lụn bại; bỡi vì sao quyến thuộc ân ái thân mật cũng có
lúc phân ly.
– Siêng năng tu hành học Phật, trì danh
niệm Phật, tức là có phước khí lớn (thiện căn lớn). Người phước mỏng (ít thiện
căn) là “hữu thỉ vô chung” (có khởi đầu mà không có cuối cùng), chỉ hơi tin
Phật. Người không thiện căn là người không tin tam bảo; càng thậm tệ hơn là
không những chẳng tin rồi, mà còn hủy báng tam bảo!
niệm Phật, tức là có phước khí lớn (thiện căn lớn). Người phước mỏng (ít thiện
căn) là “hữu thỉ vô chung” (có khởi đầu mà không có cuối cùng), chỉ hơi tin
Phật. Người không thiện căn là người không tin tam bảo; càng thậm tệ hơn là
không những chẳng tin rồi, mà còn hủy báng tam bảo!
– Tu hành, tức là phương pháp xem xét
những sự sai lầm mà chúng ta đối với nhân sinh vũ trụ; pháp tưởng, pháp nói,
pháp làm, cũng vậy, cần nên sửa đổi cho chân chính lại. Cũng bao hàm sự kiểm
thảo điều chỉnh, đối kháng chính ta, khống chế dục vọng và cân bằng thân tâm.
những sự sai lầm mà chúng ta đối với nhân sinh vũ trụ; pháp tưởng, pháp nói,
pháp làm, cũng vậy, cần nên sửa đổi cho chân chính lại. Cũng bao hàm sự kiểm
thảo điều chỉnh, đối kháng chính ta, khống chế dục vọng và cân bằng thân tâm.
Nhưng chúng ta cũng nên chấp nhận những
nghi thức hành vi bên ngoài lại sinh ra tác dụng huân tập bên trong. Ở lúc hành
trì công khóa sớm tối, chẳng phải là khiến cho tâm mình an định, chuyên chú ở
nơi khóa tụng hay sao? Chúng ta lúc giữ giới nắm giữ trạng thái của tâm ta ra
sao ư? Là một thứ giới điều, một loại hình thức giới luật đang làm. Kỳ thật
giới luật là phạm vi ngăn ngừa cần thiết sự làm ác của chúng ta, giới luật giúp
đỡ chúng ta giải thoát. Giả như người nào đó cảm thấy rằng giới luật là một vấn
đề trói buộc, như thế là biểu thị người đó còn muốn làm việc xấu, đây là hình
thức bên ngoài có công năng nhất định của nó, chỉ xem chúng ta dùng trạng thái
của tâm thế nào để xử lý nó.
nghi thức hành vi bên ngoài lại sinh ra tác dụng huân tập bên trong. Ở lúc hành
trì công khóa sớm tối, chẳng phải là khiến cho tâm mình an định, chuyên chú ở
nơi khóa tụng hay sao? Chúng ta lúc giữ giới nắm giữ trạng thái của tâm ta ra
sao ư? Là một thứ giới điều, một loại hình thức giới luật đang làm. Kỳ thật
giới luật là phạm vi ngăn ngừa cần thiết sự làm ác của chúng ta, giới luật giúp
đỡ chúng ta giải thoát. Giả như người nào đó cảm thấy rằng giới luật là một vấn
đề trói buộc, như thế là biểu thị người đó còn muốn làm việc xấu, đây là hình
thức bên ngoài có công năng nhất định của nó, chỉ xem chúng ta dùng trạng thái
của tâm thế nào để xử lý nó.
– Tu hành học Phật, xưa nay là việc của
chúng xuất gia, chúng tại gia chỉ tin Phật trồng nhân thiện, được phước báo
trời người, đời sau hưởng phước. Chúng tại gia cũng muốn học Phật tu hành –
niệm Phật! Vãng sanh thế giới Cực Lạc, thân đó tại gia “Tâm” thì cần phải xuất
gia, không thể thân tại gia mà tâm cũng tại gia (thường là nhớ nhung việc gia
đình, việc trên xã hội, dục lạc hưởng thụ), nên cần phải công phu nhiều hơn
chúng xuất gia một chút mới chế được tâm. Nhân vì chúng tại gia có nhà, có nhà
rồi thì có thân bằng quyến thuộc – bỡi vậy mệt nhọc suy nghĩ, lại có việc đời –
bỡi vậy phân tán nguồn tâm, lại có danh lợi – bỡi vậy biến động nơi ý, lại có
họa hoạn – bỡi vậy lo buồn ở chí, cho nên thân và tâm không dễ gì yên tịnh
được, lại chẳng có thể bàn đến sự thanh tịnh của ba nghiệp thân, miệng, ý được.
chúng xuất gia, chúng tại gia chỉ tin Phật trồng nhân thiện, được phước báo
trời người, đời sau hưởng phước. Chúng tại gia cũng muốn học Phật tu hành –
niệm Phật! Vãng sanh thế giới Cực Lạc, thân đó tại gia “Tâm” thì cần phải xuất
gia, không thể thân tại gia mà tâm cũng tại gia (thường là nhớ nhung việc gia
đình, việc trên xã hội, dục lạc hưởng thụ), nên cần phải công phu nhiều hơn
chúng xuất gia một chút mới chế được tâm. Nhân vì chúng tại gia có nhà, có nhà
rồi thì có thân bằng quyến thuộc – bỡi vậy mệt nhọc suy nghĩ, lại có việc đời –
bỡi vậy phân tán nguồn tâm, lại có danh lợi – bỡi vậy biến động nơi ý, lại có
họa hoạn – bỡi vậy lo buồn ở chí, cho nên thân và tâm không dễ gì yên tịnh
được, lại chẳng có thể bàn đến sự thanh tịnh của ba nghiệp thân, miệng, ý được.
Nhà, thực tại là nhân duyên phiền não!
Có nhà rồi lại nên xả bỏ việc thế tục mà tu hành, thực tế thì cũng không phải
là mỗi người đều có thể làm được hết. Chúng tại gia có nhà, nếu có thể dùng
“không nhà” để nhìn, thì nhà không thể là cái trói buột, xét ngược lại thì rất
nhiều phiền não! Nếu là người không gánh vát sinh kế của gia đình, bỏ việc đời,
chẳng khổ nhọc nặng, bỏ việc kinh doanh lo lợi, có thể chuyên tâm tu hành rất
tốt!
Có nhà rồi lại nên xả bỏ việc thế tục mà tu hành, thực tế thì cũng không phải
là mỗi người đều có thể làm được hết. Chúng tại gia có nhà, nếu có thể dùng
“không nhà” để nhìn, thì nhà không thể là cái trói buột, xét ngược lại thì rất
nhiều phiền não! Nếu là người không gánh vát sinh kế của gia đình, bỏ việc đời,
chẳng khổ nhọc nặng, bỏ việc kinh doanh lo lợi, có thể chuyên tâm tu hành rất
tốt!
– Tu hành không phải là phân biệt trên
hình thức xuất gia hay tại gia, mà là phân biệt trên tâm địa. Người có thể xả
bỏ sự suy nghĩ và công việc thế tục như: phú quí, vinh hoa… các dục vọng, thì
cùng với người xuất gia như nhau; người xuất gia nếu không xả bỏ suy nghĩ và
công việc thế tục, vẫn như người tại gia. Nên biết rằng tu hành cần ở trên tâm
địa, không phải ở trên hình thức mà thôi.
hình thức xuất gia hay tại gia, mà là phân biệt trên tâm địa. Người có thể xả
bỏ sự suy nghĩ và công việc thế tục như: phú quí, vinh hoa… các dục vọng, thì
cùng với người xuất gia như nhau; người xuất gia nếu không xả bỏ suy nghĩ và
công việc thế tục, vẫn như người tại gia. Nên biết rằng tu hành cần ở trên tâm
địa, không phải ở trên hình thức mà thôi.
– Vì sao học nhiều kinh luận như thế,
là bực cao nhân biện tài vô ngại, ngồi yên tham thiền đã đạt đến tam thiền tứ
thiền, người tay nắm tràng hạt niệm Phật, mà ra không khỏi ba cõi (không được
vãng sanh thế giới Cực Lạc!). Tức là miệng nói tu hành, nhưng chưa đem tâm tin
Phật để tu hành; Nếu hiệp với kinh điển, ngay khi ngồi yên đứng dậy, tiếng niệm
Phật liền dừng, tức thì bề bộn những sự so tính đuổi kéo tâm ta, tức là bận rộn
những sự việc gia đình, tức là bận rộn việc trên xã hôị, bận rộn chuyện ăn uống
vui chơi, dục vọng rất là nhiều, rồi vọng giữ lấy, vọng sử dụng. Nghiên cứu
kinh điển, lúc niệm Phật, ngồi yên, tâm mới chỉ được chút ít sự thâu lấy, vẫn
còn bị hai cảnh thuận nghịch động chuyển, bị tình thức bủa vây, bị ái chấp trói
buột, không thấy rõ tình đời, buông không được muôn duyên việc tục, lúc mạng
chung tâm sinh điên đảo, ra sao được ba cõi sinh tử!? Vãng sanh thế giới Cực
Lạc ư! Ngay cái thiện rốt cuộc cũng khó đạt được!
là bực cao nhân biện tài vô ngại, ngồi yên tham thiền đã đạt đến tam thiền tứ
thiền, người tay nắm tràng hạt niệm Phật, mà ra không khỏi ba cõi (không được
vãng sanh thế giới Cực Lạc!). Tức là miệng nói tu hành, nhưng chưa đem tâm tin
Phật để tu hành; Nếu hiệp với kinh điển, ngay khi ngồi yên đứng dậy, tiếng niệm
Phật liền dừng, tức thì bề bộn những sự so tính đuổi kéo tâm ta, tức là bận rộn
những sự việc gia đình, tức là bận rộn việc trên xã hôị, bận rộn chuyện ăn uống
vui chơi, dục vọng rất là nhiều, rồi vọng giữ lấy, vọng sử dụng. Nghiên cứu
kinh điển, lúc niệm Phật, ngồi yên, tâm mới chỉ được chút ít sự thâu lấy, vẫn
còn bị hai cảnh thuận nghịch động chuyển, bị tình thức bủa vây, bị ái chấp trói
buột, không thấy rõ tình đời, buông không được muôn duyên việc tục, lúc mạng
chung tâm sinh điên đảo, ra sao được ba cõi sinh tử!? Vãng sanh thế giới Cực
Lạc ư! Ngay cái thiện rốt cuộc cũng khó đạt được!
Gặp được việc tốt, thấy được việc tốt,
nghe được việc tốt, tức là cảnh thuận. Gặp việc xấu, thấy việc xấu, nghe việc
xấu, tức là cảnh nghịch. Ở cảnh thuận thì hớn hở vui cười, ở cảnh nghịch thì u
sầu khổ sở; tức là bị hai cảnh thuận và nghịch chuyển. Nếu có thể ở cảnh thuận
không vui vẻ, ở cảnh nghịch không phiền toái, thuận nghịch đều không khởi tâm
động niệm; vì ngay nơi khởi tâm động niệm thì lập tức bị hai việc thuận –
nghịch chuyển.
nghe được việc tốt, tức là cảnh thuận. Gặp việc xấu, thấy việc xấu, nghe việc
xấu, tức là cảnh nghịch. Ở cảnh thuận thì hớn hở vui cười, ở cảnh nghịch thì u
sầu khổ sở; tức là bị hai cảnh thuận và nghịch chuyển. Nếu có thể ở cảnh thuận
không vui vẻ, ở cảnh nghịch không phiền toái, thuận nghịch đều không khởi tâm
động niệm; vì ngay nơi khởi tâm động niệm thì lập tức bị hai việc thuận –
nghịch chuyển.
Vui giận, ưa ghét, ham muốn, đều là một
chữ TÌNH; nếu làm được nhữung việc như: vi phạm không tra xét, xúc phạm không
giận dỗi, làm tổn thương không oán hận… tiến đến coi những việc đó như không,
ngược lại thương xót tâm ngu si; nếu có thể ngộ được lý nầy thì tâm thường
thanh tịnh, như TỊNH ĐỘ (cõi tịnh) vậy.
chữ TÌNH; nếu làm được nhữung việc như: vi phạm không tra xét, xúc phạm không
giận dỗi, làm tổn thương không oán hận… tiến đến coi những việc đó như không,
ngược lại thương xót tâm ngu si; nếu có thể ngộ được lý nầy thì tâm thường
thanh tịnh, như TỊNH ĐỘ (cõi tịnh) vậy.
Cha mẹ, con cái, công danh, tiền bạc
giàu có, văn chương nghệ thuật, ngọc ngà của báu… đều là những thứ yêu thích.
Nếu làm được việc có nó cũng như không có nó, chẳng nghĩ tưởng về nó; bỡi vì
phàm là có tâm một khi ÁI tồn tại, thì lúc lâm chung bị cái ÁI nầy dắt dẫn,
theo những việc trước mà luân hồi sáu nẻo. Do đây có thể biết một chữ ÁI chính
là cội rễ của sinh tử, là một trở ngại lớn cho việc vãng sanh.
giàu có, văn chương nghệ thuật, ngọc ngà của báu… đều là những thứ yêu thích.
Nếu làm được việc có nó cũng như không có nó, chẳng nghĩ tưởng về nó; bỡi vì
phàm là có tâm một khi ÁI tồn tại, thì lúc lâm chung bị cái ÁI nầy dắt dẫn,
theo những việc trước mà luân hồi sáu nẻo. Do đây có thể biết một chữ ÁI chính
là cội rễ của sinh tử, là một trở ngại lớn cho việc vãng sanh.
Người học Phật, trong tâm của đại đa số
mọi người cũng đều muốn được tụng kinh, tham thiền, lạy Phật niệm Phật, ăn
chay, tức là tu hành; chẳng biết rằng cũng còn bao quát cả những hành vi sửa
đổi chỉnh đốn, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn trong cuộc sống thường ngày cũng
tức là “đạo đức”, nó sửa đổi nuôi dưỡng làm cho tịnh sạch và vương lên, đều là
sự cần thiết đối với hành vi chính mình và làm cái việc sửa đổi chỉnh đốn thích
đáng. Giả như những hành vi nầy đã làm tổn hại đến chúng sinh và mình, hoặc giả
đã mâu thuẩn đến đạo đức, phép tắc, chuẩn mực của xã hội đương thời, nơi đây.
mọi người cũng đều muốn được tụng kinh, tham thiền, lạy Phật niệm Phật, ăn
chay, tức là tu hành; chẳng biết rằng cũng còn bao quát cả những hành vi sửa
đổi chỉnh đốn, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn trong cuộc sống thường ngày cũng
tức là “đạo đức”, nó sửa đổi nuôi dưỡng làm cho tịnh sạch và vương lên, đều là
sự cần thiết đối với hành vi chính mình và làm cái việc sửa đổi chỉnh đốn thích
đáng. Giả như những hành vi nầy đã làm tổn hại đến chúng sinh và mình, hoặc giả
đã mâu thuẩn đến đạo đức, phép tắc, chuẩn mực của xã hội đương thời, nơi đây.
Trong vấn đề học tập Phật pháp, cải
tiến chính mình từ trong cuộc sống thường ngày, khiến cho mình cùng với ranh
mức con người trên xã hội có được sự quan hệ càng hài hòa hơn, đây cũng là tu
hành, mà vả lại càng dễ làm cho mọi người và gia đình tiếp nhận.
tiến chính mình từ trong cuộc sống thường ngày, khiến cho mình cùng với ranh
mức con người trên xã hội có được sự quan hệ càng hài hòa hơn, đây cũng là tu
hành, mà vả lại càng dễ làm cho mọi người và gia đình tiếp nhận.
Tu hành là cần tự tại, nhìn cho rõ,
buông cho hết, mới có thể được lợi ích. Phú quí, vinh hoa, ăn ngon, mặc đẹp, ở
sang, ăn uống vui chơi tận tình, những việc nầy là chỗ vui ưa tìm cầu của người
đời, người tu hành cần nên bỏ lìa những cái nầy đi, bỡi vì phú quí vinh hoa…
những cái đó làm ngăn ngại sự an bình và yên tịnh của thân tâm người tu hành,
nó làm cho chẳng được tự tại và giải thoát.
buông cho hết, mới có thể được lợi ích. Phú quí, vinh hoa, ăn ngon, mặc đẹp, ở
sang, ăn uống vui chơi tận tình, những việc nầy là chỗ vui ưa tìm cầu của người
đời, người tu hành cần nên bỏ lìa những cái nầy đi, bỡi vì phú quí vinh hoa…
những cái đó làm ngăn ngại sự an bình và yên tịnh của thân tâm người tu hành,
nó làm cho chẳng được tự tại và giải thoát.
Việc mặc, không được đẹp đẽ, không được
hợp thời trang thì lại buồn buồn không vui; việc ăn, mà có chút ít không ngon
miệng, không hợp ý thì cho là không ngon, ăn không được; ở phòng bình thường đi
không có xe tốt thay vì đi bộ lại nói là không sang trọng, mất thể diện; những
vấn đề nầy tức là không tự tại. Ở chỗ thuận thì mặt mày hớn hở, ở chỗ nghịch
mặt ủ mày chau, đây tức là nhìn không rõ. Tham ái dính mắc nơi tiền bạc giàu
có, danh vọng, quyền thế, con cái, nam nữ v.v… Đây tức là buông không rời.
Không tự tại, buông không rời, nhìn không rõ, đều là việc ngăn trở con đường ra
khỏi ba cõi.
hợp thời trang thì lại buồn buồn không vui; việc ăn, mà có chút ít không ngon
miệng, không hợp ý thì cho là không ngon, ăn không được; ở phòng bình thường đi
không có xe tốt thay vì đi bộ lại nói là không sang trọng, mất thể diện; những
vấn đề nầy tức là không tự tại. Ở chỗ thuận thì mặt mày hớn hở, ở chỗ nghịch
mặt ủ mày chau, đây tức là nhìn không rõ. Tham ái dính mắc nơi tiền bạc giàu
có, danh vọng, quyền thế, con cái, nam nữ v.v… Đây tức là buông không rời.
Không tự tại, buông không rời, nhìn không rõ, đều là việc ngăn trở con đường ra
khỏi ba cõi.
Tu hành là tác dụng trong cuộc sống
thường ngày. Hiểu và tu hành không thể ăn khớp với nhau, thì cũng như: nói ăn,
đếm của báu, bánh vẽ làm sao đỡ đói!
thường ngày. Hiểu và tu hành không thể ăn khớp với nhau, thì cũng như: nói ăn,
đếm của báu, bánh vẽ làm sao đỡ đói!
Chẳng xét là tại gia hay xuất gia, mà
mục đích rất chủ yếu là mong cầu tu hành được chuyển mê khai ngộ, ra khỏi ba
cõi, lìa khổ được vui… cho đến thành Phật.
mục đích rất chủ yếu là mong cầu tu hành được chuyển mê khai ngộ, ra khỏi ba
cõi, lìa khổ được vui… cho đến thành Phật.
Do từ việc nghe kinh, tụng kinh, chẳng
biết dùng bao nhiêu thời gian, ngược lại biết rất là nhiều danh từ Phật học,
thậm chí còn có thể diễn thuyết công khai, miệng nói ra những Phật pháp chính
mình xem hiểu thông suốt như nước chảy mưa rơi; Nhưng – Ở trong cuộc sống
thường ngày không cách nào đem những Phật pháp, rõ ràng là đạo mà chính mình đã
nói ra được ấy, để ứng dụng, ra sức hành trì, như thế, giảng thì mặc giảng, làm
thì mặc làm, không cách nào ở lúc làm việc và đạo lý mình giảng thích họp với
nhau; như ngồi “tĩnh tọa”, qui định chính mình có thể ngồi rất lâu vững vàng
không động, nhưng – chỉ cần một khi đứng dậy, thì vẫn vậy, theo danh tìm lợi,
không có phương pháp nào đối với cảnh mà chẳng khởi niệm! Tay lần tràng hạt,
tùy lúc tùy nơi niệm Phật, thế nhưng trong tâm vẫn vậy, tính toán so đo: giàu
có, danh vọng, quyền thế v.v… Nếu cách nầy mà học Phật tu hành thì chỉ trên
sự nghiên cứu lý mà thôi, đều chẳng thể lấy ra được một chút nào sức ứng dụng
mà tu hành, ra ba cõi cũng chỉ là tưởng tượng mà thôi!
biết dùng bao nhiêu thời gian, ngược lại biết rất là nhiều danh từ Phật học,
thậm chí còn có thể diễn thuyết công khai, miệng nói ra những Phật pháp chính
mình xem hiểu thông suốt như nước chảy mưa rơi; Nhưng – Ở trong cuộc sống
thường ngày không cách nào đem những Phật pháp, rõ ràng là đạo mà chính mình đã
nói ra được ấy, để ứng dụng, ra sức hành trì, như thế, giảng thì mặc giảng, làm
thì mặc làm, không cách nào ở lúc làm việc và đạo lý mình giảng thích họp với
nhau; như ngồi “tĩnh tọa”, qui định chính mình có thể ngồi rất lâu vững vàng
không động, nhưng – chỉ cần một khi đứng dậy, thì vẫn vậy, theo danh tìm lợi,
không có phương pháp nào đối với cảnh mà chẳng khởi niệm! Tay lần tràng hạt,
tùy lúc tùy nơi niệm Phật, thế nhưng trong tâm vẫn vậy, tính toán so đo: giàu
có, danh vọng, quyền thế v.v… Nếu cách nầy mà học Phật tu hành thì chỉ trên
sự nghiên cứu lý mà thôi, đều chẳng thể lấy ra được một chút nào sức ứng dụng
mà tu hành, ra ba cõi cũng chỉ là tưởng tượng mà thôi!
– Tinh thần của Phật pháp; Chơn nghĩa
của Phật pháp cùng với cách nhìn của người đời chẳng đồng, nhận biết cũng chẳng
đồng. Người đời cho là quí báu, Phật pháp cho là tầm thường, như là châu báu
ngọc ngà v.v… Người đời tham ưa, Phật pháp xả bỏ, như là: tiền bạc, giàu có,
danh vọng, nam nữ… Do Phật pháp chẳng theo thế tục, nên dẫn không được người
đời hứng thú học tập, chẳng giống với ngoại đạo là theo cách thế tục để dụ dẫn
và mê hoặc con người.
của Phật pháp cùng với cách nhìn của người đời chẳng đồng, nhận biết cũng chẳng
đồng. Người đời cho là quí báu, Phật pháp cho là tầm thường, như là châu báu
ngọc ngà v.v… Người đời tham ưa, Phật pháp xả bỏ, như là: tiền bạc, giàu có,
danh vọng, nam nữ… Do Phật pháp chẳng theo thế tục, nên dẫn không được người
đời hứng thú học tập, chẳng giống với ngoại đạo là theo cách thế tục để dụ dẫn
và mê hoặc con người.
Ở trong con đường tu trì ấy, cần phải
biết rõ cái để tu trì ấy là “TÂM”, tu trì là phải dùng cái tâm thế nào để tu,
là tâm phàm hay tâm đạo? Là tâm phàm đúng mức chỉ chẳng qua có thể tự cứu lấy
mình thì tính ra chẳng sai; là tâm đạo quyết cần phải tiếp nhận kiểm tra cái
đạo, cái đức, cái tâm của vô tình đó, cần biết tâm con người tức là đạo tràng
rất nhỏ, không phải sao? Nếu phân biệt chánh – tà, thiện – ác, tốt – xấu, làm
và không làm, tất cả của tất cả đều là ở nơi TÂM, lặng yên khéo suy nghĩ một
chút, thì có thể biết lời nói chẳng ngoa, lặng yên sẽ có thể biết tâm mình làm
cái gì, quên đi tất cả tạm thời thì sẽ lặng yên sẽ dễ dàng một chút.
biết rõ cái để tu trì ấy là “TÂM”, tu trì là phải dùng cái tâm thế nào để tu,
là tâm phàm hay tâm đạo? Là tâm phàm đúng mức chỉ chẳng qua có thể tự cứu lấy
mình thì tính ra chẳng sai; là tâm đạo quyết cần phải tiếp nhận kiểm tra cái
đạo, cái đức, cái tâm của vô tình đó, cần biết tâm con người tức là đạo tràng
rất nhỏ, không phải sao? Nếu phân biệt chánh – tà, thiện – ác, tốt – xấu, làm
và không làm, tất cả của tất cả đều là ở nơi TÂM, lặng yên khéo suy nghĩ một
chút, thì có thể biết lời nói chẳng ngoa, lặng yên sẽ có thể biết tâm mình làm
cái gì, quên đi tất cả tạm thời thì sẽ lặng yên sẽ dễ dàng một chút.
– Sự khoái lạc đời người là việc ngắn
ngủi tạm thời, thế giới Cực Lạc mới là niềm vui vĩnh hằng. Mục đích của tu hành
là cần giải thoát, vượt ra ba cõi, vãng sanh Cực Lạc; con người đều có sinh, lão,
bệnh, tử, có những phiền não, mê hoặc các việc, mà ngay lúc chúng ta giải quyết
những phiền não, mê hoặc của chúng ta thì gọi là giải thoát, giải thoát những
vấn đề trói buột, đoanh vây, khổ đau, mê muội, những vấn đề nầy đều là việc mà
người tu hành cần phải nổ lực. Tu hành là giải quyết những chướng ngại và vấn
đề trên tâm linh, cần phải để cho con đường đạo của nội tâm được thông suốt. Tu
hành chẳng phải chỉ chú trọng công đức ở bên ngoài, mà sơ sài lơ là công đức
bên trong. Công đức bên ngoài là trì giới, bố thí v.v… Công đức bên trong là
tâm thanh tịnh, bình tĩnh, bình hòa, bình đẳng. Nghĩ đông nghĩ tây, kiểu nầy
cũng tốt, kiểu kia cũng cần, dục vọng càng nhiều, tâm thanh tịnh không? Ngay
lúc một con người phiền não, thử nói học có bao nhiêu đức hạnh? Lời nói, hành
vi, cử chỉ biểu hiện ra cũng không có sự tự nhiên bình tĩnh, bình hòa rồi,
huống nữa là lúc họ giận dữ thì lời nói có thể nhu hòa được không? Công đức bên
ngoài cần phải LÀM, công đức bên trong càng cần phải TU.
ngủi tạm thời, thế giới Cực Lạc mới là niềm vui vĩnh hằng. Mục đích của tu hành
là cần giải thoát, vượt ra ba cõi, vãng sanh Cực Lạc; con người đều có sinh, lão,
bệnh, tử, có những phiền não, mê hoặc các việc, mà ngay lúc chúng ta giải quyết
những phiền não, mê hoặc của chúng ta thì gọi là giải thoát, giải thoát những
vấn đề trói buột, đoanh vây, khổ đau, mê muội, những vấn đề nầy đều là việc mà
người tu hành cần phải nổ lực. Tu hành là giải quyết những chướng ngại và vấn
đề trên tâm linh, cần phải để cho con đường đạo của nội tâm được thông suốt. Tu
hành chẳng phải chỉ chú trọng công đức ở bên ngoài, mà sơ sài lơ là công đức
bên trong. Công đức bên ngoài là trì giới, bố thí v.v… Công đức bên trong là
tâm thanh tịnh, bình tĩnh, bình hòa, bình đẳng. Nghĩ đông nghĩ tây, kiểu nầy
cũng tốt, kiểu kia cũng cần, dục vọng càng nhiều, tâm thanh tịnh không? Ngay
lúc một con người phiền não, thử nói học có bao nhiêu đức hạnh? Lời nói, hành
vi, cử chỉ biểu hiện ra cũng không có sự tự nhiên bình tĩnh, bình hòa rồi,
huống nữa là lúc họ giận dữ thì lời nói có thể nhu hòa được không? Công đức bên
ngoài cần phải LÀM, công đức bên trong càng cần phải TU.
– Tu học có hai vấn đề trọng yếu: 1- Tu
huệ, 2- Tu phước.
huệ, 2- Tu phước.
Tu huệ là: Niệm Phật, ngồi yên tham
thiền, tụng kinh, trì chú v.v… được ĐỊNH phát HUỆ.
thiền, tụng kinh, trì chú v.v… được ĐỊNH phát HUỆ.
Tu phước là: Một chút việc ác cũng
không nên làm, còn việc thiện nên làm nhiều, thanh tịnh tự tâm, nhẫn nhục, ăn
toàn đồ chay.
không nên làm, còn việc thiện nên làm nhiều, thanh tịnh tự tâm, nhẫn nhục, ăn
toàn đồ chay.
Học Phật tu hành là nên tu cả hai PHƯỚC
và HUỆ. Chỉ tu phước mà không tu huệ, hoặc chỉ tu huệ mà không tu phước, thì ra
không khỏi ba cõi, vãng sanh thế giới Cực Lạc không được!
và HUỆ. Chỉ tu phước mà không tu huệ, hoặc chỉ tu huệ mà không tu phước, thì ra
không khỏi ba cõi, vãng sanh thế giới Cực Lạc không được!
Phước và Huệ cũng như hai cánh của một
con chim, nếu thiếu một thì không thể bay lên!
con chim, nếu thiếu một thì không thể bay lên!
Ngài Vĩnh Gia Thiền Sư nói rằng:
“Bố thí, trì giới, sinh phước trời;
Cũng như bắn mũi tên lên hư không, hết lực rồi tên lại rơi xuống; Chuốt lấy đời
sau không như ý”.
Cũng như bắn mũi tên lên hư không, hết lực rồi tên lại rơi xuống; Chuốt lấy đời
sau không như ý”.
Giả sử cầu được phước báo trời người,
hưởng tột cùng phú quí vinh hoa, cũng chỉ là phước nhơ (trong năm trược), một
ngày kia hưởng hết rồi, lại gồm được cái gì? Cái hoạn của tâm là ba độc (tham,
sân, si), chỗ thọ là năm dục (tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ);
Như thế chính thật là nhân khổ. Trong kinh dạy rằng:
hưởng tột cùng phú quí vinh hoa, cũng chỉ là phước nhơ (trong năm trược), một
ngày kia hưởng hết rồi, lại gồm được cái gì? Cái hoạn của tâm là ba độc (tham,
sân, si), chỗ thọ là năm dục (tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ);
Như thế chính thật là nhân khổ. Trong kinh dạy rằng:
“Tiền – sắc – danh – ăn – ngủ, năm
việc gốc địa ngục, năm dục nếu chẳng trừ, trần lao không ra khỏi”.
việc gốc địa ngục, năm dục nếu chẳng trừ, trần lao không ra khỏi”.
Người tu hành tịnh nghiệp tâm ham muốn
riêng tư chẳng nên quá nhiều, nếu như ba nghiệp (thân, miệng, ý) không thanh
tịnh là chuốt lấy cái nhân họa vậy! Cho nên nói rằng: không vì tật bệnh đau khổ
mà phát tâm không vì cầu hộ giúp nhà cửa của tiền mà phát tâm, không vì để tăng
thêm phước thọ mà phát tâm; không vì báo đáp tình thân mà khởi niệm phát tâm.
Chỉ có thể vô tâm ở nơi muôn vật, thì ngại gì muôn vật vây quanh, phàm phu có
các món ác duyên trói buột, nên chẳng dễ an tâm tu hành. Chỗ nói đến của Phật
pháp là “tâm pháp”, tâm không an thì có sự trở ngại, không thể tu hành, nên nói
là buông hết.
riêng tư chẳng nên quá nhiều, nếu như ba nghiệp (thân, miệng, ý) không thanh
tịnh là chuốt lấy cái nhân họa vậy! Cho nên nói rằng: không vì tật bệnh đau khổ
mà phát tâm không vì cầu hộ giúp nhà cửa của tiền mà phát tâm, không vì để tăng
thêm phước thọ mà phát tâm; không vì báo đáp tình thân mà khởi niệm phát tâm.
Chỉ có thể vô tâm ở nơi muôn vật, thì ngại gì muôn vật vây quanh, phàm phu có
các món ác duyên trói buột, nên chẳng dễ an tâm tu hành. Chỗ nói đến của Phật
pháp là “tâm pháp”, tâm không an thì có sự trở ngại, không thể tu hành, nên nói
là buông hết.
Phàm phu do kiến chấp về NGÃ (ngã kiến)
sâu dày, phiền não nhiều đời thô nặng, nên chướng ngại về cái “biết”. Kế đến là
chấp người chấp ta, chấp pháp chấp ta. Như thế hai chướng (phiền não chướng, sở
tri chướng) và hai chấp, lại thêm tham dục, sân nhuế, si mê, nhân đó mà tạo
nghiệp, trôi trong sinh tử, dập vùi nơi biển khổ. Cho nên cần phải có cái biết
đúng đắn chân chánh (chánh tri) và cái nhìn thấy chân chánh (chánh kiến). Hai
tâm ghét và yêu đều là bất tịnh. Như nghịch duyên, oán duyên, kết oán với
người, nhìn là thù địch muốn đánh muốn dìm; còn thuận duyên, thân duyên, xem
như thân thuộc sinh tâm yêu mến; Riêng có không oán không thân, duyên chính
giữa, xả thọ không khổ không vui. Còn nếu tình cảnh biến đổi, chuyển yêu thành
ghét, thì sự yêu đó ở đâu? Như vậy xưa nay chẳng thật, bỡi sao cảnh duyên không
tốt xấu, yêu ghét khởi nơi tâm, cho nên chớ nên tin tâm mình! Chúng ta thân
nghiệp báo, coi như nghiệp báo nặng mà thọ chịu nhẹ, thảng nhiên chịu đựng tất
cả giày vò, chỉ hay chuyển tâm niệm Phật, hết báo thân nầy, lại sanh vào nhà
“Pháp vương”. Còn đối với gia đình so tính, con cái, giàu có tiền bạc… hay
danh vọng, sự nghiiệp… trên xã hội, các việc khổ não, nhiều trở ngại cho tâm,
thì phiền não theo đó mà sinh khởi, tâm không được an ổn.
sâu dày, phiền não nhiều đời thô nặng, nên chướng ngại về cái “biết”. Kế đến là
chấp người chấp ta, chấp pháp chấp ta. Như thế hai chướng (phiền não chướng, sở
tri chướng) và hai chấp, lại thêm tham dục, sân nhuế, si mê, nhân đó mà tạo
nghiệp, trôi trong sinh tử, dập vùi nơi biển khổ. Cho nên cần phải có cái biết
đúng đắn chân chánh (chánh tri) và cái nhìn thấy chân chánh (chánh kiến). Hai
tâm ghét và yêu đều là bất tịnh. Như nghịch duyên, oán duyên, kết oán với
người, nhìn là thù địch muốn đánh muốn dìm; còn thuận duyên, thân duyên, xem
như thân thuộc sinh tâm yêu mến; Riêng có không oán không thân, duyên chính
giữa, xả thọ không khổ không vui. Còn nếu tình cảnh biến đổi, chuyển yêu thành
ghét, thì sự yêu đó ở đâu? Như vậy xưa nay chẳng thật, bỡi sao cảnh duyên không
tốt xấu, yêu ghét khởi nơi tâm, cho nên chớ nên tin tâm mình! Chúng ta thân
nghiệp báo, coi như nghiệp báo nặng mà thọ chịu nhẹ, thảng nhiên chịu đựng tất
cả giày vò, chỉ hay chuyển tâm niệm Phật, hết báo thân nầy, lại sanh vào nhà
“Pháp vương”. Còn đối với gia đình so tính, con cái, giàu có tiền bạc… hay
danh vọng, sự nghiiệp… trên xã hội, các việc khổ não, nhiều trở ngại cho tâm,
thì phiền não theo đó mà sinh khởi, tâm không được an ổn.
Người đời đều có tâm, có tâm thì ắt
phải có niệm, khởi niệm thì chắc chăÙn phải có “nhiễm” và “tịnh”, nhiễm là nắm
lấy sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp); Tịnh nghĩa là không nắm lấy
sáu trần. Quán sát lúc ban đầu do tâm niệm của chúng sinh mà sinh ra; cho nên
đức Phật nói: “ba cõi chỉ nơi tâm, muôn pháp chỉ nơi thức”. Nên phải cẩn thận nơi
niệm ban đầu, chế ngự tâm nhiễm, nếu chẳng giữ sáu trần tức là không có nghiệp,
từ đó mà được vô tướng, cho nên một niệm không sinh thì sáu đường (Trời, người,
A tu la, địa ngục, ngạ quỉ, xúc sinh) đều tiêu mất, cắt đứt luân hồi. Hạt giống
nghiệp lại dứt mà ra khỏi ba cõi vậy.
phải có niệm, khởi niệm thì chắc chăÙn phải có “nhiễm” và “tịnh”, nhiễm là nắm
lấy sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp); Tịnh nghĩa là không nắm lấy
sáu trần. Quán sát lúc ban đầu do tâm niệm của chúng sinh mà sinh ra; cho nên
đức Phật nói: “ba cõi chỉ nơi tâm, muôn pháp chỉ nơi thức”. Nên phải cẩn thận nơi
niệm ban đầu, chế ngự tâm nhiễm, nếu chẳng giữ sáu trần tức là không có nghiệp,
từ đó mà được vô tướng, cho nên một niệm không sinh thì sáu đường (Trời, người,
A tu la, địa ngục, ngạ quỉ, xúc sinh) đều tiêu mất, cắt đứt luân hồi. Hạt giống
nghiệp lại dứt mà ra khỏi ba cõi vậy.
Lợi ích của việc học Phật có thể nói từ
hai phương diện:
hai phương diện:
Phương diện chính mình: Người đã học
Phật, có thể nương theo lý Phật mà chiếu xét tư tưởng và hành vi của mình, như
có việc bất chánh thì đưa nó vào chánh, không qui củ đưa vào qui củ (nề nếp),
tu dưỡng đối với thân tâm của mình, rất có ích lợi, là triết học cần thiết cho
việc xử thế.
Phật, có thể nương theo lý Phật mà chiếu xét tư tưởng và hành vi của mình, như
có việc bất chánh thì đưa nó vào chánh, không qui củ đưa vào qui củ (nề nếp),
tu dưỡng đối với thân tâm của mình, rất có ích lợi, là triết học cần thiết cho
việc xử thế.
Phương diện người khác: Học Phật có
thể đem nhân sinh quan riêng tư vì ta mà cải đổi làm “vô ngã đại bi”, nhân sinh
quan hy sinh vì người, mình và người cả hai đều lợi, làm tiêu chuẩn tối cao về
đạo đức của nhân loại, chỉ có người học Phật mới có thể hoàn thành.
thể đem nhân sinh quan riêng tư vì ta mà cải đổi làm “vô ngã đại bi”, nhân sinh
quan hy sinh vì người, mình và người cả hai đều lợi, làm tiêu chuẩn tối cao về
đạo đức của nhân loại, chỉ có người học Phật mới có thể hoàn thành.
Vì sao phải học Phật? Học Phật chắc
chắn có chỗ nhận thức đối với “thật tướng” đời người, có nhận thức thì chắc
chắn có sự bảo bọc nuôi nấng, có sự bảo bọc nuôi nấng quyết chẳng nôn nóng, thì
gặp rất nhiều vấn đề khó khăn trước mắt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu
hoàn cảnh, khuyết điểm hạn cuộc của xã hội hiện thực, phiền não việc người giao
tiếp cái xấu, đều được dẫn dắt từ Thánh trí, đều chỉnh lại tâm cảnh chẳng bình
ổn và hài hòa của mình. Cũng nói thêm rằng, nhân sinh vũ trụ rất nhiều vấn đề
lớn, người học Phật mà nghiên cứu Phật học thì đều có thể hiểu rõ được triệt
để. Học Phật không chỉ tìm kiếm hiểu rõ trong hoàn cảnh cuộc sống hiện thực,
còn phải tìm kiếm trên vấn đề từ sinh tử để giải thoát viên mãn, tìm được chốn
về an lạc rốt ráo của đời người.
chắn có chỗ nhận thức đối với “thật tướng” đời người, có nhận thức thì chắc
chắn có sự bảo bọc nuôi nấng, có sự bảo bọc nuôi nấng quyết chẳng nôn nóng, thì
gặp rất nhiều vấn đề khó khăn trước mắt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu
hoàn cảnh, khuyết điểm hạn cuộc của xã hội hiện thực, phiền não việc người giao
tiếp cái xấu, đều được dẫn dắt từ Thánh trí, đều chỉnh lại tâm cảnh chẳng bình
ổn và hài hòa của mình. Cũng nói thêm rằng, nhân sinh vũ trụ rất nhiều vấn đề
lớn, người học Phật mà nghiên cứu Phật học thì đều có thể hiểu rõ được triệt
để. Học Phật không chỉ tìm kiếm hiểu rõ trong hoàn cảnh cuộc sống hiện thực,
còn phải tìm kiếm trên vấn đề từ sinh tử để giải thoát viên mãn, tìm được chốn
về an lạc rốt ráo của đời người.
– Tu lúc bình thường cuộc sống hàng
ngày cần bình ổn và điềm đạm, tâm tình đối cảnh cần phải bình tĩnh.
ngày cần bình ổn và điềm đạm, tâm tình đối cảnh cần phải bình tĩnh.
Bình đạm: Khổng Minh – Chư Các Lượng
thường nói rằng: “Đạm bạc để sáng Chí, yên tĩnh thì thấy được xa, tất cả
thuận ở nơi tự nhiên”. Con người, có thể bình thường đạm bạc qua một đời
nầy, là một hạnh phúc lớn không gì hơn.
thường nói rằng: “Đạm bạc để sáng Chí, yên tĩnh thì thấy được xa, tất cả
thuận ở nơi tự nhiên”. Con người, có thể bình thường đạm bạc qua một đời
nầy, là một hạnh phúc lớn không gì hơn.
Bình phàm: Gọi là bình phàm, không
giống như thế tục tầm thường, chỉ là chẳng cầu nghe thấu đối với lời khen thế
tục tầm thường, mà là hết lòng hết sức, cày cấy lặng lẽ mà chẳng hỏi thu hoạch
thế nào! Người đời gọi là “Trong lòng nuôi chí lớn mà ngoài mặt như người
thường”.
giống như thế tục tầm thường, chỉ là chẳng cầu nghe thấu đối với lời khen thế
tục tầm thường, mà là hết lòng hết sức, cày cấy lặng lẽ mà chẳng hỏi thu hoạch
thế nào! Người đời gọi là “Trong lòng nuôi chí lớn mà ngoài mặt như người
thường”.
Bình thường: “Người tầm thường phước
nhiều, bình thường là quí báu”, thật là một câu danh ngôn chí lý; bao nhiêu
người đeo đuổi mục đích cao xa, một đời chẳng đạt được những ham muốn cảm thọ
đầy đủ chính ta. Ngạn ngữ có câu rằng: “Bò lên càng cao, té ngã càng nặng”.
nhiều, bình thường là quí báu”, thật là một câu danh ngôn chí lý; bao nhiêu
người đeo đuổi mục đích cao xa, một đời chẳng đạt được những ham muốn cảm thọ
đầy đủ chính ta. Ngạn ngữ có câu rằng: “Bò lên càng cao, té ngã càng nặng”.
Bình tĩnh: Gọi là bình tĩnh, bèn là
một thứ trạng thái tâm tình; thật chẳng phải là “đêm khuya yên tĩnh, muôn tiếng
lặng yên”. “ngọn cỏ chẳng sinh” “trăng sáng sao thưa”, cũng chẳng phải là “nước
dừng trong suốt, trọn không sóng nhỏ lăn tăn”; Trái lại là để chỉ một thứ định
lực, nghị lực, công lực, cũng tức là tu thân dưỡng tâm, còn gọi là nuôi dưỡng
công phu. Chỉ có như đây mới có thể “Trang trọng cung kính tự cường, gặp biến
động không kinh sợ, cẩn thận toan tính có thể cắt đứt”, núi Thái lở sạt trước
mặt mà vẫn không biến sắc.
một thứ trạng thái tâm tình; thật chẳng phải là “đêm khuya yên tĩnh, muôn tiếng
lặng yên”. “ngọn cỏ chẳng sinh” “trăng sáng sao thưa”, cũng chẳng phải là “nước
dừng trong suốt, trọn không sóng nhỏ lăn tăn”; Trái lại là để chỉ một thứ định
lực, nghị lực, công lực, cũng tức là tu thân dưỡng tâm, còn gọi là nuôi dưỡng
công phu. Chỉ có như đây mới có thể “Trang trọng cung kính tự cường, gặp biến
động không kinh sợ, cẩn thận toan tính có thể cắt đứt”, núi Thái lở sạt trước
mặt mà vẫn không biến sắc.
Cho nên nói rằng, bình thường hàng ngày
làm người phải có phong cách mô phạm, cần nên phù họp phạm trù đạo nuôi sống
tâm linh, tu dưỡng tâm lý phải chú trọng hơn sinh lý, tâm lý nếu không khỏe
mạnh thì dẫu trăm vạn, ngàn vạn, ức vạn, mua bán giàu có cũng khó mà mua được
sự khỏe mạnh tâm lý, mong cùng cố gắng nhắc nhở nhau! Quá cầu phú quí, chẳng
bằng tùy sự việc mà an, biết đủ thì thường vui, chỉ cần biết đủ và ít ham muốn,
thì có thể được vui vẻ.
làm người phải có phong cách mô phạm, cần nên phù họp phạm trù đạo nuôi sống
tâm linh, tu dưỡng tâm lý phải chú trọng hơn sinh lý, tâm lý nếu không khỏe
mạnh thì dẫu trăm vạn, ngàn vạn, ức vạn, mua bán giàu có cũng khó mà mua được
sự khỏe mạnh tâm lý, mong cùng cố gắng nhắc nhở nhau! Quá cầu phú quí, chẳng
bằng tùy sự việc mà an, biết đủ thì thường vui, chỉ cần biết đủ và ít ham muốn,
thì có thể được vui vẻ.
– Sao gọi là Tu Hành? Tu hành tức là
“chúng sinh tự tâm thệ nguyện độ” tức là tự tánh mỗi người tự độ, cần rõ hiểu
là chúng sinh của tự tâm – tức là các thứ tâm bất thiện: Tâm tà mê, tâm ác độc,
tâm cuồng vọng, tâm đố kỵ… những tâm bất thiện nầy đều là chúng sinh ở trong
tâm, mỗi người đều cần tự tánh tự độ, đây gọi là “chơn độ”.
“chúng sinh tự tâm thệ nguyện độ” tức là tự tánh mỗi người tự độ, cần rõ hiểu
là chúng sinh của tự tâm – tức là các thứ tâm bất thiện: Tâm tà mê, tâm ác độc,
tâm cuồng vọng, tâm đố kỵ… những tâm bất thiện nầy đều là chúng sinh ở trong
tâm, mỗi người đều cần tự tánh tự độ, đây gọi là “chơn độ”.
Sao gọi là “tự tánh tự độ” ư? Tức là
nắm lấy chúng sinh si mê, phiền não, tà kiến còn tồn tại ở trong tâm mình, dùng
“Đạo đế” trong bốn chánh đế (Chánh kiến của tám chánh đạo), thấy hiểu chính xác
để độ thoát chúng nó, tức là tiêu trừ hóa giải phiền não ở nơi vô hình. Diệt
sạch tất cả bất thiện, phát tâm bồ đề, xa lìa tâm niệm nhơ uế lộn xộn, khiến
trong tâm thuần khiết.
nắm lấy chúng sinh si mê, phiền não, tà kiến còn tồn tại ở trong tâm mình, dùng
“Đạo đế” trong bốn chánh đế (Chánh kiến của tám chánh đạo), thấy hiểu chính xác
để độ thoát chúng nó, tức là tiêu trừ hóa giải phiền não ở nơi vô hình. Diệt
sạch tất cả bất thiện, phát tâm bồ đề, xa lìa tâm niệm nhơ uế lộn xộn, khiến
trong tâm thuần khiết.
– “Tu hành” tức là “tu chánh hành vi”,
hành vi chúng ta đã có những sai lầm, sai lệch, sửa cho chính lại những lỗi sai
lầm, lệch lạc ấy, đây tức gọi là: Tu hành. Hành vi của chúng ta trong cuộc sống
ngày thường rất nhiều rất nhiều, Đức Phật dùng phương pháp qui nạp đem nó phân
làm ba loại lớn: Thân – miệng – ý. Thân là hành vi của chúng ta. Miệng là lời
nói. Ý là tư tưởng, là thấy hiểu. Dùng ba loại lớn nầy thì đều đã bao quát hành
vi của chúng ta, ba loại lớn nầy nếu có tổn hại, bất lợi, lỗi lầm, sai lệch đối
với chúng sinh, thì đem chúng mà sửa đổi cho chân chính trở lại; Đây gọi là tu
hành.
hành vi chúng ta đã có những sai lầm, sai lệch, sửa cho chính lại những lỗi sai
lầm, lệch lạc ấy, đây tức gọi là: Tu hành. Hành vi của chúng ta trong cuộc sống
ngày thường rất nhiều rất nhiều, Đức Phật dùng phương pháp qui nạp đem nó phân
làm ba loại lớn: Thân – miệng – ý. Thân là hành vi của chúng ta. Miệng là lời
nói. Ý là tư tưởng, là thấy hiểu. Dùng ba loại lớn nầy thì đều đã bao quát hành
vi của chúng ta, ba loại lớn nầy nếu có tổn hại, bất lợi, lỗi lầm, sai lệch đối
với chúng sinh, thì đem chúng mà sửa đổi cho chân chính trở lại; Đây gọi là tu
hành.
– Tu hành là nương nơi qui củ mực thước
của Phật pháp, để tu trì học tập, dựa trên qui củ chân chánh của Phật pháp,
tịnh hóa thân tâm của mình, đem toàn bộ những tập khí vô minh của sự sai lầm
bất chính đều sửa đổi cho chân chính trở lại, mà đạt được mục đích tột cùng của
sự tu hành là THÀNH PHẬT!
của Phật pháp, để tu trì học tập, dựa trên qui củ chân chánh của Phật pháp,
tịnh hóa thân tâm của mình, đem toàn bộ những tập khí vô minh của sự sai lầm
bất chính đều sửa đổi cho chân chính trở lại, mà đạt được mục đích tột cùng của
sự tu hành là THÀNH PHẬT!
Phật pháp chú trọng là ở sự thực tiễn,
là hiểu, làm và tiến bộ, chẳng lẻ loi chỉ là sự hiểu biết trên chữ nghĩa, mà
còn phải làm trên hành vi. Nếu chỉ nói mà chẳng thể làm, thì dẫu hiểu đạo lý ở
trong đầu có đại tạng kinh, cũng vĩnh viễn không thể giải thoát. Nếu miệng nói,
lại còn có thể thực hành thì mới hữu dụng.
là hiểu, làm và tiến bộ, chẳng lẻ loi chỉ là sự hiểu biết trên chữ nghĩa, mà
còn phải làm trên hành vi. Nếu chỉ nói mà chẳng thể làm, thì dẫu hiểu đạo lý ở
trong đầu có đại tạng kinh, cũng vĩnh viễn không thể giải thoát. Nếu miệng nói,
lại còn có thể thực hành thì mới hữu dụng.
– Đường tắt của sự tu hành không những
cần khắc phục những vấn đề hữu hình như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghỉ… mà bên trong còn phải chế ngự ngàn vạn tà ma trong tâm của mình
như: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà, đố, hận, giải đãi, dục vọng… những phiền
não của vô minh, những tà ma còn đáng sợ hơn những chướng ngại hữu hình. Tu
hành là vì khắc phục phiền não ma chướng ở trong nội tâm chúng ta và tất cả
những nhiễu loạn và chướng ngại bên ngoài, đồng thời còn phải nhẫn chịu những
sỉ nhục và khổ nạn từ ngoài đem đến.
cần khắc phục những vấn đề hữu hình như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghỉ… mà bên trong còn phải chế ngự ngàn vạn tà ma trong tâm của mình
như: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà, đố, hận, giải đãi, dục vọng… những phiền
não của vô minh, những tà ma còn đáng sợ hơn những chướng ngại hữu hình. Tu
hành là vì khắc phục phiền não ma chướng ở trong nội tâm chúng ta và tất cả
những nhiễu loạn và chướng ngại bên ngoài, đồng thời còn phải nhẫn chịu những
sỉ nhục và khổ nạn từ ngoài đem đến.
Thường niệm, tư duy và quán sát thiện
pháp, nhiên hậu mới có thể phát sinh tác dụng chân chánh về thiện pháp. Thường
niệm thiện pháp, thời khắc nào cũng chẳng nên quên mất. Tư duy thiện pháp
thường tồn tại trong tâm, trong đầu, xem chừng thiện pháp mình làm, đối với
mình với người khác là có ích hay không? Quán sát thiện pháp là cần phải kiểm
tra sự khởi tâm động niệm của chúng ta từ sự nhìn lại và xét nét trong nội tâm,
không để cho niệm đầu bất thiện sinh khởi.
pháp, nhiên hậu mới có thể phát sinh tác dụng chân chánh về thiện pháp. Thường
niệm thiện pháp, thời khắc nào cũng chẳng nên quên mất. Tư duy thiện pháp
thường tồn tại trong tâm, trong đầu, xem chừng thiện pháp mình làm, đối với
mình với người khác là có ích hay không? Quán sát thiện pháp là cần phải kiểm
tra sự khởi tâm động niệm của chúng ta từ sự nhìn lại và xét nét trong nội tâm,
không để cho niệm đầu bất thiện sinh khởi.
Phần lớn người tu hành và không tu
hành, thì phân biệt ở nơi ba nghiệp: Thân, miệng, ý. Nếu thân làm việc ác,
miệng nói lời ác, ý khởi niệm ác, tức là người không tu hành.
hành, thì phân biệt ở nơi ba nghiệp: Thân, miệng, ý. Nếu thân làm việc ác,
miệng nói lời ác, ý khởi niệm ác, tức là người không tu hành.
– PHẬT, là người tu hành, không phải
thần. Hãy nhìn khắp toàn thế giới các tôn giáo, trừ Phật giáo ra, không có giáo
chủ một tôn giáo nào là chẳng lấy cách thức tự phong cho là “Thần siêu nhân”.
thần. Hãy nhìn khắp toàn thế giới các tôn giáo, trừ Phật giáo ra, không có giáo
chủ một tôn giáo nào là chẳng lấy cách thức tự phong cho là “Thần siêu nhân”.
Giáo chủ Phật giáo là Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, cho là tốt – xấu, họa – phước, thành – bại, vinh – nhục, đều quyết định
ở nơi hành vi chính mình, thiện và ác do sự nổ lực hay không thôi. Không có một
cá nhân nào có thể chịu sự đề bạt lên thiên đường, cũng không có một cá nhân
nào có thể ngang chướng mà xô đẩy người thiện rơi vào địa ngục được. Khen tốt
hay ca tụng thì không thể lìa khổ được vui đâu, chỉ có thể dẫm lên sự thật là
tu thân dưỡng tánh, mới có thể khiến cho nhân cách của mình được tịnh hóa thăng
hoa, khiến cho mình hưởng thọ được niềm vui của sự được lý an; Con người phân ra
kẻ thượng trí, người trung bình và hạng hạ ngu, nhưng hễ thỏa đáng (đúng) căn
cơ thì hiệu quả, do đó Phật giáo là tôn giáo tín ngưỡng chính mình, người làm
thiện thì được quả thiện, ngưới làm ác chắc chắn thọ quả khổ; Do đó cần được
huệ nhãn giải thoát, thì ắt cần phải tu trì chí thành, lấy giới – định – huệ để
phá trừ tham – sân – si, lấy mười việc thiện để đối trị mười việc ác, nương
theo tám đường chánh để tiến hành tăng trưởng đạo đức thực tiễn qua thời gian,
công phu đến một lúc bèn có thể diệt trừ tất cả phiền não, khổ đau, thoát ly
cảnh giới sinh tử luân hồi.
Mâu Ni, cho là tốt – xấu, họa – phước, thành – bại, vinh – nhục, đều quyết định
ở nơi hành vi chính mình, thiện và ác do sự nổ lực hay không thôi. Không có một
cá nhân nào có thể chịu sự đề bạt lên thiên đường, cũng không có một cá nhân
nào có thể ngang chướng mà xô đẩy người thiện rơi vào địa ngục được. Khen tốt
hay ca tụng thì không thể lìa khổ được vui đâu, chỉ có thể dẫm lên sự thật là
tu thân dưỡng tánh, mới có thể khiến cho nhân cách của mình được tịnh hóa thăng
hoa, khiến cho mình hưởng thọ được niềm vui của sự được lý an; Con người phân ra
kẻ thượng trí, người trung bình và hạng hạ ngu, nhưng hễ thỏa đáng (đúng) căn
cơ thì hiệu quả, do đó Phật giáo là tôn giáo tín ngưỡng chính mình, người làm
thiện thì được quả thiện, ngưới làm ác chắc chắn thọ quả khổ; Do đó cần được
huệ nhãn giải thoát, thì ắt cần phải tu trì chí thành, lấy giới – định – huệ để
phá trừ tham – sân – si, lấy mười việc thiện để đối trị mười việc ác, nương
theo tám đường chánh để tiến hành tăng trưởng đạo đức thực tiễn qua thời gian,
công phu đến một lúc bèn có thể diệt trừ tất cả phiền não, khổ đau, thoát ly
cảnh giới sinh tử luân hồi.
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thuyết
pháp bốn mươi chín năm: Không pháp nào chẳng vì người đời, mà chỉ đưa ra một
điều là: “Đạo thành Phật”. Tự mình sáng tạo ra trí huệ và nhân cách viên mãn rất
triệt để, chỉ một đường nầy lại là chính mình nhờ vào nghị lực, đi bằng trí huệ
và tâm thường hằng để hoàn thành nó, cho nên biết rằng thành Phật, bí quyết tu
hành là từng giọt công phu, từng bước tu hành, một bước tới trời là không lên
được.
pháp bốn mươi chín năm: Không pháp nào chẳng vì người đời, mà chỉ đưa ra một
điều là: “Đạo thành Phật”. Tự mình sáng tạo ra trí huệ và nhân cách viên mãn rất
triệt để, chỉ một đường nầy lại là chính mình nhờ vào nghị lực, đi bằng trí huệ
và tâm thường hằng để hoàn thành nó, cho nên biết rằng thành Phật, bí quyết tu
hành là từng giọt công phu, từng bước tu hành, một bước tới trời là không lên
được.
Học Phật trong cuộc sống hiện thực là
vì đã trải qua cuộc sống lý tánh, trong lòng đã hàng phục được phiền não chính
mình, trước mắt làm bất cứ việc gì, trước nhất nghĩ xem chúng sinh, nếu như làm
sẽ tổn hại đến chúng sinh, như thế thì không nên làm!
vì đã trải qua cuộc sống lý tánh, trong lòng đã hàng phục được phiền não chính
mình, trước mắt làm bất cứ việc gì, trước nhất nghĩ xem chúng sinh, nếu như làm
sẽ tổn hại đến chúng sinh, như thế thì không nên làm!
– Người học Phật cần nên KHÔNG ở nơi
tâm, KHÔNG, thì có thể giải thoát, chẳng như vậy thì Từ bi nhiều, nhọc nhằn
gánh vát cũng nhiều.
tâm, KHÔNG, thì có thể giải thoát, chẳng như vậy thì Từ bi nhiều, nhọc nhằn
gánh vát cũng nhiều.
– Pháp môn niệm Phật rất thù thắng và
tôn quí, khắp nhiếp hết căn cơ (thượng, trung, hạ) của chúng sinh. Như thế tại
sao lại khiến cho người ta tâm tịnh (KHÔNG)? Đầu tiên cần phải bỏ hạnh ác, xa
lìa tham dục, dục nhiễm (ham muốn nhơ uế) chẳng tịnh, tâm chẳng tịnh thì niệm
Phật không rõ. Cần thiết cho việc tu tâm là ở sự giữ gìn kiên cố giới pháp.
Giới bị dục nhiễm là do ba nghiệp, tất cả chỉ nơi tâm tạo ra, sự ham muốn được
sinh ra, rồi kết nhóm, khởi lên, duyên với nhau, nghiệp của ham muốn là do tâm
sinh, nên theo đó các pháp được sinh, một khi đắm nhiễm tức là bị trói buột,
chẳng được tự tại. Cho nên yêu tiền của thì chết vì tiền của, yêu danh thì chết
vì danh, các việc khác thì xét biết. Sự nhiễm của cái nhiễm xô không đi, rảy
không rớt, xen lẫn trói buột, nếu động thì buột càng chặc, nếu có thể không Ái
không Thủ đối với sự ham muốn, cũng như “tráng sĩ chặt tay”; Hoa sen mọc lên từ
bùn lầy mà chẳng bị nhơ.
tôn quí, khắp nhiếp hết căn cơ (thượng, trung, hạ) của chúng sinh. Như thế tại
sao lại khiến cho người ta tâm tịnh (KHÔNG)? Đầu tiên cần phải bỏ hạnh ác, xa
lìa tham dục, dục nhiễm (ham muốn nhơ uế) chẳng tịnh, tâm chẳng tịnh thì niệm
Phật không rõ. Cần thiết cho việc tu tâm là ở sự giữ gìn kiên cố giới pháp.
Giới bị dục nhiễm là do ba nghiệp, tất cả chỉ nơi tâm tạo ra, sự ham muốn được
sinh ra, rồi kết nhóm, khởi lên, duyên với nhau, nghiệp của ham muốn là do tâm
sinh, nên theo đó các pháp được sinh, một khi đắm nhiễm tức là bị trói buột,
chẳng được tự tại. Cho nên yêu tiền của thì chết vì tiền của, yêu danh thì chết
vì danh, các việc khác thì xét biết. Sự nhiễm của cái nhiễm xô không đi, rảy
không rớt, xen lẫn trói buột, nếu động thì buột càng chặc, nếu có thể không Ái
không Thủ đối với sự ham muốn, cũng như “tráng sĩ chặt tay”; Hoa sen mọc lên từ
bùn lầy mà chẳng bị nhơ.
– Người tu hành tịnh nghiệp, đối với tự
mỗi cuộc sống, thiểu dục tri túc sẽ được đầy đủ, như đối với áo mặc, cơm ăn,
chỗ ở, tới lui đều cần nên đạm bạc, càng đạm bạc càng tốt, thì sẽ không có sự
trở ngại, công dụng đối với sự tinh tấn, dứt diệt tất cả tâm: Lợi danh, ham
muốn, tham luyến, cống cao, bao che, nhân – ngã, thị – phi… đều nên diệt hết.
mỗi cuộc sống, thiểu dục tri túc sẽ được đầy đủ, như đối với áo mặc, cơm ăn,
chỗ ở, tới lui đều cần nên đạm bạc, càng đạm bạc càng tốt, thì sẽ không có sự
trở ngại, công dụng đối với sự tinh tấn, dứt diệt tất cả tâm: Lợi danh, ham
muốn, tham luyến, cống cao, bao che, nhân – ngã, thị – phi… đều nên diệt hết.
– Đã niệm Phật nhiều năm, muốn cầu
chứng được cảnh giới “nhất tâm bất loạn”, nhân vì căn tánh của mỗi người nào
là: nghiệp chướng, phước đức, nhân duyên, tinh tấn có khác nhau, trên thời gian
cũng rất khó nói, ra công đến lúc tự nhiên “nhất tâm bất loạn”; còn cưỡng cầu
trái lại thì tâm càng loạn.
chứng được cảnh giới “nhất tâm bất loạn”, nhân vì căn tánh của mỗi người nào
là: nghiệp chướng, phước đức, nhân duyên, tinh tấn có khác nhau, trên thời gian
cũng rất khó nói, ra công đến lúc tự nhiên “nhất tâm bất loạn”; còn cưỡng cầu
trái lại thì tâm càng loạn.
– Sự chứng nghiệm của niệm Phật rất
nhiều, như là: hương lạ bay đầy nhà, nhạc trời réo rắt trên không trung, thấy
hoa thấy hào quang, ánh sáng chiếu đến thân thể, tòa báu hiện ra trước mặt,
biết trước giờ lâm chung đến, sắc mặt như lúc còn sống, thân thể mềm mại, khí
nóng trên đảnh đầu chưa tan v.v… không phải là một việc.
nhiều, như là: hương lạ bay đầy nhà, nhạc trời réo rắt trên không trung, thấy
hoa thấy hào quang, ánh sáng chiếu đến thân thể, tòa báu hiện ra trước mặt,
biết trước giờ lâm chung đến, sắc mặt như lúc còn sống, thân thể mềm mại, khí
nóng trên đảnh đầu chưa tan v.v… không phải là một việc.
Rất nhiều bạn lành ban đầu mới bước vào
cửa Phật, chẳng biết làm gì đối với đời ác, chỉ trì niệm Nam Mô A Di Đà Phật,
thì đã có chỗ tốt đẹp bất khả tư nghì, nói không thể hết. Đức Phật Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni thương xót chúng hữu tình của cõi Ta Bà, ở trong kinh điển nhiều lần
nhắc nhở, khuyến khích niệm Phật, chúng ta nên cảm lấy ơn niệm Phật, tin thọ
vưng làm, nguyện xin chư vị bạn lành lập tức phát tâm tu hành, tịnh niệm tương
tục, nhất tâm chuyên ròng niệm Phật, nếu chân chánh dụng công, cần nên biết
rằng tu hành là việc lớn bổn phận. Mưu sinh công tác chỉ là liên hệ cái nghiệp
bức bách.
cửa Phật, chẳng biết làm gì đối với đời ác, chỉ trì niệm Nam Mô A Di Đà Phật,
thì đã có chỗ tốt đẹp bất khả tư nghì, nói không thể hết. Đức Phật Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni thương xót chúng hữu tình của cõi Ta Bà, ở trong kinh điển nhiều lần
nhắc nhở, khuyến khích niệm Phật, chúng ta nên cảm lấy ơn niệm Phật, tin thọ
vưng làm, nguyện xin chư vị bạn lành lập tức phát tâm tu hành, tịnh niệm tương
tục, nhất tâm chuyên ròng niệm Phật, nếu chân chánh dụng công, cần nên biết
rằng tu hành là việc lớn bổn phận. Mưu sinh công tác chỉ là liên hệ cái nghiệp
bức bách.
Người ta nếu gặp nghịch cảnh, chỉ tăng
sức niệm Phật ngày đêm, thành tâm bố thí nhiều, chẳng chấp giữ lấy duyên trần,
chẳng cảm lấy sự ham muốn của tình thức, nhất tâm tinh tấn ở nơi vô vi, không
dấy vọng tưởng, không khởi tạp niệm; Một cái vọng tưởng, một cái sinh tử, một
cái tạp niệm, một cái chướng, không dấy vọng tưởng thì không khởi tham, sân,
si, không khởi tạp niệm thì không sinh sự so tính nhân – ngã, thị – phi. Giữ
chí chẳng hai, tâm trì hiệu Phật, niệm niệm rõ sáng, niệm niệm giác ngộ, là tâm
thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, cũng là tịnh nghiệp.
sức niệm Phật ngày đêm, thành tâm bố thí nhiều, chẳng chấp giữ lấy duyên trần,
chẳng cảm lấy sự ham muốn của tình thức, nhất tâm tinh tấn ở nơi vô vi, không
dấy vọng tưởng, không khởi tạp niệm; Một cái vọng tưởng, một cái sinh tử, một
cái tạp niệm, một cái chướng, không dấy vọng tưởng thì không khởi tham, sân,
si, không khởi tạp niệm thì không sinh sự so tính nhân – ngã, thị – phi. Giữ
chí chẳng hai, tâm trì hiệu Phật, niệm niệm rõ sáng, niệm niệm giác ngộ, là tâm
thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, cũng là tịnh nghiệp.
Người phàm phu thời mạt pháp chướng
nặng nề, căn ám độn rất nhiều, người ta bất tất cần cầu quá cao, chậm chậm lại,
chớ nên gấp rút, muốn mau thì chẳng được (dục tốc bất đạt), thời gian và không
gian đều cần phải phối họp, đồng thời cần phải có tâm nhẫn nại, nhân duyên chưa
thành thục thì nóng lòng chưa chắc có hiệu quả.
nặng nề, căn ám độn rất nhiều, người ta bất tất cần cầu quá cao, chậm chậm lại,
chớ nên gấp rút, muốn mau thì chẳng được (dục tốc bất đạt), thời gian và không
gian đều cần phải phối họp, đồng thời cần phải có tâm nhẫn nại, nhân duyên chưa
thành thục thì nóng lòng chưa chắc có hiệu quả.
Niệm Phật quyết cần phải dẹp bỏ buông
hết những bụi phấn cố chấp trong tâm và ngoài thân, nhất tâm trì niệm danh hiệu
Phật, nhiên hậu mới có thể tương ứng, đem một câu danh hiệu Phật, niệm cho được
rõ ràng, chớ nên giữ niệm nghi ngờ, quyết niệm được trong tâm có Phật, đến nhất
tâm bất loạn. Niệm Phật chẳng khó, nhưng khó ở chỗ là có tâm cung kính, chí
thành và lâu dài hay không thôi! Vì vậy nên cùng là người niệm Phật, nhưng sự
cảm ứng ở nơi mỗi người thì chẳng đồng nhau.
hết những bụi phấn cố chấp trong tâm và ngoài thân, nhất tâm trì niệm danh hiệu
Phật, nhiên hậu mới có thể tương ứng, đem một câu danh hiệu Phật, niệm cho được
rõ ràng, chớ nên giữ niệm nghi ngờ, quyết niệm được trong tâm có Phật, đến nhất
tâm bất loạn. Niệm Phật chẳng khó, nhưng khó ở chỗ là có tâm cung kính, chí
thành và lâu dài hay không thôi! Vì vậy nên cùng là người niệm Phật, nhưng sự
cảm ứng ở nơi mỗi người thì chẳng đồng nhau.
Phàm phu nhiều điều bất tịnh cho nên
mới học Phật tu hành. Tu hành tức là lãnh hội như thế nào để trừ bỏ công phu bất
tịnh, ra tay theo sự tịnh hóa tâm địa, đã không bàn luận lẽ mầu nhiệm, cũng
không cần cảm ứng thần bí, hoàn toàn là công khai, bắt đầu từ sự làm người tu
thân dưỡng tánh.
mới học Phật tu hành. Tu hành tức là lãnh hội như thế nào để trừ bỏ công phu bất
tịnh, ra tay theo sự tịnh hóa tâm địa, đã không bàn luận lẽ mầu nhiệm, cũng
không cần cảm ứng thần bí, hoàn toàn là công khai, bắt đầu từ sự làm người tu
thân dưỡng tánh.
Bất tịnh tức là ác, tịnh tức là thiện,
trong ruộng thức thứ tám (A lại da / tàng thức) được giữ – hột giống thiện ác
đều có, gặp duyên bên ngoài đụng tới tức họp. Nhưng học việc ác rất mau, nói ra
tức hiểu liền, cho nên dễ đọa vào ba đường; Học việc thiện thì cần có tánh nhẫn
nại, lần hồi huân tập, so ra thì chậm hơn nhiều.
trong ruộng thức thứ tám (A lại da / tàng thức) được giữ – hột giống thiện ác
đều có, gặp duyên bên ngoài đụng tới tức họp. Nhưng học việc ác rất mau, nói ra
tức hiểu liền, cho nên dễ đọa vào ba đường; Học việc thiện thì cần có tánh nhẫn
nại, lần hồi huân tập, so ra thì chậm hơn nhiều.
Chúng ta sỡ dĩ học Phật tức là sửa đổi
cái bất tịnh làm cho tịnh, bỏ ác hướng thiện, cho nên học Phật niệm Phật được
gọi là TỊNH NGHIỆP, đơn giản như thế. Nhưng người niệm Phật nhiều năm, làm
người tiến bộ bao nhiêu? Rất nhiều chẳng thể. Đã gọi là tịnh nghiệp tức là ba
nghiệp không nhiễm mà phải tịnh; nội dung bao gồm: Thân – không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm. Miệng – không nói láo, không ác khẩu, không nói hai
chiều, không nói chìu uốn nịnh nọt. Ý – Không tham muốn, không sân nhuế, không
ngu si; Do bắt đầu từ mười việc thiện nầy, tiến đến mà làm được căn bản Phật
pháp là Từ – Bi – Hỷ – Xả.
cái bất tịnh làm cho tịnh, bỏ ác hướng thiện, cho nên học Phật niệm Phật được
gọi là TỊNH NGHIỆP, đơn giản như thế. Nhưng người niệm Phật nhiều năm, làm
người tiến bộ bao nhiêu? Rất nhiều chẳng thể. Đã gọi là tịnh nghiệp tức là ba
nghiệp không nhiễm mà phải tịnh; nội dung bao gồm: Thân – không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm. Miệng – không nói láo, không ác khẩu, không nói hai
chiều, không nói chìu uốn nịnh nọt. Ý – Không tham muốn, không sân nhuế, không
ngu si; Do bắt đầu từ mười việc thiện nầy, tiến đến mà làm được căn bản Phật
pháp là Từ – Bi – Hỷ – Xả.
– Khởi tâm động niệm tạo nghiệp phải
làm cách nào? Không có biện pháp nào tốt, duy chỉ có chánh niệm hiện tiền, niệm
danh hiệu Phật, lấy danh hiệu Phật để thay thế vọng niệm, bất kỳ phiền não nào
khởi lên, chỉ lo niệm Phật, chẳng cần lý giải về nó, mỗi niệm đều là tịnh
nghiệp thì chẳng tạo ra tai vạ mới.
làm cách nào? Không có biện pháp nào tốt, duy chỉ có chánh niệm hiện tiền, niệm
danh hiệu Phật, lấy danh hiệu Phật để thay thế vọng niệm, bất kỳ phiền não nào
khởi lên, chỉ lo niệm Phật, chẳng cần lý giải về nó, mỗi niệm đều là tịnh
nghiệp thì chẳng tạo ra tai vạ mới.
– Niệm Phật tu hành mà vẫn còn lâu chưa
có chỗ tiến bộ là nguyên nhân tại sao? Bỡi vì bình thường phần nhiều hay chú
trọng đến các duyên nhiễm ô. Người phàm phu đa số là có thói quen đắm nhiễm, do
đó tâm bị cấu uế, việc làm tức nương theo, nên dễ tạo lỗi, phạm lỗi; người học
Phật thì phải “hạ thủ công phu” từ đây. Nếu như ta khinh mạn, chê bai, đố kỵ,
ghen ghét, phân biệt, so đo v.v… đều là chướng, cách đạo rất xa. Nên phải
thường kiểm nghiệm cái tâm, tự hổ thẹn, sám hối nhiều, bỏ nhơ lấy sạch, nghiệp
chướng lần hồi tiêu trừ, mới có cảnh giới tiến bộ cho thân tâm.
có chỗ tiến bộ là nguyên nhân tại sao? Bỡi vì bình thường phần nhiều hay chú
trọng đến các duyên nhiễm ô. Người phàm phu đa số là có thói quen đắm nhiễm, do
đó tâm bị cấu uế, việc làm tức nương theo, nên dễ tạo lỗi, phạm lỗi; người học
Phật thì phải “hạ thủ công phu” từ đây. Nếu như ta khinh mạn, chê bai, đố kỵ,
ghen ghét, phân biệt, so đo v.v… đều là chướng, cách đạo rất xa. Nên phải
thường kiểm nghiệm cái tâm, tự hổ thẹn, sám hối nhiều, bỏ nhơ lấy sạch, nghiệp
chướng lần hồi tiêu trừ, mới có cảnh giới tiến bộ cho thân tâm.
Luận “NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG”
nói:
nói:
– “Niệm Phật có mười việc làm trở
ngại lớn, chẳng nên cầu, người tu hành cần phải biết:
ngại lớn, chẳng nên cầu, người tu hành cần phải biết:
1. Niệm Phật chẳng cầu không bệnh.
2. Xử thế chẳng cầu không nạn.
3. Xét tâm chẳng cầu không chướng.
4. Gắng làm chẳng cầu không ma.
5. Mưu việc chẳng cầu cầu dễ
thành.
thành.
6. Giao tình chẳng cầu lợi mình.
7. Đối người chẳng cầu thuận –
thông.
thông.
8. Làm ơn chẳng cầu đền đáp.
9. Thấy lợi chẳng cầu chia chiếm.
10. Oan ức chẳng cầu biện minh.
Tâm có niệm lộn xộn thì chẳng tịnh,
vọng tưởng là ma của tâm. Lời thuật trên cần cho chúng ta lâu dài luyện tập,
cũng như cổ đức nói rằng: “Người đến chỗ VÔ CẦU thì phẩm giá tự nhiên cao”.
Đây là tính trọng yếu của việc tu dưỡng đã nói rõ.
vọng tưởng là ma của tâm. Lời thuật trên cần cho chúng ta lâu dài luyện tập,
cũng như cổ đức nói rằng: “Người đến chỗ VÔ CẦU thì phẩm giá tự nhiên cao”.
Đây là tính trọng yếu của việc tu dưỡng đã nói rõ.
– Người tu hành tịnh nghiệp, quên đi
sinh tử, chẳng quan tâm đến sự tính toán nói năng ngoài miệng, quán sát ngay
nơi ngũ ấm là vô thường, thời gian không đợi ta, vui chơi một thuở mà lo sầu
dài sau, đau xót tự nhàm lìa Ta Bà mà vui vẻ mong cầu vãng sanh Cực Lạc. Ngày
nay bắt đầu chớ nên than học chậm, chỉ sợ rằng thiếu chí mà thôi!
sinh tử, chẳng quan tâm đến sự tính toán nói năng ngoài miệng, quán sát ngay
nơi ngũ ấm là vô thường, thời gian không đợi ta, vui chơi một thuở mà lo sầu
dài sau, đau xót tự nhàm lìa Ta Bà mà vui vẻ mong cầu vãng sanh Cực Lạc. Ngày
nay bắt đầu chớ nên than học chậm, chỉ sợ rằng thiếu chí mà thôi!
– Lực chính của niệm Phật, trước nhất
là cần tâm chí thành – chân tâm chẳng dứt. Niệm Phật phải thanh tịnh để đoạn
trừ phiền não, là TỰ LỰC chí thành niệm Phật, cảm được sự gia bị của Phật đó là
THA LỰC; Pháp môn niệm Phật rất thù thắng, thành tựu ở chỗ tức là hai lực TỰ –
THA, nếu đem tâm chí thành niệm Phật, phiền não có thể giảm nhẹ, thậm chí được
tiêu trừ. Lúc chí thành niệm Phật, đối với các việc nhân – ngã, thị – phi, được
– mất, tốt – xấu, chẳng khởi tâm yêu – ghét, chẳng chuyển theo cảnh, chẳng sinh
phiền não, một mức rất chí thành, nhất tâm bất loạn, mạng chung nhất định sanh
vào nhà Như lai.
là cần tâm chí thành – chân tâm chẳng dứt. Niệm Phật phải thanh tịnh để đoạn
trừ phiền não, là TỰ LỰC chí thành niệm Phật, cảm được sự gia bị của Phật đó là
THA LỰC; Pháp môn niệm Phật rất thù thắng, thành tựu ở chỗ tức là hai lực TỰ –
THA, nếu đem tâm chí thành niệm Phật, phiền não có thể giảm nhẹ, thậm chí được
tiêu trừ. Lúc chí thành niệm Phật, đối với các việc nhân – ngã, thị – phi, được
– mất, tốt – xấu, chẳng khởi tâm yêu – ghét, chẳng chuyển theo cảnh, chẳng sinh
phiền não, một mức rất chí thành, nhất tâm bất loạn, mạng chung nhất định sanh
vào nhà Như lai.
– Người đời ưa chấp có NGÃ, vì “có ngã”
nên tạo nghiệp thọ khổ. Do có ngã nên sanh ra ba thứ bệnh: – Những vấn đề họp
với ta thì sinh ra tưởng duyên gần gũi (Thân duyên tưởng), như: người thân, cha
mẹ, vợ chồng, con cái v.v… những việc nghịch với ta thì sinh tưởng duyên oán
giận (oán duyên tưởng) – đối với việc không thuận không trái thì là tưởng duyên
trung bình (trung duyên tưởng). Do ba thứ nầy cảm thọ không đồng; như thân
duyên tưởng thì sinh LẠC THỌ; Oán duyên tưởng thì sinh KHỔ THỌ; trung duyên
tưởng thì sinh XẢ THỌ, chẳng khổ chẳng vui. Do ba món THỌ nầy dẫn sinh ra ba
món độc: Tham, sân, si. Vì sao? Lạc thọ sinh tham, khổ thọ sinh sân, và xả thọ
sinh si.
nên tạo nghiệp thọ khổ. Do có ngã nên sanh ra ba thứ bệnh: – Những vấn đề họp
với ta thì sinh ra tưởng duyên gần gũi (Thân duyên tưởng), như: người thân, cha
mẹ, vợ chồng, con cái v.v… những việc nghịch với ta thì sinh tưởng duyên oán
giận (oán duyên tưởng) – đối với việc không thuận không trái thì là tưởng duyên
trung bình (trung duyên tưởng). Do ba thứ nầy cảm thọ không đồng; như thân
duyên tưởng thì sinh LẠC THỌ; Oán duyên tưởng thì sinh KHỔ THỌ; trung duyên
tưởng thì sinh XẢ THỌ, chẳng khổ chẳng vui. Do ba món THỌ nầy dẫn sinh ra ba
món độc: Tham, sân, si. Vì sao? Lạc thọ sinh tham, khổ thọ sinh sân, và xả thọ
sinh si.
Nắm chắc vào phương pháp niệm Phật,
không gấp rút không trì huỡn, chẳng thả lỏng chẳng gút chặc, chẳng buồn chẳng
vui, chẳng cao chẳng thấp, chẳng dứt chẳng đoạn, chẳng cống cao, chẳng tự mãn,
không lo không rầu, rất là VÔ VI, khiêm tốn hài hòa nhún nhường, lặng lẽ ra sức
hành trì. Ngoài ra cũng phát tâm, tùy hỷ các khoảng từ thiện, văn hóa, công ích
xã hội… những công việc Phật, tự mình cố gắng, tùy sức tùy phần, cần biết
rằng nước lớn thì thuyền tự cao, bỡi “vô sở đắc” (không chỗ được) mà! Trong lúc
ngồi nằm bình thường, thường tự mình hướng tây, lễ Phật niệm Phật, khẩn thiết
phát nguyện, lòng thành khẩn thì sẽ cảm ứng. Thường tự quán xét tâm, nếu có
tiền của dư thì chuyển làm việc ích lợi cho chúng sinh, nên xa lìa dục lạc
trong đời sống hiện tại, cần nên cẩn thận!
không gấp rút không trì huỡn, chẳng thả lỏng chẳng gút chặc, chẳng buồn chẳng
vui, chẳng cao chẳng thấp, chẳng dứt chẳng đoạn, chẳng cống cao, chẳng tự mãn,
không lo không rầu, rất là VÔ VI, khiêm tốn hài hòa nhún nhường, lặng lẽ ra sức
hành trì. Ngoài ra cũng phát tâm, tùy hỷ các khoảng từ thiện, văn hóa, công ích
xã hội… những công việc Phật, tự mình cố gắng, tùy sức tùy phần, cần biết
rằng nước lớn thì thuyền tự cao, bỡi “vô sở đắc” (không chỗ được) mà! Trong lúc
ngồi nằm bình thường, thường tự mình hướng tây, lễ Phật niệm Phật, khẩn thiết
phát nguyện, lòng thành khẩn thì sẽ cảm ứng. Thường tự quán xét tâm, nếu có
tiền của dư thì chuyển làm việc ích lợi cho chúng sinh, nên xa lìa dục lạc
trong đời sống hiện tại, cần nên cẩn thận!
Nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh ấy là
bản thân không tránh khỏi những trạng thái: buồn rầu, khổ sở, bi thương, tinh
thần thường xuyên ở nơi sự rỗng không, tẻ nhạt, ai oán… thế thì làm sao? Nghệ
thuật của cuộc sống không cầu cạnh ở người khác. Cần biết rằng, người không tốt
cả ngàn ngày, hoa không tươi thắm đủ trăm ngày, sao bằng ngược lại cầu ở chính
mình, không sợ cuộc sống gặp cảnh khốn quẩn, ngại gì lấy khổ chế khổ, thản
nhiên mà tiếp nhận để dũa mài, xem như quả báo nặng hơn mà sự chịu đựng lại
nhẹ, lấy khổ làm thầy để bồi dưỡng cho tinh thần lạc quan, tiến thủ, phấn đấu;
không sinh tâm ngu si, chẳng oán trời trách người, chẳng nhụt chí. Quí tiếc
thân người, có một ngày làm thì một ngày tính toán. Quán sát vô thường, thân
nầy rốt cuộc rồi cũng trở về với sự bại hoại, sao đủ để tiếc, tư duy về nhân
quả, thì nghiệp báo nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh như thế chắc chắn có nguyên
nhân mà phát sinh ra, chớ cần oán trách, đã như vậy thì nắm chắc cuộc sống nầy,
đem nhân quả của khổ làm một sự giải quyết triệt để mới là bực đại trí. Do đó, có
bệnh thì tự nhiên tìm thuốc để trị liệu – là nguyên tắc, trong thời kỳ trị liệu
cũng có thể đồng thời tiến hành mà sám hối, làm việc thiện, niệm Phật để cầu
chuyển biến nghiệp báo, sớm được bình phục lại sức khỏe.
bản thân không tránh khỏi những trạng thái: buồn rầu, khổ sở, bi thương, tinh
thần thường xuyên ở nơi sự rỗng không, tẻ nhạt, ai oán… thế thì làm sao? Nghệ
thuật của cuộc sống không cầu cạnh ở người khác. Cần biết rằng, người không tốt
cả ngàn ngày, hoa không tươi thắm đủ trăm ngày, sao bằng ngược lại cầu ở chính
mình, không sợ cuộc sống gặp cảnh khốn quẩn, ngại gì lấy khổ chế khổ, thản
nhiên mà tiếp nhận để dũa mài, xem như quả báo nặng hơn mà sự chịu đựng lại
nhẹ, lấy khổ làm thầy để bồi dưỡng cho tinh thần lạc quan, tiến thủ, phấn đấu;
không sinh tâm ngu si, chẳng oán trời trách người, chẳng nhụt chí. Quí tiếc
thân người, có một ngày làm thì một ngày tính toán. Quán sát vô thường, thân
nầy rốt cuộc rồi cũng trở về với sự bại hoại, sao đủ để tiếc, tư duy về nhân
quả, thì nghiệp báo nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh như thế chắc chắn có nguyên
nhân mà phát sinh ra, chớ cần oán trách, đã như vậy thì nắm chắc cuộc sống nầy,
đem nhân quả của khổ làm một sự giải quyết triệt để mới là bực đại trí. Do đó, có
bệnh thì tự nhiên tìm thuốc để trị liệu – là nguyên tắc, trong thời kỳ trị liệu
cũng có thể đồng thời tiến hành mà sám hối, làm việc thiện, niệm Phật để cầu
chuyển biến nghiệp báo, sớm được bình phục lại sức khỏe.
– Lúc gặp những vấn đề mà đột khởi lên
niệm ác, phải nhiếp trụ ba nghiệp thân – miệng – ý, nỗ lực như thế nào lâu ngày
chắc chắn sẽ thành công. Nếu lúc khởi niệm ác, muốn làm việc tổn hại người, thì
lập tức niệm: Nam Mô A Di Đà Phật.
niệm ác, phải nhiếp trụ ba nghiệp thân – miệng – ý, nỗ lực như thế nào lâu ngày
chắc chắn sẽ thành công. Nếu lúc khởi niệm ác, muốn làm việc tổn hại người, thì
lập tức niệm: Nam Mô A Di Đà Phật.
– Người niệm Phật tu hành, cần thường
giữ ba nghiệp thanh tịnh, việc tổn hại người nhất quyết không được làm; Ngược
lại, nên thường giữ gìn tâm thiện, làm việc tốt, nói lời tốt đẹp; Nếu khởi ác
niệm, thì theo đó tức nên sám hối.
giữ ba nghiệp thanh tịnh, việc tổn hại người nhất quyết không được làm; Ngược
lại, nên thường giữ gìn tâm thiện, làm việc tốt, nói lời tốt đẹp; Nếu khởi ác
niệm, thì theo đó tức nên sám hối.
– Con đường tu hành không phải đối với
người hoặc cái gì khác, duy chỉ có sự sửa đổi tâm mà thôi, tức là đem “tâm sinh
diệt” của chúng sinh chuyển làm “tâm đại bồ đề”, bất sinh bất diệt. Nội tâm
không vọng tưởng tạp niệm, phiền não tà kiến không khởi lên, lâu rồi tự tánh
được thanh tịnh, chẳng bị thế giới phồn hoa dẫn dắt, nghiêm nhặt trong những sự
tạo tác và đeo đuổi của cuộc sống. Nếu có thể mỗi niệm mỗi niệm đều “vô cầu –
vô đắc”, lìa bỏ tâm truy tìm cầu sự được mất, lìa bỏ tâm sợ sệt và hy vọng, lìa
bỏ tất cả tâm đối đãi và phân biệt, ngoài không bị cảnh trần chuyển, trong
không bị tâm niệm chuyển, lâu rồi sáu căn được thanh tịnh, ánh sáng vi diệu của
chơn tâm tự hiển lộ, tức thành Phật đạo.
người hoặc cái gì khác, duy chỉ có sự sửa đổi tâm mà thôi, tức là đem “tâm sinh
diệt” của chúng sinh chuyển làm “tâm đại bồ đề”, bất sinh bất diệt. Nội tâm
không vọng tưởng tạp niệm, phiền não tà kiến không khởi lên, lâu rồi tự tánh
được thanh tịnh, chẳng bị thế giới phồn hoa dẫn dắt, nghiêm nhặt trong những sự
tạo tác và đeo đuổi của cuộc sống. Nếu có thể mỗi niệm mỗi niệm đều “vô cầu –
vô đắc”, lìa bỏ tâm truy tìm cầu sự được mất, lìa bỏ tâm sợ sệt và hy vọng, lìa
bỏ tất cả tâm đối đãi và phân biệt, ngoài không bị cảnh trần chuyển, trong
không bị tâm niệm chuyển, lâu rồi sáu căn được thanh tịnh, ánh sáng vi diệu của
chơn tâm tự hiển lộ, tức thành Phật đạo.
Kỳ thật tu trì Phật pháp tiến bộ hay
không là nhìn ngay vào vọng tưởng và phiền não đó càng ngày càng ít hay không?
Tập khí mỗi ngày mỗi ít không? Và tâm Từ – bi – hỷ – xả có càng ngày càng thêm
lớn hay không?
không là nhìn ngay vào vọng tưởng và phiền não đó càng ngày càng ít hay không?
Tập khí mỗi ngày mỗi ít không? Và tâm Từ – bi – hỷ – xả có càng ngày càng thêm
lớn hay không?
– Học Phật tu hành không phải là một
loại chức vị hay nghề nghiệp, làm cho người ta xem; Ở trước người thì làm một
kiểu, như ăn chay, trước người thì ăn chay, sau người thì ăn thịt uống rượu;
ngoài miệng không chưởi người mà trong lòng lại chưởi, bị khinh bỉ thì nghĩ
cách báo thù; chẳng chiếm đoạt được vợ con của người thì ngược lại tìm cách
chọc ghẹo kích thích tính dục; trăm cách kết giao với người quyền quí, không hề
dòm ngó đối với kẻ bần cùng; dung túng chính mình, hà khắt với người… đây tức
là trong ngoài không một mối, chẳng được làm như thế.
loại chức vị hay nghề nghiệp, làm cho người ta xem; Ở trước người thì làm một
kiểu, như ăn chay, trước người thì ăn chay, sau người thì ăn thịt uống rượu;
ngoài miệng không chưởi người mà trong lòng lại chưởi, bị khinh bỉ thì nghĩ
cách báo thù; chẳng chiếm đoạt được vợ con của người thì ngược lại tìm cách
chọc ghẹo kích thích tính dục; trăm cách kết giao với người quyền quí, không hề
dòm ngó đối với kẻ bần cùng; dung túng chính mình, hà khắt với người… đây tức
là trong ngoài không một mối, chẳng được làm như thế.
– Tu hành giống như đánh đàn, lúc dây
đàn xoắn quá cứng thì đánh không ra âm, dây đàn buông lỏng quá đánh cũng không
ra âm, dây đàn nếu xoắn đúng mức, âm vận sẽ cao thấp thích đáng thì các âm sẽ
được hài hòa. Tu hành cũng cần phải như thế nầy, chẳng nên gấp rút thành đạo,
cũng chẳng được lười mỏi buông lung thối lui, cần phải có sự hành trì chuyên
tâm hằng tâm, rốt rồi cũng sẽ có ngày thành đạo. Nếu gấp rút để thành, như thế
quá lao nhọc mà lại tổn thương thân thể, còn làm cho thối lui công việc hành
trì, tất nhiên sẽ tạo ra nhiều các nghiệp ác; cho nên người tu hành cần phải
gấp – qưỡn cho thích đáng, “ý” giữ lấy sự an lạc.
đàn xoắn quá cứng thì đánh không ra âm, dây đàn buông lỏng quá đánh cũng không
ra âm, dây đàn nếu xoắn đúng mức, âm vận sẽ cao thấp thích đáng thì các âm sẽ
được hài hòa. Tu hành cũng cần phải như thế nầy, chẳng nên gấp rút thành đạo,
cũng chẳng được lười mỏi buông lung thối lui, cần phải có sự hành trì chuyên
tâm hằng tâm, rốt rồi cũng sẽ có ngày thành đạo. Nếu gấp rút để thành, như thế
quá lao nhọc mà lại tổn thương thân thể, còn làm cho thối lui công việc hành
trì, tất nhiên sẽ tạo ra nhiều các nghiệp ác; cho nên người tu hành cần phải
gấp – qưỡn cho thích đáng, “ý” giữ lấy sự an lạc.
– Niệm Phật là niệm GIÁC, giác ngộ tất
cả tập khí vô minh, khiến cho nội tâm thanh tịnh, trở về với “bản lai diện mục”
– Phật tánh. Rõ được lý rồi sau lại niệm, thì niệm được ngay; đã rõ rồi vì sao
cần niệm Phật? Khắp các cảnh giới đều dùng một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật” đề
giải quyết. Bồi dưỡng và tập thói quen ở nơi đức Phật, ngày ngày niệm Ngài, giờ
giờ niệm Ngài, cùng Ngài duyên, đến lúc tự nhiên tương ưng; Chỉ việc miệng niệm
thôi mà tâm tâm tưởng khác, theo niệm lơ là, niệm Phật cách nầy thì chẳng được
hiệu quả. Chúng ta đã ở trong cuộc sống như biển khổ tham, sân, si… mênh mông
nầy, trừ sự giác ngộ giải quyết vấn đề ra, thì cần phải nương nhờ vào trì giới,
bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn để vượt qua biển khổ nầy, ở ngay trong đây tức là
một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật”, khiến cho vọng tưởng, tạp niệm của chúng ta
sinh ra chẳng được.
cả tập khí vô minh, khiến cho nội tâm thanh tịnh, trở về với “bản lai diện mục”
– Phật tánh. Rõ được lý rồi sau lại niệm, thì niệm được ngay; đã rõ rồi vì sao
cần niệm Phật? Khắp các cảnh giới đều dùng một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật” đề
giải quyết. Bồi dưỡng và tập thói quen ở nơi đức Phật, ngày ngày niệm Ngài, giờ
giờ niệm Ngài, cùng Ngài duyên, đến lúc tự nhiên tương ưng; Chỉ việc miệng niệm
thôi mà tâm tâm tưởng khác, theo niệm lơ là, niệm Phật cách nầy thì chẳng được
hiệu quả. Chúng ta đã ở trong cuộc sống như biển khổ tham, sân, si… mênh mông
nầy, trừ sự giác ngộ giải quyết vấn đề ra, thì cần phải nương nhờ vào trì giới,
bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn để vượt qua biển khổ nầy, ở ngay trong đây tức là
một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật”, khiến cho vọng tưởng, tạp niệm của chúng ta
sinh ra chẳng được.
– Không cần phải hỏi là: Niệm Phật có
thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây hay không? – mà ngược lại phải
hỏi rằng: Chính mình có phải là niệm Phật chuyên nhất chí thành hay không?
Chuyên ròng niệm Phật không? Trong tâm có Phật không? Có thể nghiêm trì giới
luật hay không? Có thể: bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, nhìn rõ tình
đời, buông rời việc thế tục hay không? Có thể nói người tại gia tu hành, lúc
mạng chung Đức Phật A Di Đà cũng đồng đến tiếp dẫn họ. Không thể nói là người
xuất gia tu hành lúc mạng chung Đức Phật A Di Đà cũng chẳng thể đến tiếp dẫn
họ! Còn nếu đã được chút ít thành tựu, thì tự NGÃ hiện khởi, rao bày danh phận
đến mức khoe khoang, được chúng khen ngợi, kính nể thì cao hứng thích thú, đến
mức cuộc sống vật chất cao cấp thì vô cùng khoái trá phơi phới mặt mày, tham
luyến ảo ảnh tốt đẹp, thế thì sai lầm lớn, sai lầm đặc biệt.
thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây hay không? – mà ngược lại phải
hỏi rằng: Chính mình có phải là niệm Phật chuyên nhất chí thành hay không?
Chuyên ròng niệm Phật không? Trong tâm có Phật không? Có thể nghiêm trì giới
luật hay không? Có thể: bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, nhìn rõ tình
đời, buông rời việc thế tục hay không? Có thể nói người tại gia tu hành, lúc
mạng chung Đức Phật A Di Đà cũng đồng đến tiếp dẫn họ. Không thể nói là người
xuất gia tu hành lúc mạng chung Đức Phật A Di Đà cũng chẳng thể đến tiếp dẫn
họ! Còn nếu đã được chút ít thành tựu, thì tự NGÃ hiện khởi, rao bày danh phận
đến mức khoe khoang, được chúng khen ngợi, kính nể thì cao hứng thích thú, đến
mức cuộc sống vật chất cao cấp thì vô cùng khoái trá phơi phới mặt mày, tham
luyến ảo ảnh tốt đẹp, thế thì sai lầm lớn, sai lầm đặc biệt.
– Tu hành không phải là việc của một
năm, mười năm, mà là việc cho cả cuộc đời, không nên cầu mau đạt hiệu quả, mà
nên tu bình tâm tĩnh khí, chẳng nên tu một đoạn thời gian rồi thấy không cảm
ứng thì không tu nữa, như vậy là không có tín tâm đối với Phật Đà. “Cảm ứng” là
sự lưu lộ hiển bày của Phật tánh trong con người vốn đủ, nhưng gặp mà chẳng nên
cầu! Nếu đem niềm hy vọng hoàn toàn gởi gắm ở Phật và Bồ tát – nhân bên ngoài
nầy, là lực lượng của duyên, mà căn bản đã phủ nhận cái Nhân (nhân bên trong)
quyết định bản chất sự vật, phủ định sự nổ lực của chính mình. Hơn nữa người
mới tu hành tâm lực chẳng kiên cố, động cơ cần cầu thì lại phần nhiều chẳng
thuần thục, cho nên khó cầu việc cảm ứng. Niệm Phật không phải là làm cái việc
mua bán, tôi đưa anh tiền, anh phải đưa lại tôi hàng hóa, cũng vậy, tôi niệm
Phật, Phật nên cho tôi sự cảm ứng! Người có tâm niệm như thế là đã dính mắc “tà
kiến”, làm sao được sự cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng là người niệm phải chí
thành chuyên nhất, duyên đến tự nhiên có cảm ứng, có tác dụng mà chẳng dính mắc
ở chỗ mong cầu, duyên chẳng đến thì dẫu mong cầu, lại cũng không tác dụng!
năm, mười năm, mà là việc cho cả cuộc đời, không nên cầu mau đạt hiệu quả, mà
nên tu bình tâm tĩnh khí, chẳng nên tu một đoạn thời gian rồi thấy không cảm
ứng thì không tu nữa, như vậy là không có tín tâm đối với Phật Đà. “Cảm ứng” là
sự lưu lộ hiển bày của Phật tánh trong con người vốn đủ, nhưng gặp mà chẳng nên
cầu! Nếu đem niềm hy vọng hoàn toàn gởi gắm ở Phật và Bồ tát – nhân bên ngoài
nầy, là lực lượng của duyên, mà căn bản đã phủ nhận cái Nhân (nhân bên trong)
quyết định bản chất sự vật, phủ định sự nổ lực của chính mình. Hơn nữa người
mới tu hành tâm lực chẳng kiên cố, động cơ cần cầu thì lại phần nhiều chẳng
thuần thục, cho nên khó cầu việc cảm ứng. Niệm Phật không phải là làm cái việc
mua bán, tôi đưa anh tiền, anh phải đưa lại tôi hàng hóa, cũng vậy, tôi niệm
Phật, Phật nên cho tôi sự cảm ứng! Người có tâm niệm như thế là đã dính mắc “tà
kiến”, làm sao được sự cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng là người niệm phải chí
thành chuyên nhất, duyên đến tự nhiên có cảm ứng, có tác dụng mà chẳng dính mắc
ở chỗ mong cầu, duyên chẳng đến thì dẫu mong cầu, lại cũng không tác dụng!
– Việc tốt đẹp của niệm Phật, không
những lúc mạng chung được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh về nước Cực Lạc ở
phương tây, mà chư Phật Bồ tát, tám bộ Trời Rồng, tất cả thiện Thần còn sẽ ủng
hộ người niệm Phật được bình an; Nếu công phu chín mùi còn sẽ được “niệm Phật
tam muội”, phát sinh trí tuệ. Cuộc sống tinh thần được an ổn tốt đẹp, tự tại,
vui vẻ; phần lớn làm giảm nhẹ đi sự “bi quan nhàm chán” ở trên mọi công tác,
gia đình và xã hội, tinh thần sáng suốt và thoải mái, nhận lấy sự lợi ích vô cùng.
những lúc mạng chung được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh về nước Cực Lạc ở
phương tây, mà chư Phật Bồ tát, tám bộ Trời Rồng, tất cả thiện Thần còn sẽ ủng
hộ người niệm Phật được bình an; Nếu công phu chín mùi còn sẽ được “niệm Phật
tam muội”, phát sinh trí tuệ. Cuộc sống tinh thần được an ổn tốt đẹp, tự tại,
vui vẻ; phần lớn làm giảm nhẹ đi sự “bi quan nhàm chán” ở trên mọi công tác,
gia đình và xã hội, tinh thần sáng suốt và thoải mái, nhận lấy sự lợi ích vô cùng.
– “Nói ít đi một câu chuyện, niệm
nhiều thêm một câu Phật”. Ngoài những lời chân chính ra, không cần phải
huyên thuyên những lời trên trời dưới đất, tào lao những chuyện đông tây, mà
chẳng chịu dừng (không phải là chẳng cần bàn bạc cùng với người, mà là không
nói những lời nhàn tản vô ích hay tổn hại người), càng không nên khởi lên VỌNG
TƯỞNG, mà sinh phiền não.
nhiều thêm một câu Phật”. Ngoài những lời chân chính ra, không cần phải
huyên thuyên những lời trên trời dưới đất, tào lao những chuyện đông tây, mà
chẳng chịu dừng (không phải là chẳng cần bàn bạc cùng với người, mà là không
nói những lời nhàn tản vô ích hay tổn hại người), càng không nên khởi lên VỌNG
TƯỞNG, mà sinh phiền não.
– Đối với thuận cảnh thì mặt mày rạng
rỡ cười vui, đối với nghịch cảnh thì lại buồn rầu khổ sở, đây tức là đã bị cảnh
chuyển rồi, cần phải nên làm cho được đến lúc gặp thuận chẳng vui, gặp nghịch
chẳng buồn, tốt – xấu đều không khởi tâm động niệm, đừng để bị cảnh chuyển lôi.
Sự khởi tâm động niệm nầy là lúc NGHIỆP đang hành động (hiện hành nghiệp), nếu
chấp lấy không xả bỏ, thì chẳng được vãng sanh!
rỡ cười vui, đối với nghịch cảnh thì lại buồn rầu khổ sở, đây tức là đã bị cảnh
chuyển rồi, cần phải nên làm cho được đến lúc gặp thuận chẳng vui, gặp nghịch
chẳng buồn, tốt – xấu đều không khởi tâm động niệm, đừng để bị cảnh chuyển lôi.
Sự khởi tâm động niệm nầy là lúc NGHIỆP đang hành động (hiện hành nghiệp), nếu
chấp lấy không xả bỏ, thì chẳng được vãng sanh!
– Tu hành, tức là sửa đổi cái thân hiện
tại, việc ác không làm, việc tốt làm nhiều, nên không vọng tưởng, không khởi
phiền não, phàm việc gì chẳng nên so kể, tình đời không nên gút – mở được thì
mở, việc tục muôn duyên buông rời, công việc thì đảm nhiệm được tâm thoải mái,
yên lành, tự tại, vui vẻ, xem tất cả đều thuận mắt thanh thảng thư thái, sẽ
được kết cuộc thiện (lâm chung tốt đẹp).
tại, việc ác không làm, việc tốt làm nhiều, nên không vọng tưởng, không khởi
phiền não, phàm việc gì chẳng nên so kể, tình đời không nên gút – mở được thì
mở, việc tục muôn duyên buông rời, công việc thì đảm nhiệm được tâm thoải mái,
yên lành, tự tại, vui vẻ, xem tất cả đều thuận mắt thanh thảng thư thái, sẽ
được kết cuộc thiện (lâm chung tốt đẹp).
Trong tu hành, nếu gặp phải những việc
bất lợi (hay thất bại), không như ý, những việc rối rắm khốn quẩn vô lý, đều xem
đó như là quả báo oan gia, tiếp nhận nó không có chút oán hận, nếu có thể thọ
nhận một cách vui vẻ, lúc thọ nhận xong rồi, thì sẽ trả lại sự bình an. Nếu oán
trời trách người, thì qua lần nầy sẽ tiếp đến lần khác nữa.
bất lợi (hay thất bại), không như ý, những việc rối rắm khốn quẩn vô lý, đều xem
đó như là quả báo oan gia, tiếp nhận nó không có chút oán hận, nếu có thể thọ
nhận một cách vui vẻ, lúc thọ nhận xong rồi, thì sẽ trả lại sự bình an. Nếu oán
trời trách người, thì qua lần nầy sẽ tiếp đến lần khác nữa.
Tu hành, không nói đúng hay không đúng,
tức là làm sao cho tự mình đúng thì thôi, còn người nhà nói lệch đi cho là anh
không đúng đi nữa, cũng chẳng nên tranh biện, vì ngay khi tranh biện thì phiền
não liền khởi, tâm sẽ không an. Chỉ nên quan tâm đến cái không đúng của mình,
chẳng nên nói cái không đúng của người ta, nói người ta không đúng tức là cái
không đúng của mình.
tức là làm sao cho tự mình đúng thì thôi, còn người nhà nói lệch đi cho là anh
không đúng đi nữa, cũng chẳng nên tranh biện, vì ngay khi tranh biện thì phiền
não liền khởi, tâm sẽ không an. Chỉ nên quan tâm đến cái không đúng của mình,
chẳng nên nói cái không đúng của người ta, nói người ta không đúng tức là cái
không đúng của mình.
Nếu đã học Phật, trên cuộc sống so với
ngày trước không thuận lợi bằng, lại thất chí, đó là chủ nợ (oán-thân) nhiều
đời đến để đòi nợ; Nên đem công đức mà hồi hướng cho chủ nợ, thì nghiệp trước
mới có thể tiêu trừ; nghiệp trước tiêu trừ thì làm việc được thuận lợi; nếu
thân có bệnh, nên lấy vô bệnh để nhìn thì sẽ chẳng cảm thấy khổ, có khổ cũng
nên tự rõ đó bỡi ác nghiệp đời trước mà đời nầy chịu báo, nên trả nợ, sau khi nợ
hết, mới có thể thân an, quán sát như vậy mới chẳng cảm thấy khổ.
ngày trước không thuận lợi bằng, lại thất chí, đó là chủ nợ (oán-thân) nhiều
đời đến để đòi nợ; Nên đem công đức mà hồi hướng cho chủ nợ, thì nghiệp trước
mới có thể tiêu trừ; nghiệp trước tiêu trừ thì làm việc được thuận lợi; nếu
thân có bệnh, nên lấy vô bệnh để nhìn thì sẽ chẳng cảm thấy khổ, có khổ cũng
nên tự rõ đó bỡi ác nghiệp đời trước mà đời nầy chịu báo, nên trả nợ, sau khi nợ
hết, mới có thể thân an, quán sát như vậy mới chẳng cảm thấy khổ.
Mỗi khi gặp lời ác (xấu) đến với ta,
lời phi lý dính dán đến ta, lời phỉ báng, nhục mạ, ác ý phê bình, đều chẳng nên
tồn tại ở ý, chẳng phân bua đạo công bằng với người ta, nên nhìn cho thật rõ
(không cố chấp), thì tâm sẽ tự bình ổn, hãy lùi một bước để trời cao biển rộng,
phiền não chẳng thể sinh trưởng được.
lời phi lý dính dán đến ta, lời phỉ báng, nhục mạ, ác ý phê bình, đều chẳng nên
tồn tại ở ý, chẳng phân bua đạo công bằng với người ta, nên nhìn cho thật rõ
(không cố chấp), thì tâm sẽ tự bình ổn, hãy lùi một bước để trời cao biển rộng,
phiền não chẳng thể sinh trưởng được.
– Nhận ân huệ không vui, chịu nhục
không sân, thì tâm được tự tại. Khi khen, thì nhìn người ta vui hay không, nghe
hay không; Lúc hủy báng, xem người ta có công phu nhẫn nhục hay không, chịu suy
xét kiểm nghiệm hay không. Nếu có thể nhận ân huệ mà không vui, chịu nhục không
sân, không khởi tâm động niệm, là có động lực không bị cảnh chuyển.
không sân, thì tâm được tự tại. Khi khen, thì nhìn người ta vui hay không, nghe
hay không; Lúc hủy báng, xem người ta có công phu nhẫn nhục hay không, chịu suy
xét kiểm nghiệm hay không. Nếu có thể nhận ân huệ mà không vui, chịu nhục không
sân, không khởi tâm động niệm, là có động lực không bị cảnh chuyển.
Tâm như hư không, chẳng chấp trước sắc
thân, buông hết việc đời muôn duyên, phàm việc gì cũng phải xem cho rõ, buông
cho rời, tự nhiên phiền não không khởi. Không tạo tác chuyện vu vơ, không trau
chuốt, không khoe khoang, không phô bày, không nịnh hót, không ứng suông, chẳng
làm công việc bề mặt, không đầu cơ thu lợi, không thuận mặt trái lòng; phải nên
khởi lên CHÁNH TRI KIẾN, CHÁNH NIỆM, nhất tâm niệm Phật.
thân, buông hết việc đời muôn duyên, phàm việc gì cũng phải xem cho rõ, buông
cho rời, tự nhiên phiền não không khởi. Không tạo tác chuyện vu vơ, không trau
chuốt, không khoe khoang, không phô bày, không nịnh hót, không ứng suông, chẳng
làm công việc bề mặt, không đầu cơ thu lợi, không thuận mặt trái lòng; phải nên
khởi lên CHÁNH TRI KIẾN, CHÁNH NIỆM, nhất tâm niệm Phật.
Ngăn chặng sự kiêu ngạo, tự lợi, tư
riêng, khinh nhờn, phẫn nộ, hoài nghi, tà kiến, dục vọng. Không ham muốn thì
yên tĩnh, yên tĩnh thì sáng suốt. Ngàn vạn lần cũng đừng nên chấp dính sự vật
hay công việc mình yêu vui, lại càng không được ghét nhơ những gì không vui vẻ
đối với mình. Buồn thương, âu lo, sợ sệt, bận tâm, vui vẻ, yêu thích, đều là
đến từ sự ghét – thương của con người.
riêng, khinh nhờn, phẫn nộ, hoài nghi, tà kiến, dục vọng. Không ham muốn thì
yên tĩnh, yên tĩnh thì sáng suốt. Ngàn vạn lần cũng đừng nên chấp dính sự vật
hay công việc mình yêu vui, lại càng không được ghét nhơ những gì không vui vẻ
đối với mình. Buồn thương, âu lo, sợ sệt, bận tâm, vui vẻ, yêu thích, đều là
đến từ sự ghét – thương của con người.
Phàm có tâm ghét – thương, đây gọi là
TÌNH, nếu xem oan gia thấy như người thân, thì “tâm ghét – thương” có thể cắt
đứt được.
TÌNH, nếu xem oan gia thấy như người thân, thì “tâm ghét – thương” có thể cắt
đứt được.
– Học Phật tu hành, là học Phật pháp
(chân lý) của đức Phật dạy bảo chúng ta, tổng kết lại một câu nói tức là: TU
TÂM CHÍNH MÌNH, Phật tức ở trong tâm mình, chẳng nên hướng đến cảnh bên ngoài
để cầu, mà phải hướng đến tâm mình để cầu, dùng tâm lực bình thường thực hành
tám đường chánh (bát chánh đạo), tin luật nhân quả, khiến cho ba nghiệp thân,
miệng, ý được thanh tịnh, ăn toàn chay, điều hòa, bình ổn tùy thuận, an tường,
vui vẻ ở nội tâm, tự nhiên tự tại, sửa đổi chân chánh tư tưởng và hành vi của
mình, thường thường quán sát tâm, bỏ hết những niệm đầu: bất chánh sai lầm, tối
tăm nhạt nhẽo, luống dối trá ngụy; Cảnh giác ngăn dè chính mình, tự phê bình
chính mình, như có lỗi lầm thì nên sám hối sửa đổi, nhưng không được phạm lỗi
mà cố ý che đậy, lại càng không được sám hối để cố ý che đậy.
(chân lý) của đức Phật dạy bảo chúng ta, tổng kết lại một câu nói tức là: TU
TÂM CHÍNH MÌNH, Phật tức ở trong tâm mình, chẳng nên hướng đến cảnh bên ngoài
để cầu, mà phải hướng đến tâm mình để cầu, dùng tâm lực bình thường thực hành
tám đường chánh (bát chánh đạo), tin luật nhân quả, khiến cho ba nghiệp thân,
miệng, ý được thanh tịnh, ăn toàn chay, điều hòa, bình ổn tùy thuận, an tường,
vui vẻ ở nội tâm, tự nhiên tự tại, sửa đổi chân chánh tư tưởng và hành vi của
mình, thường thường quán sát tâm, bỏ hết những niệm đầu: bất chánh sai lầm, tối
tăm nhạt nhẽo, luống dối trá ngụy; Cảnh giác ngăn dè chính mình, tự phê bình
chính mình, như có lỗi lầm thì nên sám hối sửa đổi, nhưng không được phạm lỗi
mà cố ý che đậy, lại càng không được sám hối để cố ý che đậy.
– Học Phật tu hành, là tu TÂM của mình,
sửa đổi cho tốt cái tâm, việc tu hành mới không trở ngại, tâm niệm ác, việc làm
ác, đều không nên có một chút nào, giữ tâm thiện, làm việc thiện, nói lời từ
ái, đoạn dứt phiền não, vọng tưởng tạp niệm không sinh, tình đời nhìn rõ, việc
tục buông rời, không bị hai cảnh thuận nghịch chuyển lôi, chẳng bị “tình” vây
hãm, chẳng bị “ái” trói buột; làm cho được việc không tưởng ác cũng không tưởng
thiện, nếu không tu tốt được TÂM, dẫu cho thông kinh thông giáo mà tự thân
không thông, thì vẫn ra không khỏi ba cõi!
sửa đổi cho tốt cái tâm, việc tu hành mới không trở ngại, tâm niệm ác, việc làm
ác, đều không nên có một chút nào, giữ tâm thiện, làm việc thiện, nói lời từ
ái, đoạn dứt phiền não, vọng tưởng tạp niệm không sinh, tình đời nhìn rõ, việc
tục buông rời, không bị hai cảnh thuận nghịch chuyển lôi, chẳng bị “tình” vây
hãm, chẳng bị “ái” trói buột; làm cho được việc không tưởng ác cũng không tưởng
thiện, nếu không tu tốt được TÂM, dẫu cho thông kinh thông giáo mà tự thân
không thông, thì vẫn ra không khỏi ba cõi!
– Ở trong cuộc tu hành hàng ngày, khi
dụng công phu cần phải cầu ở bên trong, dụng công ở tâm. Thứ nhất, là làm mỗi
công việc đều cần cho tâm không có niệm tạp, chuyên chú rõ ràng, làm cho xong
mỗi công việc dù có lâu, làm việc, niệm Phật đều nên nghiêm túc, thì đối với
công tác, tiếp vật đãi nhân đều có sự giúp đỡ. Thứ hai, lúc rảnh rang việc
giảng nói nên “tự hỏi tâm ở đâu?” trong khoảng thời gian nầy làm cho được việc
không vọng tưởng, lâu rồi công năng phát ra, thì sẽ được an tịnh thể hội cảm
giác không vọng tưởng, chầm chậm bồi giúp cho mình quán sát niệm đầu của mình,
niệm đầu ngay khi khởi lên, liền biết nếu là ác thì lập tức buông bỏ. Thứ ba,
bất luận là vấn đề gì phát sinh, cần phải nên quay lại quán sát chính mình là
có hay không có vấn đề, tất cả đều xem ở nơi tâm mình, cần phải làm chủ (chủ
động).
dụng công phu cần phải cầu ở bên trong, dụng công ở tâm. Thứ nhất, là làm mỗi
công việc đều cần cho tâm không có niệm tạp, chuyên chú rõ ràng, làm cho xong
mỗi công việc dù có lâu, làm việc, niệm Phật đều nên nghiêm túc, thì đối với
công tác, tiếp vật đãi nhân đều có sự giúp đỡ. Thứ hai, lúc rảnh rang việc
giảng nói nên “tự hỏi tâm ở đâu?” trong khoảng thời gian nầy làm cho được việc
không vọng tưởng, lâu rồi công năng phát ra, thì sẽ được an tịnh thể hội cảm
giác không vọng tưởng, chầm chậm bồi giúp cho mình quán sát niệm đầu của mình,
niệm đầu ngay khi khởi lên, liền biết nếu là ác thì lập tức buông bỏ. Thứ ba,
bất luận là vấn đề gì phát sinh, cần phải nên quay lại quán sát chính mình là
có hay không có vấn đề, tất cả đều xem ở nơi tâm mình, cần phải làm chủ (chủ
động).
– Tu hành, là tu sửa cho chánh chơn cái
“tâm” của ta, tu sửa cho chánh chơn hành vi và lời nói của ta. Chỉ cần có sự
vận hành của tâm, thì sẽ có hành vi của thân và ngôn ngữ của miệng. Dùng tâm
thanh tịnh để làm tất cả mọi việc, đây mới là sự chắc thật chân chính của tu hành.
Mà không phải là chỗ thanh tịnh làm việc bẩn thỉu. Tu hành cần nên xét tự tâm,
chẳng nên chỉ biết việc bên ngoài, cầu danh cầu lợi… bận rộn. Tu hành là lấy
sự “Minh tâm kiến tánh” làm chủ yếu. Tất cả Phật pháp đều là nghiên cứu trạng
thái biến động của tâm, tất cả việc tu hành đều là phương pháp chế phục tâm.
Một đời mà chỉ cầu nơi việc bên ngoài: ăn, mặc, ở, đi, vì danh, vì lợi, hoặc vì
vợ chồng con cái mà bận rộn, e rằng tạo nghiệp chẳng phải ít, thì đối với việc
tu hành không có nhân trợ giúp, nhiều lắm thì cũng chỉ có thể được phước báo
trời người.
“tâm” của ta, tu sửa cho chánh chơn hành vi và lời nói của ta. Chỉ cần có sự
vận hành của tâm, thì sẽ có hành vi của thân và ngôn ngữ của miệng. Dùng tâm
thanh tịnh để làm tất cả mọi việc, đây mới là sự chắc thật chân chính của tu hành.
Mà không phải là chỗ thanh tịnh làm việc bẩn thỉu. Tu hành cần nên xét tự tâm,
chẳng nên chỉ biết việc bên ngoài, cầu danh cầu lợi… bận rộn. Tu hành là lấy
sự “Minh tâm kiến tánh” làm chủ yếu. Tất cả Phật pháp đều là nghiên cứu trạng
thái biến động của tâm, tất cả việc tu hành đều là phương pháp chế phục tâm.
Một đời mà chỉ cầu nơi việc bên ngoài: ăn, mặc, ở, đi, vì danh, vì lợi, hoặc vì
vợ chồng con cái mà bận rộn, e rằng tạo nghiệp chẳng phải ít, thì đối với việc
tu hành không có nhân trợ giúp, nhiều lắm thì cũng chỉ có thể được phước báo
trời người.
Tham cái vui thế gian (tiền tài, sắc
đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) mà dùng tâm dùng sức rất là nhiều, lúc hưởng
thụ thì lại ít, tạo nghiệp ác nhiều, tạo nghiệp thiện ít, được thì khó mà mất
thì dễ, vui thì lại ít mà khổ lại nhiều.
đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) mà dùng tâm dùng sức rất là nhiều, lúc hưởng
thụ thì lại ít, tạo nghiệp ác nhiều, tạo nghiệp thiện ít, được thì khó mà mất
thì dễ, vui thì lại ít mà khổ lại nhiều.
Phật pháp chỉ bất quá là hy vọng người
đời chẳng nên “chấp trước” mà thôi, thật ra chẳng phải là muốn người đời dù thế
nào cũng đều không nên nghỉ tưởng, không thể làm việc; Đây tức là: “Ứng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm” (Ứng với sự không chấp giữ mà sinh tâm). Còn đời người thì
là: “Hữu sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (có sự chấp giữ mà sinh tâm), đối với việc
khởi tâm động niệm, cho là đồng với khái niệm suy nghĩ mà phát sinh ra sự kiên
nhẫn, nhận giả làm chơn, cho nên cuộc sống không vượt ra khỏi tư tưởng non nớt.
Con người tóm lại có thể khởi tâm động niệm, giải thoát cũng giống nhau, chỉ là
giải thoát, chẳng nói là đình trệ ở niệm đầu, chẳng đình trệ ở niệm quán sát;
cũng giống như chim bay qua bầu trời chẳng thể lưu lại dấu vết.
đời chẳng nên “chấp trước” mà thôi, thật ra chẳng phải là muốn người đời dù thế
nào cũng đều không nên nghỉ tưởng, không thể làm việc; Đây tức là: “Ứng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm” (Ứng với sự không chấp giữ mà sinh tâm). Còn đời người thì
là: “Hữu sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (có sự chấp giữ mà sinh tâm), đối với việc
khởi tâm động niệm, cho là đồng với khái niệm suy nghĩ mà phát sinh ra sự kiên
nhẫn, nhận giả làm chơn, cho nên cuộc sống không vượt ra khỏi tư tưởng non nớt.
Con người tóm lại có thể khởi tâm động niệm, giải thoát cũng giống nhau, chỉ là
giải thoát, chẳng nói là đình trệ ở niệm đầu, chẳng đình trệ ở niệm quán sát;
cũng giống như chim bay qua bầu trời chẳng thể lưu lại dấu vết.
Con người đều có tâm, tâm nầy có lúc
vui, có lúc giận, có lúc buồn, có lúc khoái, có lúc thiện, có lúc ác, có lúc
thù hận người, có lúc ái mộ người; Bỡi do tâm nầy biến hóa vô thường, từ đó
cuộc sống cũng khổ – vui chẳng ổn định. Cho nên tu hành nên từ nơi tâm mà bắt
đầu.
vui, có lúc giận, có lúc buồn, có lúc khoái, có lúc thiện, có lúc ác, có lúc
thù hận người, có lúc ái mộ người; Bỡi do tâm nầy biến hóa vô thường, từ đó
cuộc sống cũng khổ – vui chẳng ổn định. Cho nên tu hành nên từ nơi tâm mà bắt
đầu.
Con người đối với việc quá khứ chớ nên
tìm tưởng đến, tâm của quá khứ không khởi vậy. Đối với việc vị lai chớ nên nghĩ
lường, vì tâm của vị lai chẳng có thể được vậy. Đối với việc hiện nay chớ nên
vin duyên vào, vì tâm của hiện tại không có trụ yên vậy. Tuy thấy nghe rõ ràng
mà chẳng quan tâm, là nói rằng chẳng khởi, chẳng khởi là vô niệm.
tìm tưởng đến, tâm của quá khứ không khởi vậy. Đối với việc vị lai chớ nên nghĩ
lường, vì tâm của vị lai chẳng có thể được vậy. Đối với việc hiện nay chớ nên
vin duyên vào, vì tâm của hiện tại không có trụ yên vậy. Tuy thấy nghe rõ ràng
mà chẳng quan tâm, là nói rằng chẳng khởi, chẳng khởi là vô niệm.
– Tu hành cần “rõ lý”, rõ lý là nương
theo Phật pháp như pháp mà tu hành; Như niệm Phật, thì một lòng chuyên niệm,
niệm nhiều, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Trì giới, phàm là có tâm tổn
hại đối với chúng sinh thì chẳng nên tưởng đến, thân không nên làm, miệng không
nên nói. Bố thí, có tâm Từ bi, giữ lấy tâm thiện, làm việc thiện, nói lời
thiện. Tự tâm thanh tịnh, không có phiền não, không tạp niệm vọng tưởng, muôn
duyên thế tục buông rời. Nhẫn nhục không giận dữ, không oán hận. Tin nhân quả,
tin làm thiện có báo thiện, làm ác có báo ác.
theo Phật pháp như pháp mà tu hành; Như niệm Phật, thì một lòng chuyên niệm,
niệm nhiều, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Trì giới, phàm là có tâm tổn
hại đối với chúng sinh thì chẳng nên tưởng đến, thân không nên làm, miệng không
nên nói. Bố thí, có tâm Từ bi, giữ lấy tâm thiện, làm việc thiện, nói lời
thiện. Tự tâm thanh tịnh, không có phiền não, không tạp niệm vọng tưởng, muôn
duyên thế tục buông rời. Nhẫn nhục không giận dữ, không oán hận. Tin nhân quả,
tin làm thiện có báo thiện, làm ác có báo ác.
“Chẳng rõ lý”, ví như niệm Phật, cho là
mười niệm, hoặc sớm tối niệm một niệm Phật là đã niệm Phật rồi, sẽ được vãng sanh
Cực Lạc; Lúc niệm Phật thì tâm có Phật, còn lúc chẳng niệm Phật thì quên mất
Phật, bình thường hàng ngày làm tất cả các việc ác, phiền não căn cứ theo ngày
trước mà phát sinh, khí nóng nương nơi ngày cũ mà hưng khởi, dục niệm càng
nhiều, tâm sự chồng chất, vọng tưởng chấp trước, mà trở thành hay không trở
thành tánh tình con người, oán hận, chẳng tin có sự báo ứng của nhân quả, đây
tức là không rõ lý.
mười niệm, hoặc sớm tối niệm một niệm Phật là đã niệm Phật rồi, sẽ được vãng sanh
Cực Lạc; Lúc niệm Phật thì tâm có Phật, còn lúc chẳng niệm Phật thì quên mất
Phật, bình thường hàng ngày làm tất cả các việc ác, phiền não căn cứ theo ngày
trước mà phát sinh, khí nóng nương nơi ngày cũ mà hưng khởi, dục niệm càng
nhiều, tâm sự chồng chất, vọng tưởng chấp trước, mà trở thành hay không trở
thành tánh tình con người, oán hận, chẳng tin có sự báo ứng của nhân quả, đây
tức là không rõ lý.
– Vì sao trí tuệ của mình khai mở? Vì
công phu chẳng ra sức, không có tiến bộ, nguyên nhân chủ yếu đó là tham, sân,
si, mạn chưa dứt đoạn; bình thường phạm phải bệnh nầy đối với người, với công
việc, với sự vật, nên quyết cần phải tự hối trách sâu xa.
công phu chẳng ra sức, không có tiến bộ, nguyên nhân chủ yếu đó là tham, sân,
si, mạn chưa dứt đoạn; bình thường phạm phải bệnh nầy đối với người, với công
việc, với sự vật, nên quyết cần phải tự hối trách sâu xa.
Sinh tử không dứt bởi vì tham muốn thèm
khát vậy. Tham là tham ái, muốn là muốn thèm, là thèm ngon. Ở thế gian nầy mà
còn tham ái kiểu nầy, kiểu nọ, thì muốn rời khỏi Ta Bà là điều khó được. Chúng
ta đời đời kiếp kiếp tu hành mà không thể ra khỏi ba cõi, vẫn ở nơi luân hồi
cũng là do tham muốn thèm khát. Nếu không ly khai thì như nuôi oan gia, một đời
tu hành toàn rơi vào trống rỗng.
khát vậy. Tham là tham ái, muốn là muốn thèm, là thèm ngon. Ở thế gian nầy mà
còn tham ái kiểu nầy, kiểu nọ, thì muốn rời khỏi Ta Bà là điều khó được. Chúng
ta đời đời kiếp kiếp tu hành mà không thể ra khỏi ba cõi, vẫn ở nơi luân hồi
cũng là do tham muốn thèm khát. Nếu không ly khai thì như nuôi oan gia, một đời
tu hành toàn rơi vào trống rỗng.
Dục niệm, dục là mong muốn, niệm là
vọng tưởng, hai cái nầy tuy không thể cắt đứt, cũng nên từ từ mà buông bỏ đi,
chẳng như vậy thì dẫu một ngày niệm đến vài vạn tiếng danh hiệu Phật, cũng
không được sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.
vọng tưởng, hai cái nầy tuy không thể cắt đứt, cũng nên từ từ mà buông bỏ đi,
chẳng như vậy thì dẫu một ngày niệm đến vài vạn tiếng danh hiệu Phật, cũng
không được sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.
Đức Phật dạy rằng “Dục” là nguồn gốc
của sinh tử, cần thành tựu nhất định nên tiêu trừ tất cả “dục niệm”. Nhưng
phương pháp đối trị “dục niệm, thật ra chẳng phải là dùng cách dè ép hay cấm
ngăn, mà là cần chuyển hóa. Từ sự nhận biết đặc tính của “dục niệm” một cách
triệt để là: Vô thường, khổ, hư vọng, chẳng được tự tại; nhận rõ ràng chân
tướng của nó lại chuyển hóa thành trí tuệ, nhiên hậu lại đem nó nâng lên, rộng
ra, thành là sự quan tâm đến với tất cả chúng sinh.
của sinh tử, cần thành tựu nhất định nên tiêu trừ tất cả “dục niệm”. Nhưng
phương pháp đối trị “dục niệm, thật ra chẳng phải là dùng cách dè ép hay cấm
ngăn, mà là cần chuyển hóa. Từ sự nhận biết đặc tính của “dục niệm” một cách
triệt để là: Vô thường, khổ, hư vọng, chẳng được tự tại; nhận rõ ràng chân
tướng của nó lại chuyển hóa thành trí tuệ, nhiên hậu lại đem nó nâng lên, rộng
ra, thành là sự quan tâm đến với tất cả chúng sinh.
Nếu như tâm mình bị “bảy tình, sáu dục”
che ngăn, thì không những không thể ngăn dừng hạnh ác của mình, ngược lại sẽ
chuốt lấy càng nhiều những rầu buồn, phiền não và khổ đau.
che ngăn, thì không những không thể ngăn dừng hạnh ác của mình, ngược lại sẽ
chuốt lấy càng nhiều những rầu buồn, phiền não và khổ đau.
Người ta ở đời đều hy vọng có một cuộc
sống hạnh phúc khoái lạc, song hạnh phúc khoái lạc từ đâu mà đến? Tuyệt đối
không phải là do nơi “tu phước” mà đến, thấy người giàu có ngày nay, mọi người
khác ngày ngày đều mong muốn được, cả ngày mặt ủ mày chau, thật ra chẳng vui vẻ
gì. “Thiểu dục tri túc” (ít ham muốn và biết đủ) là ĐẠO. Dục là năm dục sáu
trần (năm dục: tài, sắc, danh, ăn, ngủ – sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp), cuộc sống không thiếu, thọ dụng đủ rồi thì được, chẳng cần tham nhiều;
ăn no, mặc ấm, ở thoải mái thì được rồi; Cuộc sống thảnh thơi tự tại là chân
hạnh phúc, tuyệt đối không phải là ở chỗ có bao nhiêu tiền bạc giàu có và sản
nghiệp; Không buồn lo, không bận tâm, cho nên nói là: “tâm yên thì lý được”,
hiểu được đạo lý, sự thật chân tướng rõ ràng thì tâm sẽ được an. Sáu căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần chẳng mê, đối với
việc “đối nhân xử thế” hay tiếp vật đều gom về chỗ tốt đẹp, thì tự nhiên được
tốt đẹp vui vẻ.
sống hạnh phúc khoái lạc, song hạnh phúc khoái lạc từ đâu mà đến? Tuyệt đối
không phải là do nơi “tu phước” mà đến, thấy người giàu có ngày nay, mọi người
khác ngày ngày đều mong muốn được, cả ngày mặt ủ mày chau, thật ra chẳng vui vẻ
gì. “Thiểu dục tri túc” (ít ham muốn và biết đủ) là ĐẠO. Dục là năm dục sáu
trần (năm dục: tài, sắc, danh, ăn, ngủ – sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp), cuộc sống không thiếu, thọ dụng đủ rồi thì được, chẳng cần tham nhiều;
ăn no, mặc ấm, ở thoải mái thì được rồi; Cuộc sống thảnh thơi tự tại là chân
hạnh phúc, tuyệt đối không phải là ở chỗ có bao nhiêu tiền bạc giàu có và sản
nghiệp; Không buồn lo, không bận tâm, cho nên nói là: “tâm yên thì lý được”,
hiểu được đạo lý, sự thật chân tướng rõ ràng thì tâm sẽ được an. Sáu căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần chẳng mê, đối với
việc “đối nhân xử thế” hay tiếp vật đều gom về chỗ tốt đẹp, thì tự nhiên được
tốt đẹp vui vẻ.
Trong cuộc sống ngày thường, đối với
năm dục như thấy sắc nghe tiếng, chẳng thể chẳng động tâm, chỉ có là trẻ nít,
còn như nếu có một chút xíu tâm yêu ghét, thì ra khỏi ba cõi cũng khó rồi!
năm dục như thấy sắc nghe tiếng, chẳng thể chẳng động tâm, chỉ có là trẻ nít,
còn như nếu có một chút xíu tâm yêu ghét, thì ra khỏi ba cõi cũng khó rồi!
Đem những sự tình từ thân, tâm cho đến
ra ngoài thế giới… tất cả buông hết, chớ nên trở lại khởi tâm động niệm. Thị
– phi, được – mất, cảnh khổ, cảnh vui, việc trước việc sau, đại khái chớ suy
nghĩ; Tức lúc niệm sinh khởi khiến lập tức phải giác ngộ mà chiếu soi, chớ cùng
với nó mà tiếp niệm. Cần nên biết rằng những tai ách trước mắt đều bị nghiệp
ngày trước dẫn đến, đến lúc cuối cùng nghiệp duyên thì tự nhiên giải trừ.
ra ngoài thế giới… tất cả buông hết, chớ nên trở lại khởi tâm động niệm. Thị
– phi, được – mất, cảnh khổ, cảnh vui, việc trước việc sau, đại khái chớ suy
nghĩ; Tức lúc niệm sinh khởi khiến lập tức phải giác ngộ mà chiếu soi, chớ cùng
với nó mà tiếp niệm. Cần nên biết rằng những tai ách trước mắt đều bị nghiệp
ngày trước dẫn đến, đến lúc cuối cùng nghiệp duyên thì tự nhiên giải trừ.
Dứt ác tu thiện, tích lũy công đức, làm
được như thế nầy, đời nầy đời sau có thể được phước báo lớn. Nhưng nếu không
thể bảo đảm được đời đời kiếp kiếp không tạo nghiệp, thì khi phước báo hưởng
hết, ác báo lại hiện khởi, chắc chắn đọa vào ba đường ác mà thọ khổ.
được như thế nầy, đời nầy đời sau có thể được phước báo lớn. Nhưng nếu không
thể bảo đảm được đời đời kiếp kiếp không tạo nghiệp, thì khi phước báo hưởng
hết, ác báo lại hiện khởi, chắc chắn đọa vào ba đường ác mà thọ khổ.
Cảnh giới hiện tiền, tập khí tâm bệnh
lại đến, thấy được cảnh thuận – nghịch lại sinh tâm yêu – ghét, tham – sân – si
– mạn, riêng tư tự lợi, cần gấp rút là giác ngộ, dùng một câu “A Di Đà Phật” để
thay thế tất cả niệm đầu là đúng nhất.
lại đến, thấy được cảnh thuận – nghịch lại sinh tâm yêu – ghét, tham – sân – si
– mạn, riêng tư tự lợi, cần gấp rút là giác ngộ, dùng một câu “A Di Đà Phật” để
thay thế tất cả niệm đầu là đúng nhất.
Chẳng nên trước cầu niệm Phật nhất tâm
bất loạn, mà nên trước phải làm được công việc là niệm Phật nhiều, trong tâm có
Phật, tâm thanh tịnh. Tâm không chuyển theo cảnh. Cảnh giới hiện tiền, vọng
tưởng nhiều, mà tâm chuyển theo cảnh thì làm sao niệm Phật có thể nhất tâm bất
loạn.
bất loạn, mà nên trước phải làm được công việc là niệm Phật nhiều, trong tâm có
Phật, tâm thanh tịnh. Tâm không chuyển theo cảnh. Cảnh giới hiện tiền, vọng
tưởng nhiều, mà tâm chuyển theo cảnh thì làm sao niệm Phật có thể nhất tâm bất
loạn.
Lúc niệm Phật, mà trong tâm nghĩ suy
lung tung, thậm chí tham, sân, si mạn, y như cũ chưa diệt chút nào, chẳng chơn
chánh tu hành. Lúc niệm Phật mà sinh ác niệm thì không những không công, mà còn
ngược lại là có tội lỗi.
lung tung, thậm chí tham, sân, si mạn, y như cũ chưa diệt chút nào, chẳng chơn
chánh tu hành. Lúc niệm Phật mà sinh ác niệm thì không những không công, mà còn
ngược lại là có tội lỗi.
Niệm Phật nếu có tín tâm chẳng đủ, lại
còn muốn học những pháp môn khác, đối với việc thế gian sự hứng thú còn đầy ắp,
lại trải qua ngàn đời vạn kiếp cũng vẫn vậy, sẽ mãi luân hồi nơi sáu đường.
còn muốn học những pháp môn khác, đối với việc thế gian sự hứng thú còn đầy ắp,
lại trải qua ngàn đời vạn kiếp cũng vẫn vậy, sẽ mãi luân hồi nơi sáu đường.
SỬA TÂM BỆNH ĐỔI TẬP KHÍ
Sanh làm thân người, khó mà tránh khỏi
những thói quen chẳng tốt (tâm bệnh), một ngày thân tâm bị cảm lấy sự nhiễm ô,
nếu muốn giải trừ thói quen không tốt, nếu như chẳng ráng sức hạ quyết tâm, như
thế kết quả còn khó hơn cả sự lên trời, chỉ vì: “cắt cỏ chẳng trừ gốc, gió xuân
về lại mọc lên”, trước tiên phải yên tịnh mà xét nét chính mình, nhận thức chính
mình, mới có thể rõ suốt được sự cuồng vọng, hung hăng, ấu trĩ và không hiểu
biết của mình; cũng chỉ có nhận thức chính mình mới không thể tự đại hoặc tự ti
mù quáng.
những thói quen chẳng tốt (tâm bệnh), một ngày thân tâm bị cảm lấy sự nhiễm ô,
nếu muốn giải trừ thói quen không tốt, nếu như chẳng ráng sức hạ quyết tâm, như
thế kết quả còn khó hơn cả sự lên trời, chỉ vì: “cắt cỏ chẳng trừ gốc, gió xuân
về lại mọc lên”, trước tiên phải yên tịnh mà xét nét chính mình, nhận thức chính
mình, mới có thể rõ suốt được sự cuồng vọng, hung hăng, ấu trĩ và không hiểu
biết của mình; cũng chỉ có nhận thức chính mình mới không thể tự đại hoặc tự ti
mù quáng.
Thói quen trên hành vi, ngay lúc mới
nhiễm ô nếu phát hiện phải lập tức quyết tâm sửa lỗi, thì rất là dễ sửa đổi lỗi
lầm; Chỉ sợ rằng từ nơi sự bất tịnh đem tâm xét ngược lại mình, rồi nói rồi
làm, có sự tổn hại đến tâm bệnh mà không tự biết; Đợi đến lúc tổn hại tâm bệnh
theo tuổi tác mà thành lớn, một ngày kia sau khi thấu triệt giác ngộ, muốn cần
sửa lỗi, cũng không bằng lúc vừa mới nhiễm để được dễ dàng, chẳng qua trên đời
không có việc khó, chỉ sợ người không có lòng, nhất định có thể hoàn thành
được.
nhiễm ô nếu phát hiện phải lập tức quyết tâm sửa lỗi, thì rất là dễ sửa đổi lỗi
lầm; Chỉ sợ rằng từ nơi sự bất tịnh đem tâm xét ngược lại mình, rồi nói rồi
làm, có sự tổn hại đến tâm bệnh mà không tự biết; Đợi đến lúc tổn hại tâm bệnh
theo tuổi tác mà thành lớn, một ngày kia sau khi thấu triệt giác ngộ, muốn cần
sửa lỗi, cũng không bằng lúc vừa mới nhiễm để được dễ dàng, chẳng qua trên đời
không có việc khó, chỉ sợ người không có lòng, nhất định có thể hoàn thành
được.
Sửa tâm bệnh đổi tập khí, là sửa chữa
sự mê hoặc của chúng ta, sự tà kiến, vô tri, cố chấp, võ đoán, lầm lỗi bất
thiện v.v… của chúng ta, do TỰ NGÃ làm trung tâm mức độ không đồng, tu sửa tư
tưởng và hành vi hại người lợi mình.
sự mê hoặc của chúng ta, sự tà kiến, vô tri, cố chấp, võ đoán, lầm lỗi bất
thiện v.v… của chúng ta, do TỰ NGÃ làm trung tâm mức độ không đồng, tu sửa tư
tưởng và hành vi hại người lợi mình.
Làm đến khi “chỉ có thiện không có ác”,
bên trong tâm không khởi niệm mới thôi, một khi khởi niệm thì là thiện, chẳng
trở lại có ác, tiến tới ngay cả thiện niệm cũng không có. Sửa đổi đến khi có
thể “Đại trí giống như ngu”, như câm như điếc, tốt xấu được mất đều chẳng động
tâm, tâm kia được thanh tịnh.
bên trong tâm không khởi niệm mới thôi, một khi khởi niệm thì là thiện, chẳng
trở lại có ác, tiến tới ngay cả thiện niệm cũng không có. Sửa đổi đến khi có
thể “Đại trí giống như ngu”, như câm như điếc, tốt xấu được mất đều chẳng động
tâm, tâm kia được thanh tịnh.
Người đời nhân vì thói quen vốn có từ
nhiều đời trở lại đây, cho đến đời nầy từ nhỏ đã chịu lấy sự tập nhiễm ở hoàn
cảnh, mà tự nhiên hiện khởi ở thân, miệng, ý, gọi là TẬP KHÍ (thói quen). Người
người đều vốn đủ có PHẬT TÁNH. Nhưng Phật tánh nầy bị sự che ngăn và trở ngại
của nghiệp chướng do “tập khí vô minh” và vọng tưởng chấp trước. Ví như gương
sáng bị bụi bặm phủ đầy, mất đi “tánh sáng thanh tịnh” vốn có, “tập khí” tức là
bụi bặm, nên triệt để hơn nữa để sửa đổi lau dọn. Ví như muốn đạt được tốt sự
“tham dục”, thì cái gì cũng muốn, cái gì cũng cần, thế nào cũng không đủ, tham
không biết đủ, muốn không biết dừng; phải nên sửa đổi thành “đạm bạc thiểu
dục”. Không làm tốt sự tham muốn thì bực bội, chút ít không như ý thì tức tối,
vậy thì phải nên sửa thành sự nhẫn nhục và khoan dung. Không làm việc hung bạo,
mở miệng thì chưởi, động tay thì đánh, cần phải sửa đổi cho tâm bình khí hòa,
vui vẻ diện mạo. Không làm cho tốt việc nói láo, mà nên đổi làm lời nói trung
thực và thành thật. Không giảo quyệt và gian trá, nên sửa đổi thành sự thành
thật và không khinh dối. Không làm việc phù hoa xa xỉ, cần nên đổi lại là sự
mộc mạc giản dị và tiết kiệm. Không làm việc riêng tư, xung khắc và đố kỵ, cần
đổi lại là vì việc chung mà không riêng tư. Không làm kiểu hẹp hòi và nôn nóng,
mà phải sửa đổi thành sự rộng rãi và nhẫn nại. Không làm sự gan dạ điên cuồng,
mà cần phải đổi thành sự chín chắn cẩn thận. Không nặng lòng đố kỵ, ganh tỵ mà
phải đổi lại là sự rộng lượng quảng đại. Không nặng lòng nghi kỵ, cần đổi lại
là sự tín nhiệm người khác. Không tự đại tự mãn, cần đổi lại là: ta không bằng
người, thấp giọng hạ mình nhún nhường. Luống dối đổi là thành kính, sự bộp chộp
nôn nóng đổi là trầm tĩnh, kiêu ngạo đổi là khiêm tốn, biếng nhác trác tán đổi
là siêng năng cần mẫn, tàn nhẫn đổi thành nhân từ, cay nghiệt đổi thành khoang
dung, thiên kiến đổi thành hòa bình, keo kiệt đổi thành thí xả; sửa đổi trừ bỏ
tâm ghét hận, tâm ngạo mạn, tâm thờ ơ, tâm phẫn nộ, tâm cướp lấy, tâm tình
nghi, tâm buồn rầu, tâm cố chấp, tâm hẹp hòi, tâm sợ sệt, tâm quên ơn, tâm thấp
hèn, tâm bi thương, tâm không có công đức, tâm cuồng vọng tự đại, tâm tự cho là
phải không phục thiện, tâm riêng tư tự lợi, tâm trong mắt không có người, tâm
bất bình bất mãn, tâm bất an thô tháo… Ác khẩu cũng cần sữa đổi, tóm lại
những vấn đề ác niệm ác hạnh không sao kể xiết; Phàm là tư tưởng, hành vi và
ngôn ngữ tổn hại đến chúng sinh đều nên sửa đổi, chẳng được riêng tư tự lợi, ra
sức tranh hơn, cái gì cũng chỉ làm đầy đủ cho mình, có việc gì mà chẳng thể
làm, ra sức tích đức, sao lại ra sức thông cảm bỏ qua, quí tiếc mình, ngược lại
chà đạp mình! Tu hành thì cần phải “sửa tâm bệnh đổi tập khí”.
nhiều đời trở lại đây, cho đến đời nầy từ nhỏ đã chịu lấy sự tập nhiễm ở hoàn
cảnh, mà tự nhiên hiện khởi ở thân, miệng, ý, gọi là TẬP KHÍ (thói quen). Người
người đều vốn đủ có PHẬT TÁNH. Nhưng Phật tánh nầy bị sự che ngăn và trở ngại
của nghiệp chướng do “tập khí vô minh” và vọng tưởng chấp trước. Ví như gương
sáng bị bụi bặm phủ đầy, mất đi “tánh sáng thanh tịnh” vốn có, “tập khí” tức là
bụi bặm, nên triệt để hơn nữa để sửa đổi lau dọn. Ví như muốn đạt được tốt sự
“tham dục”, thì cái gì cũng muốn, cái gì cũng cần, thế nào cũng không đủ, tham
không biết đủ, muốn không biết dừng; phải nên sửa đổi thành “đạm bạc thiểu
dục”. Không làm tốt sự tham muốn thì bực bội, chút ít không như ý thì tức tối,
vậy thì phải nên sửa thành sự nhẫn nhục và khoan dung. Không làm việc hung bạo,
mở miệng thì chưởi, động tay thì đánh, cần phải sửa đổi cho tâm bình khí hòa,
vui vẻ diện mạo. Không làm cho tốt việc nói láo, mà nên đổi làm lời nói trung
thực và thành thật. Không giảo quyệt và gian trá, nên sửa đổi thành sự thành
thật và không khinh dối. Không làm việc phù hoa xa xỉ, cần nên đổi lại là sự
mộc mạc giản dị và tiết kiệm. Không làm việc riêng tư, xung khắc và đố kỵ, cần
đổi lại là vì việc chung mà không riêng tư. Không làm kiểu hẹp hòi và nôn nóng,
mà phải sửa đổi thành sự rộng rãi và nhẫn nại. Không làm sự gan dạ điên cuồng,
mà cần phải đổi thành sự chín chắn cẩn thận. Không nặng lòng đố kỵ, ganh tỵ mà
phải đổi lại là sự rộng lượng quảng đại. Không nặng lòng nghi kỵ, cần đổi lại
là sự tín nhiệm người khác. Không tự đại tự mãn, cần đổi lại là: ta không bằng
người, thấp giọng hạ mình nhún nhường. Luống dối đổi là thành kính, sự bộp chộp
nôn nóng đổi là trầm tĩnh, kiêu ngạo đổi là khiêm tốn, biếng nhác trác tán đổi
là siêng năng cần mẫn, tàn nhẫn đổi thành nhân từ, cay nghiệt đổi thành khoang
dung, thiên kiến đổi thành hòa bình, keo kiệt đổi thành thí xả; sửa đổi trừ bỏ
tâm ghét hận, tâm ngạo mạn, tâm thờ ơ, tâm phẫn nộ, tâm cướp lấy, tâm tình
nghi, tâm buồn rầu, tâm cố chấp, tâm hẹp hòi, tâm sợ sệt, tâm quên ơn, tâm thấp
hèn, tâm bi thương, tâm không có công đức, tâm cuồng vọng tự đại, tâm tự cho là
phải không phục thiện, tâm riêng tư tự lợi, tâm trong mắt không có người, tâm
bất bình bất mãn, tâm bất an thô tháo… Ác khẩu cũng cần sữa đổi, tóm lại
những vấn đề ác niệm ác hạnh không sao kể xiết; Phàm là tư tưởng, hành vi và
ngôn ngữ tổn hại đến chúng sinh đều nên sửa đổi, chẳng được riêng tư tự lợi, ra
sức tranh hơn, cái gì cũng chỉ làm đầy đủ cho mình, có việc gì mà chẳng thể
làm, ra sức tích đức, sao lại ra sức thông cảm bỏ qua, quí tiếc mình, ngược lại
chà đạp mình! Tu hành thì cần phải “sửa tâm bệnh đổi tập khí”.
Sửa tâm bệnh đổi tập khí (cải đổi ác,
tu thành thiện) là điểm bước đầu tiên tu hành học Phật, tập khí (ác) chẳng đổi,
tu thiện như thế là tu không tốt rồi. Như vậy chẳng phải là tu hành học Phật!
tu thành thiện) là điểm bước đầu tiên tu hành học Phật, tập khí (ác) chẳng đổi,
tu thiện như thế là tu không tốt rồi. Như vậy chẳng phải là tu hành học Phật!
Sửa tâm bệnh đổi tập khí phải cần “minh
tâm”, cần “thành tâm”. Minh tâm là trí tuệ, đối với tất cả sự tướng, sự lý đều
có thể thông đạt rõ hiểu mà không sai lầm; thế nào là thiện? Thế nào là ác? Cái
gì đáng làm? Cái gì không đáng làm? Rõ ràng sáng suốt, cho nên gọi là MINH.
Thành tâm tức là “chơn tâm”, “trực tâm”, “chí thành tâm”, cũng tức là ý nghĩa
THÀNH. “Chẳng minh” thì không thể rõ phân thiện – ác, thị – phi. “Chẳng thành”
thì dối gạt người khác, dối gạt chính mình.
tâm”, cần “thành tâm”. Minh tâm là trí tuệ, đối với tất cả sự tướng, sự lý đều
có thể thông đạt rõ hiểu mà không sai lầm; thế nào là thiện? Thế nào là ác? Cái
gì đáng làm? Cái gì không đáng làm? Rõ ràng sáng suốt, cho nên gọi là MINH.
Thành tâm tức là “chơn tâm”, “trực tâm”, “chí thành tâm”, cũng tức là ý nghĩa
THÀNH. “Chẳng minh” thì không thể rõ phân thiện – ác, thị – phi. “Chẳng thành”
thì dối gạt người khác, dối gạt chính mình.
Bỡi vậy MINH, ở nơi sự học Phật tu hành
của chúng ta mà nói, tức là công phu soi xét. Chúng ta cần thường phản tỉnh,
kiểm tra, quán sát, thì sau mới có thể làm được việc sửa lỗi, mới có thể làm
được việc tu thiện. Chúng ta nếu như không có minh tâm và thành tâm, thì không
hiểu được thế nào là thiện, ác, như thế còn bàn gì đến việc sửa lỗi, tu thiện!
của chúng ta mà nói, tức là công phu soi xét. Chúng ta cần thường phản tỉnh,
kiểm tra, quán sát, thì sau mới có thể làm được việc sửa lỗi, mới có thể làm
được việc tu thiện. Chúng ta nếu như không có minh tâm và thành tâm, thì không
hiểu được thế nào là thiện, ác, như thế còn bàn gì đến việc sửa lỗi, tu thiện!
Chỉ có người sáng suốt (MINH) thì mới
hiểu thế nào là thiện, ác? Cái gì nên làm, không nên làm! Rõ ràng minh bạch.
Chúng ta từng bước tìm ra tập khí (ác) tâm bệnh của mình, thì nên sửa đổi (sửa
ác) bằng chơn tâm thành ý, tu thiện, không nên phô bày, không nên lơ là.
hiểu thế nào là thiện, ác? Cái gì nên làm, không nên làm! Rõ ràng minh bạch.
Chúng ta từng bước tìm ra tập khí (ác) tâm bệnh của mình, thì nên sửa đổi (sửa
ác) bằng chơn tâm thành ý, tu thiện, không nên phô bày, không nên lơ là.
Chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật cần
dùng “chơn tâm”, chẳng dối gạt mình, chẳng dối gạt bất cứ một người nào. Cuộc
sống thường ngày vọng niệm (ác) không sinh, thường thường giữ gìn “chánh niệm
hiện tiền”, chúng ta hiện tại dẫu chịu khổ chịu nạn, cuối cùng khổ nạn cũng sẽ
qua đi rất mau. Cho nên gốc rễ lớn của pháp thế gian và và xuất thế gian tức là
“sáng suốt và chí thành”.
dùng “chơn tâm”, chẳng dối gạt mình, chẳng dối gạt bất cứ một người nào. Cuộc
sống thường ngày vọng niệm (ác) không sinh, thường thường giữ gìn “chánh niệm
hiện tiền”, chúng ta hiện tại dẫu chịu khổ chịu nạn, cuối cùng khổ nạn cũng sẽ
qua đi rất mau. Cho nên gốc rễ lớn của pháp thế gian và và xuất thế gian tức là
“sáng suốt và chí thành”.
Con người, hẳn nhiên không phải sinh ra
tức là Thánh nhân liền, thế thì làm sao không có lỗi lầm? Nếu có lỗi thì chẳng
nên sợ sửa đổi lỗi lầm. Lỗi nhỏ còn phải sửa đổi, còn tội lỗi quá lớn đương
nhiên chẳng thể phạm được.
tức là Thánh nhân liền, thế thì làm sao không có lỗi lầm? Nếu có lỗi thì chẳng
nên sợ sửa đổi lỗi lầm. Lỗi nhỏ còn phải sửa đổi, còn tội lỗi quá lớn đương
nhiên chẳng thể phạm được.
Nhưng sửa lỗi thì cần “phát tâm” sửa
lỗi. Bàn đến việc sửa lỗi, thứ nhất cần phát tâm hổ thẹn, thứ hai cần phát tâm
sợ lỗi, thứ ba cần phát tâm dõng mãnh.
lỗi. Bàn đến việc sửa lỗi, thứ nhất cần phát tâm hổ thẹn, thứ hai cần phát tâm
sợ lỗi, thứ ba cần phát tâm dõng mãnh.
“Phát tâm hổ thẹn”, người xưa nói:
“Biết hổ thẹn thì gần với cái DŨNG”. Chỉ có biết hổ thẹn mới có thể chân chính
sửa lỗi, mới có thể hưng phấn mà hướng lên. Chư Phật, Bồ Tát ở vô lượng kiếp về
trước cũng như chúng ta, cũng là phàm phu, các Ngài ngày nay thành Phật thành
Bồ Tát, ta vẫn còn luân hồi trong sáu đường, cảm thấy hổ thẹn đáng tủi hổ lắm!
Như nếu thường thường phản tỉnh, tự nhiên sẽ dõng mãnh tinh tấn, chân chánh
quay đầu. Người nếu chỉ biết tham luyến âm thanh, sắc đẹp, danh vọng, lợi
dưỡng, buông lung tình ý, ở sau lưng người khác làm những trò (thủ đoạn) mà
người không thấy được, bỡi vì người khác không thấy được, mà tự cho là đắc ý,
không xấu hổ chút nào, thì sẽ lần lần biến thành cầm thú đội lốt người mà chẳng
tự biết. Trên cõi đời lại không có gì so sánh được hành vi nầy, càng hổ, càng
thẹn. Có thể làm đến khi biết hổ thẹn thì có thể thành Thánh Hiền, còn không
biết hổ thẹn là vật gì? Chắc chắn là cầm thú rồi không còn nghi ngờ gì nữa.
Chìa khóa của sự sửa lỗi tức là ở trong một niệm nầy; Người sở dĩ khác với loài
cầm thú cũng chỉ sai khác ở một niệm mà thôi!
“Biết hổ thẹn thì gần với cái DŨNG”. Chỉ có biết hổ thẹn mới có thể chân chính
sửa lỗi, mới có thể hưng phấn mà hướng lên. Chư Phật, Bồ Tát ở vô lượng kiếp về
trước cũng như chúng ta, cũng là phàm phu, các Ngài ngày nay thành Phật thành
Bồ Tát, ta vẫn còn luân hồi trong sáu đường, cảm thấy hổ thẹn đáng tủi hổ lắm!
Như nếu thường thường phản tỉnh, tự nhiên sẽ dõng mãnh tinh tấn, chân chánh
quay đầu. Người nếu chỉ biết tham luyến âm thanh, sắc đẹp, danh vọng, lợi
dưỡng, buông lung tình ý, ở sau lưng người khác làm những trò (thủ đoạn) mà
người không thấy được, bỡi vì người khác không thấy được, mà tự cho là đắc ý,
không xấu hổ chút nào, thì sẽ lần lần biến thành cầm thú đội lốt người mà chẳng
tự biết. Trên cõi đời lại không có gì so sánh được hành vi nầy, càng hổ, càng
thẹn. Có thể làm đến khi biết hổ thẹn thì có thể thành Thánh Hiền, còn không
biết hổ thẹn là vật gì? Chắc chắn là cầm thú rồi không còn nghi ngờ gì nữa.
Chìa khóa của sự sửa lỗi tức là ở trong một niệm nầy; Người sở dĩ khác với loài
cầm thú cũng chỉ sai khác ở một niệm mà thôi!
“Phát tâm sợ sệt lỗi lầm”, sợ tức là sợ
sệt; Con người thường ôm lòng sợ, thế là một sức khống chế rất lớn, khiến cho
mình không dám làm ác. Người khác có chỗ sợ sệt, thế thì họ sợ cái gì? Có câu
rằng: “Trời đất ở trên, quỉ thần khó dối”. Gạt người dễ, gạt mình cũng dễ, gạt
Chư Phật, Bồ Tát, Trời thần chẳng phải dễ, không nói đến Phật, Bồ Tát, Trời
Thần mà ngay cả quỉ thần phần lớn đều có năm món thần thông, trong đó có: thiên
nhãn thông, tha tâm thông v.v… Chẳng qua là năng lực đó lớn hay nhỏ không
đồng mà thôi. Con người nếu khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm chỉ phạm một
điểm nhỏ lỗi lầm thì quỉ thần cũng biết được rất là rõ ràng. Cho nên chúng ta
sau khi đã đọc kinh luận và sách vở Thánh Hiền, thật là dựng đứng lông tơ,
không có mảy mún nào có thể dối ổn. Nếu là phạm lỗi nặng nề, trời ắt giáng
xuống những tai họa, nếu phạm lỗi nhỏ, thì sẽ tổn đến phước báo đời nầy. Con người
không thể không sợ Trời thần, quỉ thần, một người nếu là sinh hoạt ở trong nhà
tối che dấu, thì Trời thần hoặc quỉ thần cũng sẽ đồng nhìn thấy rất rõ ràng,
tức là che đậy dẫu rất là kín đáo, làm rất là khéo léo, cũng không cách nào che
lấp được ý niệm phát sinh tâm tư thiện ác, “ý niệm” cũng tựa như một làn sóng
điện, mà quỉ thần giống như cái thể dẫn vô hình, đây cũng là quỉ thần không chỗ
nào là chẳng biết, mọi người cần nên kính sợ nguyên nhân của tâm. Đồng thời
cũng không cách nào che đậy tâm tốt của mình, dối gạt mình, cho nên chúng ta
làm sao mà có thể chẳng sợ được ư!
sệt; Con người thường ôm lòng sợ, thế là một sức khống chế rất lớn, khiến cho
mình không dám làm ác. Người khác có chỗ sợ sệt, thế thì họ sợ cái gì? Có câu
rằng: “Trời đất ở trên, quỉ thần khó dối”. Gạt người dễ, gạt mình cũng dễ, gạt
Chư Phật, Bồ Tát, Trời thần chẳng phải dễ, không nói đến Phật, Bồ Tát, Trời
Thần mà ngay cả quỉ thần phần lớn đều có năm món thần thông, trong đó có: thiên
nhãn thông, tha tâm thông v.v… Chẳng qua là năng lực đó lớn hay nhỏ không
đồng mà thôi. Con người nếu khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm chỉ phạm một
điểm nhỏ lỗi lầm thì quỉ thần cũng biết được rất là rõ ràng. Cho nên chúng ta
sau khi đã đọc kinh luận và sách vở Thánh Hiền, thật là dựng đứng lông tơ,
không có mảy mún nào có thể dối ổn. Nếu là phạm lỗi nặng nề, trời ắt giáng
xuống những tai họa, nếu phạm lỗi nhỏ, thì sẽ tổn đến phước báo đời nầy. Con người
không thể không sợ Trời thần, quỉ thần, một người nếu là sinh hoạt ở trong nhà
tối che dấu, thì Trời thần hoặc quỉ thần cũng sẽ đồng nhìn thấy rất rõ ràng,
tức là che đậy dẫu rất là kín đáo, làm rất là khéo léo, cũng không cách nào che
lấp được ý niệm phát sinh tâm tư thiện ác, “ý niệm” cũng tựa như một làn sóng
điện, mà quỉ thần giống như cái thể dẫn vô hình, đây cũng là quỉ thần không chỗ
nào là chẳng biết, mọi người cần nên kính sợ nguyên nhân của tâm. Đồng thời
cũng không cách nào che đậy tâm tốt của mình, dối gạt mình, cho nên chúng ta
làm sao mà có thể chẳng sợ được ư!
“Phát tâm mạnh mẽ và quyết tâm”; Quyết
định cần phải phát ngay tâm mạnh mẽ hướng về phía trước, một người sở dĩ đã có
lỗi lầm mà chẳng chịu sửa đổi, đều là do dần dà không có dũng khí chẳng thể sửa
đổi, đều là do dự cẩu thả, mắc lỗi thì chịu lỗi, không thể ra tay làm một cách
phấn phát, nên thụt lùi và rơi vào nguyên nhân của sự e dè sợ sệt. Cần biết sửa
lỗi, nhất định ngay nơi cơ sở của lỗi, lập tức dứt bỏ, phải sửa đổi ngay, chẳng
nên dần dà nghi hoặc. Lỗi nhỏ giống như gai châm trong thịt, mau chóng nhổ trừ.
Phạm lỗi lớn, tai hại giống như rắn độc mổ ngón tay, cần ngay cắt bỏ ngón tay,
đây là so sánh để ví dụ cần phải hạ quyết tâm quyết định, dứt tất cả ác, chẳng
được có ý niệm do dự nghi ngờ chậm chạp.
định cần phải phát ngay tâm mạnh mẽ hướng về phía trước, một người sở dĩ đã có
lỗi lầm mà chẳng chịu sửa đổi, đều là do dần dà không có dũng khí chẳng thể sửa
đổi, đều là do dự cẩu thả, mắc lỗi thì chịu lỗi, không thể ra tay làm một cách
phấn phát, nên thụt lùi và rơi vào nguyên nhân của sự e dè sợ sệt. Cần biết sửa
lỗi, nhất định ngay nơi cơ sở của lỗi, lập tức dứt bỏ, phải sửa đổi ngay, chẳng
nên dần dà nghi hoặc. Lỗi nhỏ giống như gai châm trong thịt, mau chóng nhổ trừ.
Phạm lỗi lớn, tai hại giống như rắn độc mổ ngón tay, cần ngay cắt bỏ ngón tay,
đây là so sánh để ví dụ cần phải hạ quyết tâm quyết định, dứt tất cả ác, chẳng
được có ý niệm do dự nghi ngờ chậm chạp.
Một người sửa lỗi, nếu như có thể đầy
đủ ba cái tâm là: tâm hổ thẹn, tâm e sợ và tâm mạnh mẽ quyết định, như trên đã
nói, thì tội lỗi chẳng câu nệ là lớn nhỏ, hễ là có lỗi, thì sữa đổi ngay; Giống
như băng mỏng của mùa xuân, gặp ánh sáng mặt trời, còn sợ gì chẳng tan ư? Cho
nên sửa lỗi để được thiện chắc chắn thành công.
đủ ba cái tâm là: tâm hổ thẹn, tâm e sợ và tâm mạnh mẽ quyết định, như trên đã
nói, thì tội lỗi chẳng câu nệ là lớn nhỏ, hễ là có lỗi, thì sữa đổi ngay; Giống
như băng mỏng của mùa xuân, gặp ánh sáng mặt trời, còn sợ gì chẳng tan ư? Cho
nên sửa lỗi để được thiện chắc chắn thành công.
(Tuy là có lỗi nếu có thể sửa đổi thì
tốt, nhưng tuyệt đối không được cho rằng phạm lỗi có thể sửa đổi, rồi thì
thường xuyên phạm cũng không sao, như thế rất là không thể được. Nếu có cái tâm
nầy, tức là có tâm phạm lỗi, tội lại càng nặng thêm). Nhưng đời người vô
thường, chỉ cần một hơi thở không trở lại, thì thân thể nầy không phải là của
ta nữa rồi! Muốn sửa lỗi cũng không còn kịp được. Báo ứng rõ ràng, tiếng xấu muôn
năm ở tại dương gian, khiến cho con hiếu cháu hiền muốn tẩy rửa cũng không tẩy
rửa được. Báo ứng mờ mịt, nếu lỗi phạm là nhỏ, thì sẽ tổn hại đến phước báo
hiện đời; Nếu lỗi phạm là lớn nặng, Trời sẽ giáng xuống những tai họa, chết rồi
sẽ bị chìm đắm trôi lăn trong địa ngục, vĩnh viễn bị chặt mài, thì Phật, Bồ
tát, cũng cứu không được, làm sao mà không đáng sợ!
tốt, nhưng tuyệt đối không được cho rằng phạm lỗi có thể sửa đổi, rồi thì
thường xuyên phạm cũng không sao, như thế rất là không thể được. Nếu có cái tâm
nầy, tức là có tâm phạm lỗi, tội lại càng nặng thêm). Nhưng đời người vô
thường, chỉ cần một hơi thở không trở lại, thì thân thể nầy không phải là của
ta nữa rồi! Muốn sửa lỗi cũng không còn kịp được. Báo ứng rõ ràng, tiếng xấu muôn
năm ở tại dương gian, khiến cho con hiếu cháu hiền muốn tẩy rửa cũng không tẩy
rửa được. Báo ứng mờ mịt, nếu lỗi phạm là nhỏ, thì sẽ tổn hại đến phước báo
hiện đời; Nếu lỗi phạm là lớn nặng, Trời sẽ giáng xuống những tai họa, chết rồi
sẽ bị chìm đắm trôi lăn trong địa ngục, vĩnh viễn bị chặt mài, thì Phật, Bồ
tát, cũng cứu không được, làm sao mà không đáng sợ!
Sửa ác tu thiện, có rất nhiều chỗ tốt
đối với người tu hành; Chỗ tốt thấy rõ là an bình tốt đẹp, tự tại, vui vẻ; Còn
việc khó thấy là sự nghiệp thuận lợi, con cái ngoan hiền, gia đình hòa mục,
được nhiều người tôn kính.
đối với người tu hành; Chỗ tốt thấy rõ là an bình tốt đẹp, tự tại, vui vẻ; Còn
việc khó thấy là sự nghiệp thuận lợi, con cái ngoan hiền, gia đình hòa mục,
được nhiều người tôn kính.
Phương pháp sửa lỗi, một khi người sửa
lỗi có đủ ba phương pháp: Sửa trên SỰ, sửa trên LÝ và sửa từ TÂM. Nếu công phu
không đồng thì công hiệu được cũng không đồng.
lỗi có đủ ba phương pháp: Sửa trên SỰ, sửa trên LÝ và sửa từ TÂM. Nếu công phu
không đồng thì công hiệu được cũng không đồng.
Phương pháp sửa lỗi tốt nhất là sửa từ
tâm, tu tâm, khiến cho tâm địa thanh tịnh – tâm không động niệm – không riêng
tư ham muốn (Nhân phạm lỗi đều bỡi vì niệm đầu các việc xấu xa động ở trên
tâm). Có thể tu tâm, thì niệm đầu xấu xa nhánh nhóc ấy đều sẽ biết rõ, lập tức
quở trách, sẽ mau chóng dừng trụ chẳng động cái tâm; Tâm không động, thì niệm
đầu xấu xa như thế đều tiêu mất, cũng sẽ không thể phạm lỗi được. Đây tức là bí
quyết chân chánh tu tâm sửa lỗi rất tinh thuần mà lại là duy nhất!
tâm, tu tâm, khiến cho tâm địa thanh tịnh – tâm không động niệm – không riêng
tư ham muốn (Nhân phạm lỗi đều bỡi vì niệm đầu các việc xấu xa động ở trên
tâm). Có thể tu tâm, thì niệm đầu xấu xa nhánh nhóc ấy đều sẽ biết rõ, lập tức
quở trách, sẽ mau chóng dừng trụ chẳng động cái tâm; Tâm không động, thì niệm
đầu xấu xa như thế đều tiêu mất, cũng sẽ không thể phạm lỗi được. Đây tức là bí
quyết chân chánh tu tâm sửa lỗi rất tinh thuần mà lại là duy nhất!
Sửa lỗi từ trên tâm là thế nào?
Lỗi lầm của con người có trăm, ngàn,
vạn kiểu rất nhiều, đều là tạo ra từ nơi tâm. Tâm người – ta chẳng động niệm,
các việc (thiện – ác) gì cũng không thể nào xảy ra, thế thì lỗi lầm còn có thể
từ đâu mà sinh ra ư? Chúng ta sửa đổi từ tâm địa, tức là sự sửa đổi của chơn
tâm, cái muốn của chơn tâm là cần sửa đổi, chơn tâm dứt ác, chơn tâm tu thiện,
đây tức là dùng công phu trên tâm địa (đất tâm).
vạn kiểu rất nhiều, đều là tạo ra từ nơi tâm. Tâm người – ta chẳng động niệm,
các việc (thiện – ác) gì cũng không thể nào xảy ra, thế thì lỗi lầm còn có thể
từ đâu mà sinh ra ư? Chúng ta sửa đổi từ tâm địa, tức là sự sửa đổi của chơn
tâm, cái muốn của chơn tâm là cần sửa đổi, chơn tâm dứt ác, chơn tâm tu thiện,
đây tức là dùng công phu trên tâm địa (đất tâm).
Cũng chẳng cần phải chạy theo kiểu
cách, kiểm thảo, háo (ưa) danh, háo lợi, háo sắc, ưa nộ nạt… nhưng lỗi lầm rất
nhiều; Chỉ cần nhất tâm hướng thiện, phát tâm bồ đề, niệm đầu chân chánh hiện
ra trước mặt, làm việc thiện, nói lời thiện, như thế các niệm đầu tà vạy sẽ tự
nhiêu tiêu mất.
cách, kiểm thảo, háo (ưa) danh, háo lợi, háo sắc, ưa nộ nạt… nhưng lỗi lầm rất
nhiều; Chỉ cần nhất tâm hướng thiện, phát tâm bồ đề, niệm đầu chân chánh hiện
ra trước mặt, làm việc thiện, nói lời thiện, như thế các niệm đầu tà vạy sẽ tự
nhiêu tiêu mất.
Việc sửa lỗi, khi mới bắt đầu đều là
tiến tiến lùi lùi, sửa rồi lại phạm. Không nên nhân vì nhất thời sửa không
xong, thì nổi nóng trong lòng, vấn đề là cần phải có tâm nhẫn nại, tâm lâu dài,
hai tâm nầy rất là quan trọng! Chỉ cần có hai tâm nầy, thì sẽ có tâm thường
hằng, có nghị lực, có quyết tâm, cần thiết tha sửa đổi cái sai ngày trước, thì
những tập khí tâm bệnh nầy sẽ được sửa xong. Không dễ gì dứt được trong chốc
lác là xong, là dứt được liền.
tiến tiến lùi lùi, sửa rồi lại phạm. Không nên nhân vì nhất thời sửa không
xong, thì nổi nóng trong lòng, vấn đề là cần phải có tâm nhẫn nại, tâm lâu dài,
hai tâm nầy rất là quan trọng! Chỉ cần có hai tâm nầy, thì sẽ có tâm thường
hằng, có nghị lực, có quyết tâm, cần thiết tha sửa đổi cái sai ngày trước, thì
những tập khí tâm bệnh nầy sẽ được sửa xong. Không dễ gì dứt được trong chốc
lác là xong, là dứt được liền.
Sửa tâm bệnh đổi tập khí (sửa ác tu
thiện), cần có năng lực rõ biết thiện – ác, việc thiện lớn thì có công nhiều,
việc thiện nhỏ thì có công ít. Việc ác lớn thì lỗi nhiều, việc ác nhỏ thì lỗi
ít. Tốt nhất là đặc ra một cái “Giá công – tội”, qui định tất cả hành vi thiện
ác đều cần phải nhớ lấy, tự mình nhớ, nhớ công việc hàng ngày của mình, cần có
tâm thường xuyên, tâm nhẫn nại và tâm quyết định, chẳng nên sợ phiền toái, hoặc
so tính! Chẳng nhớ được, như thế thì khó thành công. Phàm khởi tâm động niệm,
lời nói và việc làm các việc thiện – ác nhỏ nhặt đều nên nhớ lấy, tùy lúc tùy
chỗ mà nhớ. Mang theo bên mình một cây bút nhỏ hai ngòi, một khi có những ý
niệm, hành vi, lời nói thiện ác thì nhớ lấy, tối về lại ghi ở trên “giá công –
tội”.
thiện), cần có năng lực rõ biết thiện – ác, việc thiện lớn thì có công nhiều,
việc thiện nhỏ thì có công ít. Việc ác lớn thì lỗi nhiều, việc ác nhỏ thì lỗi
ít. Tốt nhất là đặc ra một cái “Giá công – tội”, qui định tất cả hành vi thiện
ác đều cần phải nhớ lấy, tự mình nhớ, nhớ công việc hàng ngày của mình, cần có
tâm thường xuyên, tâm nhẫn nại và tâm quyết định, chẳng nên sợ phiền toái, hoặc
so tính! Chẳng nhớ được, như thế thì khó thành công. Phàm khởi tâm động niệm,
lời nói và việc làm các việc thiện – ác nhỏ nhặt đều nên nhớ lấy, tùy lúc tùy
chỗ mà nhớ. Mang theo bên mình một cây bút nhỏ hai ngòi, một khi có những ý
niệm, hành vi, lời nói thiện ác thì nhớ lấy, tối về lại ghi ở trên “giá công –
tội”.
Lúc mới bắt đầu tu nhất định thiện và
ác xen lộn với nhau, chúng ta mỗi ngày nên nhớ lấy, lần lần thiện nhiều ác ít,
thời gian sẽ làm được “chỉ có thiện không có ác”. “Giá công – tội” một khi mở
ra đều là thiện, không có ác, chỉ cần làm được một ngày nầy, tiêu nghiệp chướng
nhất định thấy hiệu quả. Nói cách khác, một năm làm được thì một năm thấy hiệu
quả, mười năm làm được thì mười năm thấy hiệu quả.
ác xen lộn với nhau, chúng ta mỗi ngày nên nhớ lấy, lần lần thiện nhiều ác ít,
thời gian sẽ làm được “chỉ có thiện không có ác”. “Giá công – tội” một khi mở
ra đều là thiện, không có ác, chỉ cần làm được một ngày nầy, tiêu nghiệp chướng
nhất định thấy hiệu quả. Nói cách khác, một năm làm được thì một năm thấy hiệu
quả, mười năm làm được thì mười năm thấy hiệu quả.
Thời gian mới học của chúng ta, mọi
người đều giống nhau, lúc ban đầu đều rất khó, thiện và ác lộn xộn. Giá công –
tội một khi mở ra xem ta, xem ta ngày nay đã khởi bao nhiêu niệm ác hạnh ác? Đã
khởi bao nhiêu niệm thiện hạnh thiện? Trong một ngày thiện nhiều hay ác nhiều?
So sánh hàng ngày cho đến hàng năm. Nếu như mọi người có thể thật sự làm được
như thế nầy, chẳng ngoài năm năm thì có thể làm được “chỉ có thiện không có
ác”. Ở trong tâm chẳng khởi niệm thì thôi, một khi khởi niệm thì là thiện,
chẳng có ác, đến lúc nầy mà hành trì thì tự nhiên tự tại, xứng họp với tâm rất
nhiều. Có thể làm được ngay cả thiện niệm cũng đều không có, tâm không có niệm
khác, chỉ biết niệm Phật không dứt, chẳng bị loạn bỡi cảnh bên ngoài, đến lúc
nầy thì có được sự tương ứng. Tương ứng là thân tâm an tường, tự tại và vui vẻ.
người đều giống nhau, lúc ban đầu đều rất khó, thiện và ác lộn xộn. Giá công –
tội một khi mở ra xem ta, xem ta ngày nay đã khởi bao nhiêu niệm ác hạnh ác? Đã
khởi bao nhiêu niệm thiện hạnh thiện? Trong một ngày thiện nhiều hay ác nhiều?
So sánh hàng ngày cho đến hàng năm. Nếu như mọi người có thể thật sự làm được
như thế nầy, chẳng ngoài năm năm thì có thể làm được “chỉ có thiện không có
ác”. Ở trong tâm chẳng khởi niệm thì thôi, một khi khởi niệm thì là thiện,
chẳng có ác, đến lúc nầy mà hành trì thì tự nhiên tự tại, xứng họp với tâm rất
nhiều. Có thể làm được ngay cả thiện niệm cũng đều không có, tâm không có niệm
khác, chỉ biết niệm Phật không dứt, chẳng bị loạn bỡi cảnh bên ngoài, đến lúc
nầy thì có được sự tương ứng. Tương ứng là thân tâm an tường, tự tại và vui vẻ.
Chúng ta khởi tâm động niệm đều là tâm
thiện không có niệm khác, vì sao không được tương ứng ư? Thế thì tự mình phải
nên rõ biết, ứng là việc ác đã làm trong đời quá khứ, não hại chúng sinh, tội
chướng rất nặng, phải rơi vào tội báo của ba đường ác, bây giờ còn có may mắn
sửa ác tu thiện, tin theo Phật pháp tùy thời tùy chỗ mà niệm A Di Đà Phật, cho
nên trước mắt nầy người đời một chút khổ nhỏ, chính để tiêu diệt tội nặng của
ba đường ác lớn lao, cho nên phải nhẫn chịu, không được nói lời không có nhân
quả, hủy báng Phật pháp, nên biết rằng hủy báng Phật tội lỗi rất nặng! Đây là
câu “Trọng báo khinh thọ” mà trong kinh Phật thường giảng. Kinh Kim Cang dạy
rằng:
thiện không có niệm khác, vì sao không được tương ứng ư? Thế thì tự mình phải
nên rõ biết, ứng là việc ác đã làm trong đời quá khứ, não hại chúng sinh, tội
chướng rất nặng, phải rơi vào tội báo của ba đường ác, bây giờ còn có may mắn
sửa ác tu thiện, tin theo Phật pháp tùy thời tùy chỗ mà niệm A Di Đà Phật, cho
nên trước mắt nầy người đời một chút khổ nhỏ, chính để tiêu diệt tội nặng của
ba đường ác lớn lao, cho nên phải nhẫn chịu, không được nói lời không có nhân
quả, hủy báng Phật pháp, nên biết rằng hủy báng Phật tội lỗi rất nặng! Đây là
câu “Trọng báo khinh thọ” mà trong kinh Phật thường giảng. Kinh Kim Cang dạy
rằng:
“Người thiện nam, kẻ thiện nữ, thọ
trì đọc tụng kinh nầy, nếu bị người khinh chê, đó là tội nghiệp đời trước của
người, nên rơi vào đường ác, vì do đời nầy người ta khinh chê, thì tội nghiệp
đời trước tức được tiêu diệt, nên được: Vô thượng chánh đẳng chánh giác”.
trì đọc tụng kinh nầy, nếu bị người khinh chê, đó là tội nghiệp đời trước của
người, nên rơi vào đường ác, vì do đời nầy người ta khinh chê, thì tội nghiệp
đời trước tức được tiêu diệt, nên được: Vô thượng chánh đẳng chánh giác”.
Cho nên đối với đạo lý nhân quả báo ứng
cần phải tin tưởng sâu xa, chẳng được có mảy may nghi ngờ sai lệch. Đồng thời
phải nên kiểm thảo tư tưởng, hành vi của mình, và kiểm thảo câu niệm Phật, có
phải là niệm chí thành cung kính hay không? Có phải niệm tùy thời tùy chỗ, niệm
nhiều hay không? Đối với bất cứ người nào, xử sự, tiếp vật có cung kính khiêm
tốn hay không? Một mức bình đẳng, có cống cao ngã mạn hay không?
cần phải tin tưởng sâu xa, chẳng được có mảy may nghi ngờ sai lệch. Đồng thời
phải nên kiểm thảo tư tưởng, hành vi của mình, và kiểm thảo câu niệm Phật, có
phải là niệm chí thành cung kính hay không? Có phải niệm tùy thời tùy chỗ, niệm
nhiều hay không? Đối với bất cứ người nào, xử sự, tiếp vật có cung kính khiêm
tốn hay không? Một mức bình đẳng, có cống cao ngã mạn hay không?
Sửa tâm bệnh đổi tập khí (đổi ác tu
thiện), chứa nhóm công đức, nếu có thể tu tất cả thiện, lìa tất cả tướng, thì
sẽ tiêu nghiệp trừ chướng, quả báo nặng mà nhận thọ nhẹ, là công dụng hiệu quả
tốt nhất. Tốt nhất là niệm ác không sinh, ngay cả niệm thiện cũng không có, làm
được “tâm chẳng động niệm” (vô niệm), lìa tất cả tướng, tất cả chẳng chấp
trước, niệm Phật chẳng dứt, trong tâm có Phật, vãng sanh thế giới Cực Lạc là
điều chắc chắn! Đời nầy còn có khả năng được “Niệm Phật tam muội”.
thiện), chứa nhóm công đức, nếu có thể tu tất cả thiện, lìa tất cả tướng, thì
sẽ tiêu nghiệp trừ chướng, quả báo nặng mà nhận thọ nhẹ, là công dụng hiệu quả
tốt nhất. Tốt nhất là niệm ác không sinh, ngay cả niệm thiện cũng không có, làm
được “tâm chẳng động niệm” (vô niệm), lìa tất cả tướng, tất cả chẳng chấp
trước, niệm Phật chẳng dứt, trong tâm có Phật, vãng sanh thế giới Cực Lạc là
điều chắc chắn! Đời nầy còn có khả năng được “Niệm Phật tam muội”.
Chúng ta bị hủy hoại bỡi tâm bệnh từ
rất lâu xa đến nay, thì chẳng dễ dàng mau chóng có thể sửa đổi trừ bỏ. Nếu biết
rằng tâm tham và sự phẩn nộ của chúng ta đều đã rất là khốn đốn và nguy nan,
huống chi chúng ta chỉ phân tích chính mình, chuyển biến chính mình, chuyển hóa
tâm ý, nhất định cần từ từ trải qua một khoảng thời gian mới có thể thành công
được. Chỉ cần chúng ta từng bước từng bước, tự mình tiến tới, theo từng bước
nhận thức được thói quen xấu xa của mình; Đồng thời phát huy tích cực tiềm lực
tiến lên, nổ lực chẳng nên lười mỏi, thì cuối cùng sẽ đạt được cảnh giới thành
công.
rất lâu xa đến nay, thì chẳng dễ dàng mau chóng có thể sửa đổi trừ bỏ. Nếu biết
rằng tâm tham và sự phẩn nộ của chúng ta đều đã rất là khốn đốn và nguy nan,
huống chi chúng ta chỉ phân tích chính mình, chuyển biến chính mình, chuyển hóa
tâm ý, nhất định cần từ từ trải qua một khoảng thời gian mới có thể thành công
được. Chỉ cần chúng ta từng bước từng bước, tự mình tiến tới, theo từng bước
nhận thức được thói quen xấu xa của mình; Đồng thời phát huy tích cực tiềm lực
tiến lên, nổ lực chẳng nên lười mỏi, thì cuối cùng sẽ đạt được cảnh giới thành
công.
Tóm lại, người tu hành “sửa tâm bệnh
đổi tập khí”, đều do phát tâm của mình, người khác chỉ khuyên nhắc, nếu mình
không sửa đổi, thì họ cũng chẳng làm gì được cho mình, sửa đổi hay không hoàn
toàn ở chính mình.
đổi tập khí”, đều do phát tâm của mình, người khác chỉ khuyên nhắc, nếu mình
không sửa đổi, thì họ cũng chẳng làm gì được cho mình, sửa đổi hay không hoàn
toàn ở chính mình.
· CẨN THẬN RIÊNG MÌNH:
Người ta phàm có những việc tạo tác và
hành vi, khởi tâm động niệm, Phật, Bồ tát cho đến quỉ thần, không có việc gì là
chẳng thấy hết biết hết, nếu lúc dấy lên tư tưởng như thế, thì tự không dám tạo
tác hồ đồ và hành vi cuồng vọng.
hành vi, khởi tâm động niệm, Phật, Bồ tát cho đến quỉ thần, không có việc gì là
chẳng thấy hết biết hết, nếu lúc dấy lên tư tưởng như thế, thì tự không dám tạo
tác hồ đồ và hành vi cuồng vọng.
· TÂM TRỐNG RỖNG:
Người thường chẳng hiểu thiện – ác,
chẳng sợ nhân quả, quyết không chịu nhận mình có lỗi, thì nói gì đến việc cải
đổi? Nhưng Thánh Hiền ngày xưa thì không phải vậy. Nay đưa ra một ví dụ, Đức
Khổng Tử nói rằng: “Năm mươi vì tuổi còn dùng cái học để sửa trị, cho nên không
lỗi lớn”.
chẳng sợ nhân quả, quyết không chịu nhận mình có lỗi, thì nói gì đến việc cải
đổi? Nhưng Thánh Hiền ngày xưa thì không phải vậy. Nay đưa ra một ví dụ, Đức
Khổng Tử nói rằng: “Năm mươi vì tuổi còn dùng cái học để sửa trị, cho nên không
lỗi lớn”.
· SUY XÉT:
Đã vậy rồi, tức cần phải thường suy
xét, từng lời nói từng việc làm, là thiện ư? là ác ư? Nếu đó là ác thì phải cố
gắng mà sửa đổi, ngoài việc từng giờ chú ý sửa lỗi ra, lại ở mỗi ngày trước lúc
sắp ngủ, bèn đem việc đã làm một ngày mà suy nghĩ thật rõ ràng.
xét, từng lời nói từng việc làm, là thiện ư? là ác ư? Nếu đó là ác thì phải cố
gắng mà sửa đổi, ngoài việc từng giờ chú ý sửa lỗi ra, lại ở mỗi ngày trước lúc
sắp ngủ, bèn đem việc đã làm một ngày mà suy nghĩ thật rõ ràng.
· SỬA ĐỔI:
Sau khi suy xét, nếu biết là lỗi tức
thì ra sức sửa đổi, chư vị nên biết rằng việc sửa lỗi bèn là quan minh lỗi lạc
mười phần, đủ để biểu thị nhân cách vĩ đại. Người xưa nói rằng: “Lỗi mà có
thể biết là MINH, biết mà có thể sửa đổi tức là THÁNH”. Vì vậy có thể nào
mà chẳng cố gắng ư! Việc sửa lỗi nói thì dễ mà làm thì khó, cho nên càng sửa
càng phạm, tự mình chưa có thể mạnh mẽ làm chủ được, thật ra do thói quen huân
tập của ngày trước từ vô thỉ đem đến, thế nên mong rằng mọi người thường nên
niệm Phật để gia trì, chí tâm chí kính khẩn thiết mà sám hối nghiệp đời trước
từ vô thỉ, trong mờ mịt tự có sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Nương nơi lực Từ
bi của Phật gia bị, nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ sáng, thì việc sửa đổi lỗi lầm ngõ
hầu có thể viên mãn thành tựu, đời hiện tại bước vào cõi Thánh Hiền, lúc mạng
chung vãng sanh Cực Lạc, đây có thể là sự tính toán trước của chư vị vậy.
thì ra sức sửa đổi, chư vị nên biết rằng việc sửa lỗi bèn là quan minh lỗi lạc
mười phần, đủ để biểu thị nhân cách vĩ đại. Người xưa nói rằng: “Lỗi mà có
thể biết là MINH, biết mà có thể sửa đổi tức là THÁNH”. Vì vậy có thể nào
mà chẳng cố gắng ư! Việc sửa lỗi nói thì dễ mà làm thì khó, cho nên càng sửa
càng phạm, tự mình chưa có thể mạnh mẽ làm chủ được, thật ra do thói quen huân
tập của ngày trước từ vô thỉ đem đến, thế nên mong rằng mọi người thường nên
niệm Phật để gia trì, chí tâm chí kính khẩn thiết mà sám hối nghiệp đời trước
từ vô thỉ, trong mờ mịt tự có sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Nương nơi lực Từ
bi của Phật gia bị, nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ sáng, thì việc sửa đổi lỗi lầm ngõ
hầu có thể viên mãn thành tựu, đời hiện tại bước vào cõi Thánh Hiền, lúc mạng
chung vãng sanh Cực Lạc, đây có thể là sự tính toán trước của chư vị vậy.
· CHỊU THUA THIỆT:
Người xưa nói rằng:
“Ta không biết những gì là Quân Tử,
chỉ nhìn ở ngay sự chịu thua thiệt từng công việc; Ta không nhận thức được
những gì là Tiểu nhân, chỉ xem ngay nơi những tiện nghi mà họ chiếm giữ ở nơi
công việc”.
chỉ nhìn ở ngay sự chịu thua thiệt từng công việc; Ta không nhận thức được
những gì là Tiểu nhân, chỉ xem ngay nơi những tiện nghi mà họ chiếm giữ ở nơi
công việc”.
Không biện bạch khi nghe hủy báng,
người xưa nói rằng: “Làm sao dứt được sự hủy báng? – Đáp rằng: Không biện
bạch”. Lại nói rằng: “Nuốt chịu sự thua thiệt nhỏ, thì không đến nỗi
nuốt chịu sự thua thiệt lớn”.
người xưa nói rằng: “Làm sao dứt được sự hủy báng? – Đáp rằng: Không biện
bạch”. Lại nói rằng: “Nuốt chịu sự thua thiệt nhỏ, thì không đến nỗi
nuốt chịu sự thua thiệt lớn”.
· KHÔNG TRANH CHẤP:
“Tranh”, là cái nhân nuôi dưỡng sự tổn
thương và có hại. Tranh danh, tranh lợi, việc lớn tranh, việc nhỏ cũng tranh.
Chỉ cần có tranh chấp thì sẽ có phân ra cao thấp, chia thành mạnh yếu, có niệm
được mất, sẽ khó lấy khó bỏ, do tranh mà quay mặt thành cừu thù, vì sao vậy?
Chỉ vì tâm riêng tư, vì sỉ diện, sẵn sàng tranh cho được, cả hai đều bại, đều
tổn thương, thậm chí mất mạng ở chốn suối vàng. Người chẳng tranh chấp mới có
thể nhìn rõ sự thật; Đã tranh chấp thì loạn, đã loạn thì phạm lỗi, phạm thì
thất bại. Con người thường thường rất là chấp trước mà sinh ra tâm phân biệt.
Là anh, là tôi, phân biệt rất rõ ràng, đến nỗi liều mạng cho sự yêu thích của
ta mà đi tranh chấp cầu mong, tranh cái tốt, tranh cho nhiều, mạnh hơn người;
Tâm tranh chấp một khi khởi lên, thế nào là nhân tình, hữu nghị, công lý, chánh
nghĩa đều quên hết! Con người phần lớn tâm danh – lợi rất nhiều, còn có tâm háo
thắng, tranh chấp với người, tranh chấp với công việc. Nếu như không tranh chấp
với người thì người an, không tranh chấp với công việc thì việc an, người và
công việc nếu mà ta không tranh thì thế giới bình an. Thà có thể chịu một chút
thua thiệt, chẳng chiếm lấy sự tiện nghi, thì sẽ không có sự tranh chấp.
thương và có hại. Tranh danh, tranh lợi, việc lớn tranh, việc nhỏ cũng tranh.
Chỉ cần có tranh chấp thì sẽ có phân ra cao thấp, chia thành mạnh yếu, có niệm
được mất, sẽ khó lấy khó bỏ, do tranh mà quay mặt thành cừu thù, vì sao vậy?
Chỉ vì tâm riêng tư, vì sỉ diện, sẵn sàng tranh cho được, cả hai đều bại, đều
tổn thương, thậm chí mất mạng ở chốn suối vàng. Người chẳng tranh chấp mới có
thể nhìn rõ sự thật; Đã tranh chấp thì loạn, đã loạn thì phạm lỗi, phạm thì
thất bại. Con người thường thường rất là chấp trước mà sinh ra tâm phân biệt.
Là anh, là tôi, phân biệt rất rõ ràng, đến nỗi liều mạng cho sự yêu thích của
ta mà đi tranh chấp cầu mong, tranh cái tốt, tranh cho nhiều, mạnh hơn người;
Tâm tranh chấp một khi khởi lên, thế nào là nhân tình, hữu nghị, công lý, chánh
nghĩa đều quên hết! Con người phần lớn tâm danh – lợi rất nhiều, còn có tâm háo
thắng, tranh chấp với người, tranh chấp với công việc. Nếu như không tranh chấp
với người thì người an, không tranh chấp với công việc thì việc an, người và
công việc nếu mà ta không tranh thì thế giới bình an. Thà có thể chịu một chút
thua thiệt, chẳng chiếm lấy sự tiện nghi, thì sẽ không có sự tranh chấp.
Như đời nhà Thanh có một vị đại quan,
nhận được một lá thư nhà của con cái dưới quê gởi lên, nhân vì sự phân chia
ranh giới những người ở trong nhà mà xảy ra việc tranh chấp, cả hai bên không
chịu nhường nhau nên tranh chấp mãi, mấy lần động đến võ lực, con cái muốn dựa
vào quyền thế chức vị con của quan để mà tranh lấy thể diện, nhưng vị quan nầy
là vị quan lớn có sự tu dưỡng đạo đức, ông ta sau khi đọc xong thư mĩm cười,
rồi ghi vào đầu thư trả lời cho con cái – thư viết rằng: “Ngàn dặm gởi thư
chỉ vì tướng, ngại gì ba tấc chẳng chịu nhường, trường thành còn đó dài vạn
dặm, giờ đây chẳng thấy Tần Thủy Hoàng”. Có thể xem ra thì không có gì tốt
đẹp cho việc tranh chấp cả. Trong truyện Tế Công cũng có hai câu: “Dẫu có ôm
giữ ngàn gian nhà, một thân khó nằm được hai giường”.
nhận được một lá thư nhà của con cái dưới quê gởi lên, nhân vì sự phân chia
ranh giới những người ở trong nhà mà xảy ra việc tranh chấp, cả hai bên không
chịu nhường nhau nên tranh chấp mãi, mấy lần động đến võ lực, con cái muốn dựa
vào quyền thế chức vị con của quan để mà tranh lấy thể diện, nhưng vị quan nầy
là vị quan lớn có sự tu dưỡng đạo đức, ông ta sau khi đọc xong thư mĩm cười,
rồi ghi vào đầu thư trả lời cho con cái – thư viết rằng: “Ngàn dặm gởi thư
chỉ vì tướng, ngại gì ba tấc chẳng chịu nhường, trường thành còn đó dài vạn
dặm, giờ đây chẳng thấy Tần Thủy Hoàng”. Có thể xem ra thì không có gì tốt
đẹp cho việc tranh chấp cả. Trong truyện Tế Công cũng có hai câu: “Dẫu có ôm
giữ ngàn gian nhà, một thân khó nằm được hai giường”.
· KHÔNG OÁN HẬN:
Oán hận là biển khổ, sẽ nhìn kiểu nầy
không đúng, kiểu kia không tốt, oán trời trách người, sinh tức giận; Thọ điều
uẩn khúc, nhận lấy thiệt thòi, các việc không như ý thì sinh tâm hận, càng nghĩ
càng tức, đến nỗi không chuốt lấy họa thì cũng sinh bệnh; Khí oán hận có độc,
tích chứa nhiều thì sẽ thương tổn nơi thân. Xem ra thì chẳng nên oán, khoang
dung thì chẳng chuốt hận. Nếu gặp việc ngược lại, thì nên nhận thức rằng bỡi do
kiếp trước chẳng chịu trồng nhân thiện, đời nầy mới bị quả báo ác, coi nó là
quả báo oán, thọ nhân một cách vui mừng rồi sẽ qua đi; Nếu như thọ rồi, mà
trong tâm bất mãn, muốn trả báo phục thù, thì lần kia lần nầy qua rồi, lần sau
sẽ lại đến.
không đúng, kiểu kia không tốt, oán trời trách người, sinh tức giận; Thọ điều
uẩn khúc, nhận lấy thiệt thòi, các việc không như ý thì sinh tâm hận, càng nghĩ
càng tức, đến nỗi không chuốt lấy họa thì cũng sinh bệnh; Khí oán hận có độc,
tích chứa nhiều thì sẽ thương tổn nơi thân. Xem ra thì chẳng nên oán, khoang
dung thì chẳng chuốt hận. Nếu gặp việc ngược lại, thì nên nhận thức rằng bỡi do
kiếp trước chẳng chịu trồng nhân thiện, đời nầy mới bị quả báo ác, coi nó là
quả báo oán, thọ nhân một cách vui mừng rồi sẽ qua đi; Nếu như thọ rồi, mà
trong tâm bất mãn, muốn trả báo phục thù, thì lần kia lần nầy qua rồi, lần sau
sẽ lại đến.
Phàm là người đối với ai đã từng chưởi
ta, trêu chọc ta, đánh ta, thì canh cánh ở trong lòng, nỗi oán hận đó sẽ mãi
mãi không có một ngày bình yên dừng dứt. Nỗi oán hận trong tâm con người không
thể nhân vì đem ra oán hận người khác mà được bình yên và dừng nghỉ, duy chỉ có
quên bỏ đi oán hận, thì nỗi oán hận mới có thể bình yên và dừng nghỉ.
ta, trêu chọc ta, đánh ta, thì canh cánh ở trong lòng, nỗi oán hận đó sẽ mãi
mãi không có một ngày bình yên dừng dứt. Nỗi oán hận trong tâm con người không
thể nhân vì đem ra oán hận người khác mà được bình yên và dừng nghỉ, duy chỉ có
quên bỏ đi oán hận, thì nỗi oán hận mới có thể bình yên và dừng nghỉ.
· KHÔNG SO SÁNH VỚI NHÀ NGƯỜI KHÁC:
Hoàn cảnh gặp phải ở mỗi người không
đồng, thể chất trí tuệ ở mỗi người mỗi khác, nếu muốn được thông, thì không có
cái gì tốt so sánh cả. Tự mình kiếm được cái gì, ăn gì, mặc gì nếu thua nhà
người khác thì không thể diện! Bỡi vì thể diện mà ra sức so sánh với người ta,
thì sẽ không vãng sanh được Cực Lạc, vì sao vậy? Bỡi vì anh muốn so ra tốt hơn
người ta, tận lực bận rộn ở việc thế tục, thế thì có lòng dạ nào để tu hành!
đồng, thể chất trí tuệ ở mỗi người mỗi khác, nếu muốn được thông, thì không có
cái gì tốt so sánh cả. Tự mình kiếm được cái gì, ăn gì, mặc gì nếu thua nhà
người khác thì không thể diện! Bỡi vì thể diện mà ra sức so sánh với người ta,
thì sẽ không vãng sanh được Cực Lạc, vì sao vậy? Bỡi vì anh muốn so ra tốt hơn
người ta, tận lực bận rộn ở việc thế tục, thế thì có lòng dạ nào để tu hành!
· CHẲNG ĐỐ KỴ:
Người đố kỵ ganh ghét chẳng thấy được
thành công của người khác, hoặc việc tốt hơn của người khác; Chỉ cần người nào
đó tốt hơn anh ta, mạnh hơn anh ta, thì anh ta ghét hận xốn mắt gay lòng, thế
là chọn lấy những thủ đoạn: làm tổn thương, phá hoại, bài xích, phản kháng, hủy
diệt… chỉ có anh ta mới tốt hơn, mạnh hơn người khác; Còn nếu người khác tốt
hơn, mạnh hơn anh ta, thì không thích, không vui; Đây là không có tâm Từ bi.
thành công của người khác, hoặc việc tốt hơn của người khác; Chỉ cần người nào
đó tốt hơn anh ta, mạnh hơn anh ta, thì anh ta ghét hận xốn mắt gay lòng, thế
là chọn lấy những thủ đoạn: làm tổn thương, phá hoại, bài xích, phản kháng, hủy
diệt… chỉ có anh ta mới tốt hơn, mạnh hơn người khác; Còn nếu người khác tốt
hơn, mạnh hơn anh ta, thì không thích, không vui; Đây là không có tâm Từ bi.
· KHÔNG HỐI HẬN:
Vì sao phải làm kiểu nầy ư? Làm như thế
thì chẳng tốt sao? Tự oán tự trừng trị, theo niềm hối hận mà áo não, tự trách,
sai lầm lại càng sai lầm, hối hận không giúp gì được cho công việc. Nên tìm
biện pháp sửa đổi lỗi lầm, hoặc là lần sau chẳng làm như thế nầy thì tốt, xem
ra mọi người đều là Bồ Tát, ta là phàm phu, làm việc khó tránh khỏi không có
lỗi lầm, đã lỗi thì nên SÁM HỐI mà sửa đổi, tâm sẽ được an. Cho nên chỉ đóng
khung trong sự hối hận, thì đối với sự việc có giúp ích gì đâu?
thì chẳng tốt sao? Tự oán tự trừng trị, theo niềm hối hận mà áo não, tự trách,
sai lầm lại càng sai lầm, hối hận không giúp gì được cho công việc. Nên tìm
biện pháp sửa đổi lỗi lầm, hoặc là lần sau chẳng làm như thế nầy thì tốt, xem
ra mọi người đều là Bồ Tát, ta là phàm phu, làm việc khó tránh khỏi không có
lỗi lầm, đã lỗi thì nên SÁM HỐI mà sửa đổi, tâm sẽ được an. Cho nên chỉ đóng
khung trong sự hối hận, thì đối với sự việc có giúp ích gì đâu?
· KHÔNG NGHI NGỜ:
Hoài nghi đối với chân lý, đối với
chính mình cũng hoài nghi, mỗi một việc đều hoài nghi. Đã có tâm nghi thì không
thể tin chân chánh, sẽ trở ngại cho sự nghiệp của mình không thể thành công, là
gốc rễ trở ngại trên còn đường tiến vào Phật đạo.
chính mình cũng hoài nghi, mỗi một việc đều hoài nghi. Đã có tâm nghi thì không
thể tin chân chánh, sẽ trở ngại cho sự nghiệp của mình không thể thành công, là
gốc rễ trở ngại trên còn đường tiến vào Phật đạo.
· THA THỨ:
Tha thứ, không riêng gì lỗi lầm được
người khoang thứ, mà ngược lại đem lỗi lầm nầy tự xét lấy, bỡi vì Phật pháp chú
trọng nhân quả, ví dụ người ta mắc tội với anh, mà anh nhất định cần phải báo
phục, việc gì cũng quyết báo, thì “oan oan tương báo” đến bao giờ dứt? Cho nên
việc có thể tha thứ thì tha thứ, chẳng nên đắc lý mà chẳng tha người, có thể
tha thứ người thì vui vẻ không dứt. Tha thứ người, những phương tiện đối với
mình, tâm không trở ngại, không còn tồn tại tâm báo phục, tâm tự nhiên được
rỗng rang, được tự tại nhiều, vui sao chẳng làm!? Huống nữa người ta mắc tội
với anh, dẫu cho có báo phục được, thì đối với những tổn thất trước kia cũng
chẳng nên đòi lại, song thì tội khổ gì mà lại trồng lấy oán cừu. Nếu người khác
mắc tội với ta, không những chẳng quở trách họ, mà còn phải cảm ơn họ, là đời
trước của ta đối với họ không tốt, nên đời nầy họ đến đòi nợ, trả được cho
người ta thì sự kết oán được giải trừ.
người khoang thứ, mà ngược lại đem lỗi lầm nầy tự xét lấy, bỡi vì Phật pháp chú
trọng nhân quả, ví dụ người ta mắc tội với anh, mà anh nhất định cần phải báo
phục, việc gì cũng quyết báo, thì “oan oan tương báo” đến bao giờ dứt? Cho nên
việc có thể tha thứ thì tha thứ, chẳng nên đắc lý mà chẳng tha người, có thể
tha thứ người thì vui vẻ không dứt. Tha thứ người, những phương tiện đối với
mình, tâm không trở ngại, không còn tồn tại tâm báo phục, tâm tự nhiên được
rỗng rang, được tự tại nhiều, vui sao chẳng làm!? Huống nữa người ta mắc tội
với anh, dẫu cho có báo phục được, thì đối với những tổn thất trước kia cũng
chẳng nên đòi lại, song thì tội khổ gì mà lại trồng lấy oán cừu. Nếu người khác
mắc tội với ta, không những chẳng quở trách họ, mà còn phải cảm ơn họ, là đời
trước của ta đối với họ không tốt, nên đời nầy họ đến đòi nợ, trả được cho
người ta thì sự kết oán được giải trừ.
· KHÔNG CHỖ MONG CẦU:
Học Phật tu hành cần đạt được tâm cảnh
“không chỗ mong cầu”. Như bố thí, là vì tu được tâm thanh tịnh; Nếu như bố thí
là vì tiêu trừ nghiệp chướng hay là làm công đức, thì đó là “có chỗ mong cầu”.
“không chỗ mong cầu”. Như bố thí, là vì tu được tâm thanh tịnh; Nếu như bố thí
là vì tiêu trừ nghiệp chướng hay là làm công đức, thì đó là “có chỗ mong cầu”.
· CẢNH MỘNG VÀ HIỆN THỰC:
Cái thấy ở trong mộng và cái gặp ở lúc
thức, đồng là một loại cảnh huyễn; Đời người đi qua, đâu từng chẳng là một loại
cảnh mộng ư? Vấn đề là ở nơi người đời khởi tâm phân biệt. Nếu tâm chẳng trụ,
thì chơn hay giả, có gì phân rõ đâu? Việc quá khứ ngày nay lục lọi để nhớ, đâu
từng chẳng phải là cảnh mộng? Ngày trước giàu có vinh hoa, ngày nay liền nghèo
khó như tẩy rửa, lại đâu từng chẳng phải là một cuộc mộng Nam Kha? Đó là vì
chơn giả giả chơn, thật ra là ở tâm của con người khiến vậy. Đức Phật nói rằng:
“Ba tâm chẳng trụ, tánh vẫn như như”. Thế nào gọi là ba tâm? – Việc quá khứ,
không khởi tâm nhớ tưởng phân biệt; – Việc hiện tại, không khởi tâm niệm tha
thiết mong cầu; – Việc vị lai, không khởi tâm tưởng vin vào duyên. Đó là ba tâm
an trụ, ngược lại là ba tâm chẳng trụ, vì người ôm ấp rõ ràng như thế.
thức, đồng là một loại cảnh huyễn; Đời người đi qua, đâu từng chẳng là một loại
cảnh mộng ư? Vấn đề là ở nơi người đời khởi tâm phân biệt. Nếu tâm chẳng trụ,
thì chơn hay giả, có gì phân rõ đâu? Việc quá khứ ngày nay lục lọi để nhớ, đâu
từng chẳng phải là cảnh mộng? Ngày trước giàu có vinh hoa, ngày nay liền nghèo
khó như tẩy rửa, lại đâu từng chẳng phải là một cuộc mộng Nam Kha? Đó là vì
chơn giả giả chơn, thật ra là ở tâm của con người khiến vậy. Đức Phật nói rằng:
“Ba tâm chẳng trụ, tánh vẫn như như”. Thế nào gọi là ba tâm? – Việc quá khứ,
không khởi tâm nhớ tưởng phân biệt; – Việc hiện tại, không khởi tâm niệm tha
thiết mong cầu; – Việc vị lai, không khởi tâm tưởng vin vào duyên. Đó là ba tâm
an trụ, ngược lại là ba tâm chẳng trụ, vì người ôm ấp rõ ràng như thế.
· NHÂN DUYÊN PHIỀN NÃO:
Ban đầu của người đời vốn là rỗng rang
thơ thới, không chỗ mong cầu. Nhưng khi khởi tâm phân biệt, liền sinh ra rất
nhiều mầm rễ phiền não. Ví như giàu có và nghèo nàn, đều là do tâm phân biệt
của con người làm ra, nếu không có “sự tham đắm” giàu có thì nghèo cũng vui,
nếu không có “sự phân biệt” cái quí, thì cái hèn cũng chẳng biết, làm sao có
phiền não, nếu có thể xét thấu được muôn tướng là một lý, sự mong muốn sẽ tự
tiêu diệt, thì phiền não làm sao đến được.
thơ thới, không chỗ mong cầu. Nhưng khi khởi tâm phân biệt, liền sinh ra rất
nhiều mầm rễ phiền não. Ví như giàu có và nghèo nàn, đều là do tâm phân biệt
của con người làm ra, nếu không có “sự tham đắm” giàu có thì nghèo cũng vui,
nếu không có “sự phân biệt” cái quí, thì cái hèn cũng chẳng biết, làm sao có
phiền não, nếu có thể xét thấu được muôn tướng là một lý, sự mong muốn sẽ tự
tiêu diệt, thì phiền não làm sao đến được.
· MUỐI:
Phật Giáo đồ nên có tinh thần giống như
“Muối”, độ lượng giống như “Muối”, một lòng giúp người mà chẳng cầu danh. Muối
là một vật, mà hết thảy mọi người đều biết nó là vật phẩm phổ thông thấp hèn
không gì đáng nói; Nhưng nếu đem công sức của muối mà nói, thì có sự quan hệ
nặng nhẹ trong vấn đề đưa ra: Muối có thể ngăn ngừa được sự thối rữa, lại có
thể điều chỉnh được vị, đồ ăn ngon trăm vị đều gọi muối là bực trên, nếu không
có sự điều chỉnh vị của muối, thì chắc chắn nhạt nhẽo mà lại thiếu vị, đủ thấy
rằng sức lực của muối có thể nghĩ biết. Chỉ duy ở nơi sau những bàn tiệc thịnh
soạn mỗi người thưởng thức xong, chỉ ra sức khen món nầy quí, món kia ngon, còn
đối với muối – công đầu to lớn – thì nửa chữ cũng không được nêu lên, thật
khiến cho người làm muối chẳng có giá trị gì cả. Mà muối thì “công” lại thành
mà “thân” lại thối lui, đây cũng tức là sự trân trọng về muối khiến cho người
ta khâm phục, địa vị tuy thấp hèn không đáng để nói, mà công sức thì đứng ở bực
trên.
“Muối”, độ lượng giống như “Muối”, một lòng giúp người mà chẳng cầu danh. Muối
là một vật, mà hết thảy mọi người đều biết nó là vật phẩm phổ thông thấp hèn
không gì đáng nói; Nhưng nếu đem công sức của muối mà nói, thì có sự quan hệ
nặng nhẹ trong vấn đề đưa ra: Muối có thể ngăn ngừa được sự thối rữa, lại có
thể điều chỉnh được vị, đồ ăn ngon trăm vị đều gọi muối là bực trên, nếu không
có sự điều chỉnh vị của muối, thì chắc chắn nhạt nhẽo mà lại thiếu vị, đủ thấy
rằng sức lực của muối có thể nghĩ biết. Chỉ duy ở nơi sau những bàn tiệc thịnh
soạn mỗi người thưởng thức xong, chỉ ra sức khen món nầy quí, món kia ngon, còn
đối với muối – công đầu to lớn – thì nửa chữ cũng không được nêu lên, thật
khiến cho người làm muối chẳng có giá trị gì cả. Mà muối thì “công” lại thành
mà “thân” lại thối lui, đây cũng tức là sự trân trọng về muối khiến cho người
ta khâm phục, địa vị tuy thấp hèn không đáng để nói, mà công sức thì đứng ở bực
trên.
Lại nói rằng: Như vậy thì học như thế
nào? Vả lại quán sát tiền thân của muối, muối là nước biển, nhân tánh của nước
nhu hòa, bằng phẳng không góc cạnh, không phải thể cứng nhắc, để trong vật tròn
thì tròn, để trong vật vuông thì vuông, ở trong biển lớn cũng chỉ dung thân, để
trong vò trong bình cũng yên như vậy… làm người cũng nên như vậy.
nào? Vả lại quán sát tiền thân của muối, muối là nước biển, nhân tánh của nước
nhu hòa, bằng phẳng không góc cạnh, không phải thể cứng nhắc, để trong vật tròn
thì tròn, để trong vật vuông thì vuông, ở trong biển lớn cũng chỉ dung thân, để
trong vò trong bình cũng yên như vậy… làm người cũng nên như vậy.
· LÀM NGƯỜI, LÀM VIỆC:
Tâm người xưa nay bình thường nhạt
nhạt, nếu như gặp dính mắc với sự hấp dẫn của vật bên ngoài liền nổi sóng, khởi
lặng không nhất định, phiền não theo đó mà dẫn đến. Cho nên làm người gặp lúc
tâm nổi sóng nhỏ, liền cần phải ra sức ức chế làn sóng suy nghĩ của mình, ngăn
chặn ham muốn của mình, cho nên công việc làm người quyết nên tùy thời khống
chế tâm mình, chẳng nên để người khác nổi sóng, cuộc sống cũng nên tùy thời mà
kiểm thảo. Làm việc trước tiên phải từ góc độ xấu mà suy tưởng, ngược lại không
nên từ góc độ tốt mà nhìn, như thế lại yên ổn đáng để dựa nương. Giả sử xử một
việc gì, nếu từ phương diện tốt mà nhìn, nhất định không nhìn thấy tất cả, đáo
đầu lại là một thất bại, lại không có gì, thất vọng càng sâu; Nếu trước tiên từ
phương diện xấu mà nhìn, dẫu cho mất đi cũng chẳng đến nỗi thất vọng. Làm
người, làm việc thế nầy chẳng thể chẳng biết.
nhạt, nếu như gặp dính mắc với sự hấp dẫn của vật bên ngoài liền nổi sóng, khởi
lặng không nhất định, phiền não theo đó mà dẫn đến. Cho nên làm người gặp lúc
tâm nổi sóng nhỏ, liền cần phải ra sức ức chế làn sóng suy nghĩ của mình, ngăn
chặn ham muốn của mình, cho nên công việc làm người quyết nên tùy thời khống
chế tâm mình, chẳng nên để người khác nổi sóng, cuộc sống cũng nên tùy thời mà
kiểm thảo. Làm việc trước tiên phải từ góc độ xấu mà suy tưởng, ngược lại không
nên từ góc độ tốt mà nhìn, như thế lại yên ổn đáng để dựa nương. Giả sử xử một
việc gì, nếu từ phương diện tốt mà nhìn, nhất định không nhìn thấy tất cả, đáo
đầu lại là một thất bại, lại không có gì, thất vọng càng sâu; Nếu trước tiên từ
phương diện xấu mà nhìn, dẫu cho mất đi cũng chẳng đến nỗi thất vọng. Làm
người, làm việc thế nầy chẳng thể chẳng biết.
· KHOẢNG CÁCH NHÂN – NGÃ:
Người tức là ta, ta tức là người, người
và ta không khác biệt. Kỳ thật thế nào là công danh, thế nào là phú quí, đều là
giả tướng, hà tất tranh giành? Sao lại khởi niệm nhân – ngã? Có chỗ nói rằng: “Ngủ
đến nửa đêm, cái gì là công danh đều là bóng huyễn, nghĩ sau trăm năm, không
luận già trẻ, đều là người xưa!”; Bình tâm tịnh khí nghĩ thử xem. Nếu anh
lấy “ta” làm “người”, thì đối phương rất là thân thiết đối với anh ta, lấy
“người” làm “ta”, thì làm việc chắc chắn được người kính trọng. Cho nên ranh
giới “Nhân – Ngã” cần phải đả phá.
và ta không khác biệt. Kỳ thật thế nào là công danh, thế nào là phú quí, đều là
giả tướng, hà tất tranh giành? Sao lại khởi niệm nhân – ngã? Có chỗ nói rằng: “Ngủ
đến nửa đêm, cái gì là công danh đều là bóng huyễn, nghĩ sau trăm năm, không
luận già trẻ, đều là người xưa!”; Bình tâm tịnh khí nghĩ thử xem. Nếu anh
lấy “ta” làm “người”, thì đối phương rất là thân thiết đối với anh ta, lấy
“người” làm “ta”, thì làm việc chắc chắn được người kính trọng. Cho nên ranh
giới “Nhân – Ngã” cần phải đả phá.
Làm người cần phải giữ bổn phận, mỗi
việc đều hết phận mình, làm gì thì giống nấy, làm cha phải ra cha, làm con phải
ra con. Kính để mà xử sự. Thành để mà đối đãi với người. Lề luật cho mình cần
phải nghiêm, đối đãi với người cần phải khoang dung, từ ái, hiền lành, nhan sắc
hòa vui, nêu tình thân thiết, phong độ nhún nhường.
việc đều hết phận mình, làm gì thì giống nấy, làm cha phải ra cha, làm con phải
ra con. Kính để mà xử sự. Thành để mà đối đãi với người. Lề luật cho mình cần
phải nghiêm, đối đãi với người cần phải khoang dung, từ ái, hiền lành, nhan sắc
hòa vui, nêu tình thân thiết, phong độ nhún nhường.
Công tác cần gánh vát hết chức trách,
kính hòa vui vẻ với mọi người, tài nhiều dùng ít, việc đảm nhiệm thoải mái, tài
ít mà dùng nhiều, lại không thể đeo đuổi mục tiêu cao xa.
kính hòa vui vẻ với mọi người, tài nhiều dùng ít, việc đảm nhiệm thoải mái, tài
ít mà dùng nhiều, lại không thể đeo đuổi mục tiêu cao xa.
· THƯỜNG LAO ĐỘNG:
Công việc không nên phân ra cao quí hay
thấp hèn, những việc nầy làm, những việc kia không làm, chẳng nên làm kẻ cả cần
người đến hầu hạ, những việc người khác không muốn làm, như quét dọn lau chùi,
ta đến làm, như không lao nhọc, làm nhiều một chút lại ngại gì, công việc nhọc
về sức lực, vừa làm vừa niệm Phật, công việc làm xong, Phật cũng niệm xong, sao
vui mà chẳng làm! Không nên là có những công việc nầy không họp với thân phận
của ta, ta nghĩ chẳng thể làm; mà công việc đã làm thì thân thể khỏe mạnh, tức
là được phước báo.
thấp hèn, những việc nầy làm, những việc kia không làm, chẳng nên làm kẻ cả cần
người đến hầu hạ, những việc người khác không muốn làm, như quét dọn lau chùi,
ta đến làm, như không lao nhọc, làm nhiều một chút lại ngại gì, công việc nhọc
về sức lực, vừa làm vừa niệm Phật, công việc làm xong, Phật cũng niệm xong, sao
vui mà chẳng làm! Không nên là có những công việc nầy không họp với thân phận
của ta, ta nghĩ chẳng thể làm; mà công việc đã làm thì thân thể khỏe mạnh, tức
là được phước báo.
· TIẾC VẬT, TIẾC PHƯỚC, CHẲNG BỎ
PHƯỚC:
PHƯỚC:
Trong cách ngôn “Chu Tử trị gia” nói
rằng: “Chút cháo chút cơm nên nghĩ chỗ đem đến chẳng phải dễ, cọng tơ đoạn
chỉ thường nhớ sức của vật khó khăn”. Bình thường hàng ngày chỉ cần mặc kín
ăn no là đủ rồi, chẳng nên lại tham cầu không nhàm chán, xa xỉ lãng phí, quá
dính mắc cuộc sống say bạc mê vàng.
rằng: “Chút cháo chút cơm nên nghĩ chỗ đem đến chẳng phải dễ, cọng tơ đoạn
chỉ thường nhớ sức của vật khó khăn”. Bình thường hàng ngày chỉ cần mặc kín
ăn no là đủ rồi, chẳng nên lại tham cầu không nhàm chán, xa xỉ lãng phí, quá
dính mắc cuộc sống say bạc mê vàng.
Đồ có thể ăn chẳng nên vứt bỏ, đồ có
thể dùng chẳng nên xử lý như rác rưởi. Đồ ăn, ăn bao nhiêu thì nấu bấy nhiêu, hoặc
mua bấy nhiêu, không nên nấu nhiều hoặc mua nhiều, ăn không hết thì lại vứt bỏ.
Đồ mặc, mặc đồ chẳng được vài lần hoặc chút ít không được lưu hành (lỗi thời)
thì xử lý như đồ rác rưởi. Đồ vật còn có thể dùng được không nên chê cũ mà vứt
bỏ để mua cái mới… đều tức là không tiếc vật, không tiếc vật tức là không
tiếc phước. Chẳng nên cho là ăn mặc của hiện tại đều là dùng tiền của mình để
mua, tiền của ta nhiều, cần tiêu gì thì tiêu, nên biết PHƯỚC của con người là
phước có hạn lượng, mà anh lãng phí chà đạp một cách không hạn lượng, thế thì
phước của chúng ta hưởng dùng hết rồi, đáo đầu lại là lúc bần cùng thiếu thốn,
hưởng thọ cuộc sống sẽ không tốt đẹp được.
thể dùng chẳng nên xử lý như rác rưởi. Đồ ăn, ăn bao nhiêu thì nấu bấy nhiêu, hoặc
mua bấy nhiêu, không nên nấu nhiều hoặc mua nhiều, ăn không hết thì lại vứt bỏ.
Đồ mặc, mặc đồ chẳng được vài lần hoặc chút ít không được lưu hành (lỗi thời)
thì xử lý như đồ rác rưởi. Đồ vật còn có thể dùng được không nên chê cũ mà vứt
bỏ để mua cái mới… đều tức là không tiếc vật, không tiếc vật tức là không
tiếc phước. Chẳng nên cho là ăn mặc của hiện tại đều là dùng tiền của mình để
mua, tiền của ta nhiều, cần tiêu gì thì tiêu, nên biết PHƯỚC của con người là
phước có hạn lượng, mà anh lãng phí chà đạp một cách không hạn lượng, thế thì
phước của chúng ta hưởng dùng hết rồi, đáo đầu lại là lúc bần cùng thiếu thốn,
hưởng thọ cuộc sống sẽ không tốt đẹp được.
Không hiểu được sự tiếc phước, mà tùy ý
lãng phí tiêu xài rộng rãi, rốt cuộc cũng giống như những người lớn tuổi, chỉ
có thể thỉnh thoảng di động thân thể một chút, lại cũng không thể nào giống như
kiểu không bị trói buột của trẻ nhỏ, sức lực tung tăng đầy đủ; không cách nào
lấy tâm bình thường để xem và đối đãi trong thời gian hiện tại, cư xử với cảnh
rất là buồn rầu.
lãng phí tiêu xài rộng rãi, rốt cuộc cũng giống như những người lớn tuổi, chỉ
có thể thỉnh thoảng di động thân thể một chút, lại cũng không thể nào giống như
kiểu không bị trói buột của trẻ nhỏ, sức lực tung tăng đầy đủ; không cách nào
lấy tâm bình thường để xem và đối đãi trong thời gian hiện tại, cư xử với cảnh
rất là buồn rầu.
Học Phật tu hành cần phải tu phước và
tiếc phước. Tiếc phước tức là chẳng bỏ phước, bỏ phước tức là xa xỉ lãng phí
trong việc đi, ở, ăn, mặc đối với cuộc sống thường ngày của chúng ta, gọi là
“bỏ phước”. Người tiếc phước thì yêu tiếc phước báo, đây cũng là cái “Đức Kiệm”
truyền thống của chúng ta, KIỆM là tiết kiệm, kiệm không phải là keo kiệt, kiệm
– tức là có sự chi phối của kế hoạch, thành quả của chỗ được, nắm vững nguyên
tắc họp tình, họp lý, tự qui ước, tự chế định, đối với các khoảng tiền bạc
trong cuộc sống, lấy tâm tình quí tiếc mà sử dụng cẩn thận nghiêm túc, ra sức
cầu bớt phóng túng, cố gắng giảm bớt, ngõ hầu chẳng đến nỗi tàn hại hết của
trời, lãng phí nguồn sống.
tiếc phước. Tiếc phước tức là chẳng bỏ phước, bỏ phước tức là xa xỉ lãng phí
trong việc đi, ở, ăn, mặc đối với cuộc sống thường ngày của chúng ta, gọi là
“bỏ phước”. Người tiếc phước thì yêu tiếc phước báo, đây cũng là cái “Đức Kiệm”
truyền thống của chúng ta, KIỆM là tiết kiệm, kiệm không phải là keo kiệt, kiệm
– tức là có sự chi phối của kế hoạch, thành quả của chỗ được, nắm vững nguyên
tắc họp tình, họp lý, tự qui ước, tự chế định, đối với các khoảng tiền bạc
trong cuộc sống, lấy tâm tình quí tiếc mà sử dụng cẩn thận nghiêm túc, ra sức
cầu bớt phóng túng, cố gắng giảm bớt, ngõ hầu chẳng đến nỗi tàn hại hết của
trời, lãng phí nguồn sống.
“Tiết kiệm” là tiếc phước ở trong Phật
giáo, là đối với cuộc sống của mình, không nên xa xỉ. Tiết kiệm về tiền tài để
đem làm việc cúng đường Tam bảo, cứu trợ người nghèo hoặc phóng sinh, đều chẳng
phải là keo kiệt không xả bỏ. Làm bố thí tức là tu phước vậy.
giáo, là đối với cuộc sống của mình, không nên xa xỉ. Tiết kiệm về tiền tài để
đem làm việc cúng đường Tam bảo, cứu trợ người nghèo hoặc phóng sinh, đều chẳng
phải là keo kiệt không xả bỏ. Làm bố thí tức là tu phước vậy.
Người có tiền làm việc bố thí (tu
phước) rất là dễ; Nhưng bỏ phước (tạo nghiệp tội) cũng càng dễ hơn. Ví dụ như
ăn cơm bình thường chỉ tiêu hơn ngàn đồng, còn ăn nhậu say xưa đến vạn đồng;
Mặc đồ thì mặc hàng hiệu, họp thời trang, thế nầy lãng phí chẳng biết là bao
nhiêu? Thức ăn là những gì? Toàn là thân thể, thịt, sinh mạng của chúng sinh,
cho thỏa mãn sự ham muốn ngon miệng no bụng của mình.
phước) rất là dễ; Nhưng bỏ phước (tạo nghiệp tội) cũng càng dễ hơn. Ví dụ như
ăn cơm bình thường chỉ tiêu hơn ngàn đồng, còn ăn nhậu say xưa đến vạn đồng;
Mặc đồ thì mặc hàng hiệu, họp thời trang, thế nầy lãng phí chẳng biết là bao
nhiêu? Thức ăn là những gì? Toàn là thân thể, thịt, sinh mạng của chúng sinh,
cho thỏa mãn sự ham muốn ngon miệng no bụng của mình.
Người có tiền là có phước báo hơn,
phước báo là việc của đời trước đem lại cho đời nầy, nếu có thể lấy phước để
đắp bồi thêm phước, thì phước báo càng ngày càng lớn, muốn mình tu hành, cuộc
sống đừng để sự nhàn rỗi chen vào, phương diện tự lợi rất tốt cho dụng công.
Muốn nghĩ đến việc lợi tha cũng rất dễ, nhu cầu của lợi tha là có phước báo –
có tiền – mình có phước báo có tiền tài, muốn lợi tha cần cứu giúp kẻ nghèo khó
thì làm, muốn cúng dường Tam bảo thì cúng; Có tiền thì có thể dùng nó cúng
dường Tam bảo, lợi ích chúng sinh, đây gọi là lấy phước bồi thêm phước, phước
báo càng ngày càng thêm lớn. Nếu không có phước báo, thì miếng ăn của mình cũng
là vấn đề phải lo, thì sao có thể tu hành dụng công? Cuộc sống của mình chẳng
được đủ, sao có thể trên thì cúng dường Tam bảo, dưới lợi lạc cho chúng sinh?
Cho nên nói là nhất định cần phải có phước. Phước đời trước vun đắp được bao
nhiêu, tự thân chúng ta không biết được, ngày nay trồng thêm thì tự mình có thể
làm chủ được. Mong mọi người nổ lực tu phước, nên phải tu phước thanh tịnh
phước mà tịnh lại gọi là “tịnh nghiệp”.
phước báo là việc của đời trước đem lại cho đời nầy, nếu có thể lấy phước để
đắp bồi thêm phước, thì phước báo càng ngày càng lớn, muốn mình tu hành, cuộc
sống đừng để sự nhàn rỗi chen vào, phương diện tự lợi rất tốt cho dụng công.
Muốn nghĩ đến việc lợi tha cũng rất dễ, nhu cầu của lợi tha là có phước báo –
có tiền – mình có phước báo có tiền tài, muốn lợi tha cần cứu giúp kẻ nghèo khó
thì làm, muốn cúng dường Tam bảo thì cúng; Có tiền thì có thể dùng nó cúng
dường Tam bảo, lợi ích chúng sinh, đây gọi là lấy phước bồi thêm phước, phước
báo càng ngày càng thêm lớn. Nếu không có phước báo, thì miếng ăn của mình cũng
là vấn đề phải lo, thì sao có thể tu hành dụng công? Cuộc sống của mình chẳng
được đủ, sao có thể trên thì cúng dường Tam bảo, dưới lợi lạc cho chúng sinh?
Cho nên nói là nhất định cần phải có phước. Phước đời trước vun đắp được bao
nhiêu, tự thân chúng ta không biết được, ngày nay trồng thêm thì tự mình có thể
làm chủ được. Mong mọi người nổ lực tu phước, nên phải tu phước thanh tịnh
phước mà tịnh lại gọi là “tịnh nghiệp”.
Người bần cùng, đời nầy phước mỏng là
bỡi do đời trước không có vun bồi phước, tức là thiếu việc bố thí. Muốn tu hành
thì tu không được, ma chướng rất là nhiều; – Thứ nhất là “ma bệnh”, không tu
hành dụng công để không có bệnh, ngay khi muốn tu hành dụng công, thì bệnh nầy
bệnh kia kéo đến. Bỡi vì phước mỏng không có tiền bạc, đã hại bệnh không có
thuốc để dùng, như vậy làm sao mà tu hành? Đây gọi là “ma bệnh”. – Thứ hai, là
“ma công việc”, bỡi vì phước mỏng thì cuộc sống sẽ gian nan khốn khổ, bỡi vì
cuộc sống không đủ đầy nên phải lặn lội mưu sinh, từ sáng bận rộn đến tối, bận
rộn để được đủ ấm đủ no một cách miễn cưỡng, cách nầy vì mưu sinh mà phải đắng
cay làm việc, làm đến khi tinh thần mỏi mệt, sức lực suy tàn, thế làm sao mà tu
hành được? Đây gọi là “ma công việc”. Ma bệnh, ma công việc, tóm lại thuộc về
“Ma phiền não”. Bỡi vì phiền não nổi lên lăng xăng khiến cho thân bất an, tâm
bất an, làm sao mà tu hành được?
bỡi do đời trước không có vun bồi phước, tức là thiếu việc bố thí. Muốn tu hành
thì tu không được, ma chướng rất là nhiều; – Thứ nhất là “ma bệnh”, không tu
hành dụng công để không có bệnh, ngay khi muốn tu hành dụng công, thì bệnh nầy
bệnh kia kéo đến. Bỡi vì phước mỏng không có tiền bạc, đã hại bệnh không có
thuốc để dùng, như vậy làm sao mà tu hành? Đây gọi là “ma bệnh”. – Thứ hai, là
“ma công việc”, bỡi vì phước mỏng thì cuộc sống sẽ gian nan khốn khổ, bỡi vì
cuộc sống không đủ đầy nên phải lặn lội mưu sinh, từ sáng bận rộn đến tối, bận
rộn để được đủ ấm đủ no một cách miễn cưỡng, cách nầy vì mưu sinh mà phải đắng
cay làm việc, làm đến khi tinh thần mỏi mệt, sức lực suy tàn, thế làm sao mà tu
hành được? Đây gọi là “ma công việc”. Ma bệnh, ma công việc, tóm lại thuộc về
“Ma phiền não”. Bỡi vì phiền não nổi lên lăng xăng khiến cho thân bất an, tâm
bất an, làm sao mà tu hành được?
Đây là người bần cùng, đời trước không
tu được phước, đời nầy phước mỏng nên nghèo khó, chỉ có đời nầy gấp rút nổ lực
tu phước; Vậy thì phải tu như thế nào?
tu được phước, đời nầy phước mỏng nên nghèo khó, chỉ có đời nầy gấp rút nổ lực
tu phước; Vậy thì phải tu như thế nào?
Thứ nhất, nên tinh tấn TRÌ GIỚI, trì
giới là nghiệp chính đối với nghiệp tội mà nói, trì giới là “phòng phi chỉ ác”
(ngừa phòng sự sai quấy, dừng dứt việc ác), chẳng vì việc sai quấy mà làm ác,
tức là không tạo tội, không tạo tội thì làm thiện, mà làm việc thiện tức là vun
bồi thêm phước.
giới là nghiệp chính đối với nghiệp tội mà nói, trì giới là “phòng phi chỉ ác”
(ngừa phòng sự sai quấy, dừng dứt việc ác), chẳng vì việc sai quấy mà làm ác,
tức là không tạo tội, không tạo tội thì làm thiện, mà làm việc thiện tức là vun
bồi thêm phước.
Thứ hai, ăn toàn chay.
Thứ ba, đọc tụng kinh điển đại thừa,
phát nguyện mỗi ngày nên tụng kinh Di Đà mấy quyển.
phát nguyện mỗi ngày nên tụng kinh Di Đà mấy quyển.
Thứ tư, mỗi ngày đều niệm Phật, hàng
giờ thường xuyên niệm Phật, thế là vun bồi thêm phước lớn; Đây đều là chẳng cần
phải xin tiền bạc, mà phải cố gắng nổ lực tu hành.
giờ thường xuyên niệm Phật, thế là vun bồi thêm phước lớn; Đây đều là chẳng cần
phải xin tiền bạc, mà phải cố gắng nổ lực tu hành.
Cho đến việc bố thí, chẳng thể đem tiền
mà bố thí, có thể đem pháp mà bố thí, đem Phật pháp mình nghe được, chuyển nói
cho người khác nghe, đây là bố thí pháp chẳng tốn tiền. Lại nói rằng người
phước mỏng có thể đem tiền mà bố thí hay không? – Một là có thể làm, chỉ cần
xem là có phát tâm hay không? Người nghèo khó tiền bạc thiếu thốn, chỉ cần sự
phát tâm, thì có thể từ sự chi dụng ở trong cuộc sống tiết kiệm ra một hai
trăm, một hai ngàn đồng mà thành tâm bố thí cầu phước, như thế nầy so ra công
đức còn lớn hơn người có tiền bố thí trăm ngàn vạn ngàn đồng, sự vun bồi phước
còn nhiều hơn. Đây là nói người phước mỏng muốn cần tự mình dụng công tu hành,
thì đối với nơi có chướng ngại, cần nghĩ vì tưởng đến lợi ích chúng sinh, nên
chỗ cầu mong chẳng thể mãn nguyện.
mà bố thí, có thể đem pháp mà bố thí, đem Phật pháp mình nghe được, chuyển nói
cho người khác nghe, đây là bố thí pháp chẳng tốn tiền. Lại nói rằng người
phước mỏng có thể đem tiền mà bố thí hay không? – Một là có thể làm, chỉ cần
xem là có phát tâm hay không? Người nghèo khó tiền bạc thiếu thốn, chỉ cần sự
phát tâm, thì có thể từ sự chi dụng ở trong cuộc sống tiết kiệm ra một hai
trăm, một hai ngàn đồng mà thành tâm bố thí cầu phước, như thế nầy so ra công
đức còn lớn hơn người có tiền bố thí trăm ngàn vạn ngàn đồng, sự vun bồi phước
còn nhiều hơn. Đây là nói người phước mỏng muốn cần tự mình dụng công tu hành,
thì đối với nơi có chướng ngại, cần nghĩ vì tưởng đến lợi ích chúng sinh, nên
chỗ cầu mong chẳng thể mãn nguyện.
Tiết kiệm không phải là keo kiệt, tham
lam và bần tiện. Người tiết kiệm là lường so được đầu vào mà xuất ra, ngay lúc
tính xét thì tính xét, đến lúc dùng thì dùng; Người keo kiệt thì tính toán đầu
ra để mà thu vào, có thể xét thì bèn xét, cái không đáng xét cũng xét, cái đáng
dùng cũng chẳng dùng.
lam và bần tiện. Người tiết kiệm là lường so được đầu vào mà xuất ra, ngay lúc
tính xét thì tính xét, đến lúc dùng thì dùng; Người keo kiệt thì tính toán đầu
ra để mà thu vào, có thể xét thì bèn xét, cái không đáng xét cũng xét, cái đáng
dùng cũng chẳng dùng.
Có thể ở đời nầy được giàu có, khỏe
mạnh, quyền thế, danh tiếng, bình yên, khoái lạc v.v… đều là phước báo, nhưng
nếu không khéo, phước báo ấy ngược lại là nhân của sự đọa lạc, khiến người lãng
phí vô độ, phí phạm của trời, tranh quyền đoạt lợi, tự tư tự lợi, vì phước báo
mà sinh ra tham – sân – si, chính là nguồn gốc sinh khởi ra tai nạn và nghiệp
chướng.
mạnh, quyền thế, danh tiếng, bình yên, khoái lạc v.v… đều là phước báo, nhưng
nếu không khéo, phước báo ấy ngược lại là nhân của sự đọa lạc, khiến người lãng
phí vô độ, phí phạm của trời, tranh quyền đoạt lợi, tự tư tự lợi, vì phước báo
mà sinh ra tham – sân – si, chính là nguồn gốc sinh khởi ra tai nạn và nghiệp
chướng.
Nếu nhìn mà không thấy đối với ác
nghiệp, như thế có một ngày nghiệp ác sẽ tìm đến ngay cửa, cần phải biết rằng
phước báo cũng rất là mau chóng bị dùng hết (tổn phước mau chóng), nhưng sự
chứa nhóm phước báo ngược lại rất khó khăn, lập tức khiến có một ngày, đó là
người trời cũng có “tướng suy” hiện khởi; Chúng ta có thể nào chẳng “tiếc phước”
ư? phước báo là việc khó được mười phần!
nghiệp, như thế có một ngày nghiệp ác sẽ tìm đến ngay cửa, cần phải biết rằng
phước báo cũng rất là mau chóng bị dùng hết (tổn phước mau chóng), nhưng sự
chứa nhóm phước báo ngược lại rất khó khăn, lập tức khiến có một ngày, đó là
người trời cũng có “tướng suy” hiện khởi; Chúng ta có thể nào chẳng “tiếc phước”
ư? phước báo là việc khó được mười phần!
Chúng ta đọa lạc bỡi vì hưởng thụ phước
báo mà không biết quí tiếc để tạo thành, rõ ràng cần tiêu nghiệp chướng thì
trước nhất cần phải tiếc phước, nên theo tốt mà xua đuổi xấu, càng cần phải
tiếc phước mà không bỏ phước.
báo mà không biết quí tiếc để tạo thành, rõ ràng cần tiêu nghiệp chướng thì
trước nhất cần phải tiếc phước, nên theo tốt mà xua đuổi xấu, càng cần phải
tiếc phước mà không bỏ phước.
+ Con người cần phải có “luật của
mình”, gọi là: “Luật của mình” tức là có thể dùng lý trí để trói buộc tư tưởng
và hành vi của mình, chẳng ghen ghét, chẳng cầu cạnh, không oán giận, không
khoe khoang, chẳng phóng túng, chẳng phí phạm, hay nhẫn nại, tự trọng tự ái,
giữ nghĩa an thân, khoang thứ tiếp người.
mình”, gọi là: “Luật của mình” tức là có thể dùng lý trí để trói buộc tư tưởng
và hành vi của mình, chẳng ghen ghét, chẳng cầu cạnh, không oán giận, không
khoe khoang, chẳng phóng túng, chẳng phí phạm, hay nhẫn nại, tự trọng tự ái,
giữ nghĩa an thân, khoang thứ tiếp người.
+ “Quân tử an mạng, bất khả cưỡng
cầu”; Phàm việc gì cũng đều ra sức chính ta, mong cho được tâm an mà thôi.
Mưu sự ở nơi người, thành sự do trời, tự hỏi đã làm thiện hết chức năng và bổn
phận chưa, thì có thể không thẹn không dối, bất tất gì việc vọng mà ganh cầu.
Có chỗ nói rằng: “Không vọng cầu thì tâm an, không vọng làm thì thân an”. Ngoài
việc vùi lấp oán hận ra, cũng không được tự khoe khoang, tự ngạo nghễ, tự mãn,
tự kiêu. Cần phải làm cho được: “CHÁNH để ứng xử tâm, LIÊM (ngay thẳng) để làm
luật lệ cho mình, CUNG để trên công việc, TÍN để tiếp vật, KHOANG DUNG để đãi
người, KÍNH để thừa hành công việc”. Thường xuyên lúc nào cũng giữ nghĩa an
thân, mọi việc đều nên trách lấy mình tha thứ cho người, thì tâm và cảnh hòa
bình, tất cả bực tức phẩn nộ tự nhiên không cách nào phát khởi.
cầu”; Phàm việc gì cũng đều ra sức chính ta, mong cho được tâm an mà thôi.
Mưu sự ở nơi người, thành sự do trời, tự hỏi đã làm thiện hết chức năng và bổn
phận chưa, thì có thể không thẹn không dối, bất tất gì việc vọng mà ganh cầu.
Có chỗ nói rằng: “Không vọng cầu thì tâm an, không vọng làm thì thân an”. Ngoài
việc vùi lấp oán hận ra, cũng không được tự khoe khoang, tự ngạo nghễ, tự mãn,
tự kiêu. Cần phải làm cho được: “CHÁNH để ứng xử tâm, LIÊM (ngay thẳng) để làm
luật lệ cho mình, CUNG để trên công việc, TÍN để tiếp vật, KHOANG DUNG để đãi
người, KÍNH để thừa hành công việc”. Thường xuyên lúc nào cũng giữ nghĩa an
thân, mọi việc đều nên trách lấy mình tha thứ cho người, thì tâm và cảnh hòa
bình, tất cả bực tức phẩn nộ tự nhiên không cách nào phát khởi.
Cần phải tránh khỏi những mưa gió bạo
tàn của sự biến họa tâm lý bi quan, phẩn nộ và ưu sầu xâm nhập.
tàn của sự biến họa tâm lý bi quan, phẩn nộ và ưu sầu xâm nhập.
+ Không nên muốn quản lý người ta, quản
lý vợ con, anh em, bạn thân, phàm là chiếm được thế bề trên đều muốn quản lý,
cưỡng người cho là đồng mình, cường điệu tự ta, quên mất sự tồn tại của người
khác, giận dỗi, bực tức, khổ đau đều là do sự quản lý mà ra cả. Người trí thà
có thể bị người khác quản lý, mà chẳng đi quản lý người ta để chuốt lấy phiền
não. Chỉ cần đức hạnh tốt, ngay thẳng, lời nói tròn đầy, chẳng quản lý người,
thì cũng sẽ được người khác tôn kính.
lý vợ con, anh em, bạn thân, phàm là chiếm được thế bề trên đều muốn quản lý,
cưỡng người cho là đồng mình, cường điệu tự ta, quên mất sự tồn tại của người
khác, giận dỗi, bực tức, khổ đau đều là do sự quản lý mà ra cả. Người trí thà
có thể bị người khác quản lý, mà chẳng đi quản lý người ta để chuốt lấy phiền
não. Chỉ cần đức hạnh tốt, ngay thẳng, lời nói tròn đầy, chẳng quản lý người,
thì cũng sẽ được người khác tôn kính.
+ Riêng dung túng mình, lúc trời nóng
thì nói: “Ngày hè chói chang ngủ là tốt nhất”, lúc trời lạnh, tự dặn mình đừng
ra khỏi tổ ấm, để khỏi bị lạnh lẽo, công việc ngày hôm nay thì không làm xong,
lại dùng cách qua loa tắc trách bảo rằng: “còn có ngày mai”, lúc tìm cầu hưởng
lạc thì ngược lại nói: “sáng nay có rượu sáng nay say”. Dung túng người khác
không phải là một việc tốt; Dung túng chính mình lại dễ chuốt lấy phiền phức.
thì nói: “Ngày hè chói chang ngủ là tốt nhất”, lúc trời lạnh, tự dặn mình đừng
ra khỏi tổ ấm, để khỏi bị lạnh lẽo, công việc ngày hôm nay thì không làm xong,
lại dùng cách qua loa tắc trách bảo rằng: “còn có ngày mai”, lúc tìm cầu hưởng
lạc thì ngược lại nói: “sáng nay có rượu sáng nay say”. Dung túng người khác
không phải là một việc tốt; Dung túng chính mình lại dễ chuốt lấy phiền phức.
+ Người thường có thói quen chỉ trích
người khác, sẽ không biết tự xét mình, chẳng thể chấp nhận sai lầm, thiên kiến
và hấp tấp, chẳng trải qua sự nắm chắc và xét nghiệm.
người khác, sẽ không biết tự xét mình, chẳng thể chấp nhận sai lầm, thiên kiến
và hấp tấp, chẳng trải qua sự nắm chắc và xét nghiệm.
+ Một người nếu buông lung lòng ham
muốn, chẳng kiểm thúc và tự chế hơn, rốt cuộc chắc chắn sẽ không thành một việc
gì. Nên cần luyện tập chẳng dứt để chặn đứng “thất tình lục dục” trong tâm,
chẳng bị lung lay vì chúng nó; Nên phải phục tùng mệnh lệnh của lương tâm, để nuôi
dưỡng thành lực phán đoán phân biệt thiện ác, mới có thể tự chủ tự tại một cách
chân chánh.
muốn, chẳng kiểm thúc và tự chế hơn, rốt cuộc chắc chắn sẽ không thành một việc
gì. Nên cần luyện tập chẳng dứt để chặn đứng “thất tình lục dục” trong tâm,
chẳng bị lung lay vì chúng nó; Nên phải phục tùng mệnh lệnh của lương tâm, để nuôi
dưỡng thành lực phán đoán phân biệt thiện ác, mới có thể tự chủ tự tại một cách
chân chánh.
+ Gặp việc “đắc ý” thì hớn hở như
cuồng, gặp việc “thất ý” thì buồn rầu lo lắng, hoàn toàn tùy thuộc vào những
cảnh hoặc vui hoặc buồn ở trước mắt, tự thân không có mảy may sức làm chủ, lại
còn làm sao bàn đến việc tu tâm dưỡng tánh nhẫn nại được ư!
cuồng, gặp việc “thất ý” thì buồn rầu lo lắng, hoàn toàn tùy thuộc vào những
cảnh hoặc vui hoặc buồn ở trước mắt, tự thân không có mảy may sức làm chủ, lại
còn làm sao bàn đến việc tu tâm dưỡng tánh nhẫn nại được ư!
Khổ, vui, thuận, nghịch đều là trong
khoảng một niệm. Ở trong nghịch mà chẳng vì bị nghịch, bèn hóa nghịch làm
thuận, chuyển phiền não thành bồ đề. Có lúc may mắn và không may mắn, chẳng ở
nơi hoàn cảnh mà quyết định, mà ở nơi cảm giác chủ quan của chính mình vậy. Có
lúc gom cảnh để kiểm tra tâm, càng ở chỗ đắng cay càng cảm thấy an tâm.
khoảng một niệm. Ở trong nghịch mà chẳng vì bị nghịch, bèn hóa nghịch làm
thuận, chuyển phiền não thành bồ đề. Có lúc may mắn và không may mắn, chẳng ở
nơi hoàn cảnh mà quyết định, mà ở nơi cảm giác chủ quan của chính mình vậy. Có
lúc gom cảnh để kiểm tra tâm, càng ở chỗ đắng cay càng cảm thấy an tâm.
Chẳng luận là vui hay buồn, là phong
phú hay khô gầy, là giàu có hay nghèo khó? Đều là một cái gặp được, từ bên
ngoài đem tới, những tâm tình nầy đều nên thảng nhiên mà đối diện, buồn vui tùy
duyên.
phú hay khô gầy, là giàu có hay nghèo khó? Đều là một cái gặp được, từ bên
ngoài đem tới, những tâm tình nầy đều nên thảng nhiên mà đối diện, buồn vui tùy
duyên.
Giàu có, quyền thế, ham muốn, ăn uống
nhìn sắc, tôn vinh, hưởng thụ… rất nhiều phương diện. Trí tuệ, tu dưỡng, đạo
đức, văn chương, chí nghiệp, trí tuệ… nhiều các phương diện. Tâm chẳng đủ,
cũng như con trăn nuốt con voi, sẽ thành “nhân của phiền não, mối của tật đố,
nguồn của oán hận, gốc của đau khổ, họa của sự hại thân”.
nhìn sắc, tôn vinh, hưởng thụ… rất nhiều phương diện. Trí tuệ, tu dưỡng, đạo
đức, văn chương, chí nghiệp, trí tuệ… nhiều các phương diện. Tâm chẳng đủ,
cũng như con trăn nuốt con voi, sẽ thành “nhân của phiền não, mối của tật đố,
nguồn của oán hận, gốc của đau khổ, họa của sự hại thân”.
+ Bình thường mặt nở nụ cười, mọi người
muốn thân cận, như cả ngày cau có mặt mày để tiếp đãi người, khiến người tránh
xa, việc không như ý sẽ đến với anh. Mỉm cười là phương cách hay để xa lìa tai
họa.
muốn thân cận, như cả ngày cau có mặt mày để tiếp đãi người, khiến người tránh
xa, việc không như ý sẽ đến với anh. Mỉm cười là phương cách hay để xa lìa tai
họa.
+ Phật giáo nêu rõ đời người có sinh,
già, bệnh v.v… các đau khổ; Lại nói: “Đời người vô thường”. Cho là muôn sự
muôn vật trên thế giới, đều là nhơn duyên tạm có, đều là rõ dứt muôn biến, cho
nên nói rằng tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ đều là hư huyễn,
do đó khuyên người đời chẳng nên chấp trước thái quá, tức là tham luyến chẳng
xả.
già, bệnh v.v… các đau khổ; Lại nói: “Đời người vô thường”. Cho là muôn sự
muôn vật trên thế giới, đều là nhơn duyên tạm có, đều là rõ dứt muôn biến, cho
nên nói rằng tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ đều là hư huyễn,
do đó khuyên người đời chẳng nên chấp trước thái quá, tức là tham luyến chẳng
xả.
+ Người niệm Phật bình thường tức phải
buông rời thân tâm, chuyên chí nơi tịnh niệm. Một mai sinh bệnh, lại ở trong sự
bệnh hoạn mà thể nghiệm cái thân “bất tịnh” của sắc thân. Do vậy, có bệnh thì
cần phải trị thuốc là nguyên tắc, trong thời gian trị liệu đương nhiên cũng có
thể đồng thời tiến hành “Sám hối”, làm thiện, niệm Phật để cầu chuyển biến
nghiệp báo, sớm ngày bình phục. Nếu muốn hoàn toàn nương vào sức niệm Phật, làm
thiện, cầu cho bệnh bớt, thì khả năng nhân chuyển điều kiện nghiệp báo sẽ chẳng
đủ mà thất bại, khiến kết quả xem được, so ra còn tồi tệ hơn trị liệu bằng bác
sĩ. Do đó, người đương sự phải tin sâu nhân quả, kết quả chẳng khả quan nếu có
phát sinh thì không oán, không hối, chẳng được vậy thì không nên tùy tiện buông
bỏ sự trị liệu của bác sĩ. Xin nói với tất cả mọi người rằng cả hai việc đồng
thời tiến hành so ra là lý tưởng. Nhưng nếu có hoạn mà bệnh, y học không có
cách nào chữa trị, thế thì chỉ tốt nhất là nương vào “sám hối”, ngăn chặn việc
sát sinh, nên ăn chay, niệm Phật, làm việc thiện, cầu Phật Bồ Tát Từ bi gia hộ
cho sớm ngày được bình phục khỏe mạnh như cũ.
buông rời thân tâm, chuyên chí nơi tịnh niệm. Một mai sinh bệnh, lại ở trong sự
bệnh hoạn mà thể nghiệm cái thân “bất tịnh” của sắc thân. Do vậy, có bệnh thì
cần phải trị thuốc là nguyên tắc, trong thời gian trị liệu đương nhiên cũng có
thể đồng thời tiến hành “Sám hối”, làm thiện, niệm Phật để cầu chuyển biến
nghiệp báo, sớm ngày bình phục. Nếu muốn hoàn toàn nương vào sức niệm Phật, làm
thiện, cầu cho bệnh bớt, thì khả năng nhân chuyển điều kiện nghiệp báo sẽ chẳng
đủ mà thất bại, khiến kết quả xem được, so ra còn tồi tệ hơn trị liệu bằng bác
sĩ. Do đó, người đương sự phải tin sâu nhân quả, kết quả chẳng khả quan nếu có
phát sinh thì không oán, không hối, chẳng được vậy thì không nên tùy tiện buông
bỏ sự trị liệu của bác sĩ. Xin nói với tất cả mọi người rằng cả hai việc đồng
thời tiến hành so ra là lý tưởng. Nhưng nếu có hoạn mà bệnh, y học không có
cách nào chữa trị, thế thì chỉ tốt nhất là nương vào “sám hối”, ngăn chặn việc
sát sinh, nên ăn chay, niệm Phật, làm việc thiện, cầu Phật Bồ Tát Từ bi gia hộ
cho sớm ngày được bình phục khỏe mạnh như cũ.
+ Người không bệnh nặng thì được rồi,
bất tất vì bệnh nhỏ trên thân mà buồn rầu khổ não, đã chết chẳng được, còn so
tính những gì, người ăn lương thực ngũ cốc thì ai không đau bệnh ư!
bất tất vì bệnh nhỏ trên thân mà buồn rầu khổ não, đã chết chẳng được, còn so
tính những gì, người ăn lương thực ngũ cốc thì ai không đau bệnh ư!
+ Coi nhẹ mình là Bát nhã (trí tuệ),
xem trọng mình là chấp trước. Chúng sinh có phiền não là nhân vì có sự quan hệ
của “Ngã chấp”, bỡi sự tư riêng của NGÃ là lớn, chẳng những khiến mình đau khổ,
mà còn ảnh hưởng những người xunh quanh cùng đau khổ. “Quên Ngã” mới có thể ở
trong sự tu tâm dưỡng tánh, tạo cho thân tâm khỏe mạnh, nhân sinh quan hạnh
phúc.
xem trọng mình là chấp trước. Chúng sinh có phiền não là nhân vì có sự quan hệ
của “Ngã chấp”, bỡi sự tư riêng của NGÃ là lớn, chẳng những khiến mình đau khổ,
mà còn ảnh hưởng những người xunh quanh cùng đau khổ. “Quên Ngã” mới có thể ở
trong sự tu tâm dưỡng tánh, tạo cho thân tâm khỏe mạnh, nhân sinh quan hạnh
phúc.
+ Hàng ngày tham cứu pháp nầy, tông
kia; Hàng ngày cái nầy không hiểu, cái kia không biết, học Phật tu hành thì
thành một việc khổ sai. Rời cái chướng của chữ nghĩa, đó là chơn tu hành. Chẳng
cần kỳ vọng rất cao đối với kinh Phật. Con người đối với thân thể, công sức,
hành động mà nói thì vô lượng pháp môn là việc khó khăn chẳng tác động được
người khác, bỡi vì họ không có nghĩa vụ gì để mà học cái “vô lượng” ấy. Chỉ có
người trốn tránh trong đống sách, mới có thể “tham” cái vật báu vô lượng ấy,
bỡi vì những điều nói trên sách đều tốt, cái nầy tốt, cái kia cũng tốt; Thiền
tông tốt, Mật tông cũng tốt, Tịnh độ tông càng tốt… mọi người đều nói tốt!
kia; Hàng ngày cái nầy không hiểu, cái kia không biết, học Phật tu hành thì
thành một việc khổ sai. Rời cái chướng của chữ nghĩa, đó là chơn tu hành. Chẳng
cần kỳ vọng rất cao đối với kinh Phật. Con người đối với thân thể, công sức,
hành động mà nói thì vô lượng pháp môn là việc khó khăn chẳng tác động được
người khác, bỡi vì họ không có nghĩa vụ gì để mà học cái “vô lượng” ấy. Chỉ có
người trốn tránh trong đống sách, mới có thể “tham” cái vật báu vô lượng ấy,
bỡi vì những điều nói trên sách đều tốt, cái nầy tốt, cái kia cũng tốt; Thiền
tông tốt, Mật tông cũng tốt, Tịnh độ tông càng tốt… mọi người đều nói tốt!
+ Phật giáo cho là: “nhiều ham muốn là
khổ”; Ham muốn rất nhiều, thường là gốc rễ của phiền não và khổ đau. Do đó
khuyên người nên: “ít ham muốn và biết vừa đủ”. Mỗi người đều phải đong đo tài
trí của mình để quyết định sự nhiều ít của lòng ham muốn; Nếu tài trí của mình
không đủ, mà ngược lại cả ngày tưởng mộng nghĩ suông, đâu chẳng phải là tự
chuốt tìm phiền não sao? Nhưng nên nhớ rằng, Phật giáo thật ra không cần chúng
ta “dứt ham muốn”, mà chỉ nói “ít ham muốn và biết vừa đủ”. Thậm chí đến nỗi
làm tổn thương thân thể, cũng là việc không được chấp nhận trong Phật giáo.
khổ”; Ham muốn rất nhiều, thường là gốc rễ của phiền não và khổ đau. Do đó
khuyên người nên: “ít ham muốn và biết vừa đủ”. Mỗi người đều phải đong đo tài
trí của mình để quyết định sự nhiều ít của lòng ham muốn; Nếu tài trí của mình
không đủ, mà ngược lại cả ngày tưởng mộng nghĩ suông, đâu chẳng phải là tự
chuốt tìm phiền não sao? Nhưng nên nhớ rằng, Phật giáo thật ra không cần chúng
ta “dứt ham muốn”, mà chỉ nói “ít ham muốn và biết vừa đủ”. Thậm chí đến nỗi
làm tổn thương thân thể, cũng là việc không được chấp nhận trong Phật giáo.
+ Học Phật tu hành mà ở nơi hoàn cảnh
“thái quá” và “bất cập”, trên cơ bản là nhân chướng ngại. Hoàn cảnh quá tốt đẹp
thoải mái, tâm không dễ yên tĩnh; Còn “khổ hạnh” thì dinh dưỡng không tốt, ngủ
nghỉ không đủ, tạo nên sự thiếu hụt cho sức khỏe, trái lại bị lùi sụt; Cho nên
hoàn cảnh lý tưởng là chẳng khổ chẳng vui.
“thái quá” và “bất cập”, trên cơ bản là nhân chướng ngại. Hoàn cảnh quá tốt đẹp
thoải mái, tâm không dễ yên tĩnh; Còn “khổ hạnh” thì dinh dưỡng không tốt, ngủ
nghỉ không đủ, tạo nên sự thiếu hụt cho sức khỏe, trái lại bị lùi sụt; Cho nên
hoàn cảnh lý tưởng là chẳng khổ chẳng vui.
+ Lúc đức Phật còn tại thế, nói pháp
bốn mươi chín năm, những lời dạy dỗ của Ngài không việc gì là chẳng chỉ dạy cho
chúng sinh sự thật đau khổ của sinh tử luân hồi, chỉ cho chúng sinh đạo lý
(phương pháp) để: “Liễu sinh thoát tử”.
bốn mươi chín năm, những lời dạy dỗ của Ngài không việc gì là chẳng chỉ dạy cho
chúng sinh sự thật đau khổ của sinh tử luân hồi, chỉ cho chúng sinh đạo lý
(phương pháp) để: “Liễu sinh thoát tử”.
Pháp môn của đức Phật nói rất nhiều,
sâu có, cạn có, khó có, dễ có, từng việc từng việc chẳng đồng (giống) nhau.
Pháp môn và căn khí nếu tu mà chẳng khế họp với nhau, thì dùng sức nhiều mà thu
được hiệu quả ít; Còn nếu cùng với căn khí khế họp nhau, thì dụng công ít mà
thu được hiệu quả lớn. Ở lúc mạt pháp nầy, căn khí của đại đa số chúng sinh
cùng với một pháp môn nào là khế họp nhất ư? – Nói ra thì chỉ có: TỊNH ĐỘ TÔNG
với pháp môn “Trì danh niệm Phật”. Bỡi vì tu qua loa pháp môn khác, ở trong đời
ác năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng
trược) nầy là khốn khó; Nếu chuyên tu “Pháp môn trì danh niệm Phật”, thì nương
vào sức nguyện đại bi của Đức Phật A Di Đà mà sinh về thế giới Cực Lạc ở phương
tây, được gặp Phật nghe Pháp.
sâu có, cạn có, khó có, dễ có, từng việc từng việc chẳng đồng (giống) nhau.
Pháp môn và căn khí nếu tu mà chẳng khế họp với nhau, thì dùng sức nhiều mà thu
được hiệu quả ít; Còn nếu cùng với căn khí khế họp nhau, thì dụng công ít mà
thu được hiệu quả lớn. Ở lúc mạt pháp nầy, căn khí của đại đa số chúng sinh
cùng với một pháp môn nào là khế họp nhất ư? – Nói ra thì chỉ có: TỊNH ĐỘ TÔNG
với pháp môn “Trì danh niệm Phật”. Bỡi vì tu qua loa pháp môn khác, ở trong đời
ác năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng
trược) nầy là khốn khó; Nếu chuyên tu “Pháp môn trì danh niệm Phật”, thì nương
vào sức nguyện đại bi của Đức Phật A Di Đà mà sinh về thế giới Cực Lạc ở phương
tây, được gặp Phật nghe Pháp.
Vì pháp môn trì danh niệm Phật rất là
đơn giản, rất là thẳng tắc, chỉ cần kiên trì một câu – Nam Mô A Di Đà Phật –
chí thành chuyên nhứt, niệm đến khi: Trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Như
vậy lúc mạng chung tâm không điên đảo, tức có thể nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh
Cực Lạc, không luận là người lợi căn hay độn căn, đều có thể tu hành thọ lãnh.
đơn giản, rất là thẳng tắc, chỉ cần kiên trì một câu – Nam Mô A Di Đà Phật –
chí thành chuyên nhứt, niệm đến khi: Trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Như
vậy lúc mạng chung tâm không điên đảo, tức có thể nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh
Cực Lạc, không luận là người lợi căn hay độn căn, đều có thể tu hành thọ lãnh.
Cách chung pháp môn đều nương vào tư
lực, tu Giới – Định – Tuệ, thẳng đến dứt mê hoặc, mới có thể chứng được chơn
(khai ngộ), nói ra thì dễ, trên thực tế không có căn cơ và công phu như nhau
thì không dễ gì làm được.
lực, tu Giới – Định – Tuệ, thẳng đến dứt mê hoặc, mới có thể chứng được chơn
(khai ngộ), nói ra thì dễ, trên thực tế không có căn cơ và công phu như nhau
thì không dễ gì làm được.
Vấn đề tu hành Phật pháp, phải có tu tự
lực và tu tha lực: Như học kinh, tập luật, tu mật, niệm chú, xếp bằng tham
thiền v.v… các pháp môn đó là “tu tự lực”, là dựa vào sự nổ lực của mình mà
tu thành, đã có thành tựu (khai ngộ) thì ra khỏi ba cõi, nếu không thành tựu
thì còn lẩn quẩn trong sáu đường, lại được thân người thì phải tu lại; Tu tha
lực cũng nhờ vào nổ lực tu của mình, lại nhờ vào lực gia bị hộ trì của Phật mà
sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây. Không luận người thượng trí kẻ hạ ngu,
dẫu ít hiểu giáo lý, chưa đoạn được nghiệp mê hoặc, chỉ cần TÍN – HẠNH – NGUYỆN
đầy đủ và trì giữ câu danh hiệu Phật, lúc mạng chung tâm không điên đảo, quyết
nương nhờ Phật hiệu mà tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
lực và tu tha lực: Như học kinh, tập luật, tu mật, niệm chú, xếp bằng tham
thiền v.v… các pháp môn đó là “tu tự lực”, là dựa vào sự nổ lực của mình mà
tu thành, đã có thành tựu (khai ngộ) thì ra khỏi ba cõi, nếu không thành tựu
thì còn lẩn quẩn trong sáu đường, lại được thân người thì phải tu lại; Tu tha
lực cũng nhờ vào nổ lực tu của mình, lại nhờ vào lực gia bị hộ trì của Phật mà
sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây. Không luận người thượng trí kẻ hạ ngu,
dẫu ít hiểu giáo lý, chưa đoạn được nghiệp mê hoặc, chỉ cần TÍN – HẠNH – NGUYỆN
đầy đủ và trì giữ câu danh hiệu Phật, lúc mạng chung tâm không điên đảo, quyết
nương nhờ Phật hiệu mà tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.