PHÁP MÔN TU: TỰ LỰC và THA LỰC
· TU TỰ LỰC (pháp môn chung):
Nhờ hành trì pháp môn tu tự lực, cũng
giống như ra khỏi cửa đi du lịch, không nhờ vào thuyền xe, chỉ nương vào lực
của đôi chân mà đi bộ, bỡi khổ nhọc nên bước đi đó cũng chậm lại, rõ ràng nhờ
vào sức lực của mình, từ sáng đi đến tối – từ sinh đến tử – chưa đạt được mục
đích. Cũng vậy, ra khỏi ba cõi, đành phải để ngày mai, đời sau lại tu tiếp. Tu
tự lực cũng giống như đi học, người người đều đi học, nhưng người có thể được
học vị học sĩ chẳng có nhiều, người được học vị bác sĩ càng ít.
giống như ra khỏi cửa đi du lịch, không nhờ vào thuyền xe, chỉ nương vào lực
của đôi chân mà đi bộ, bỡi khổ nhọc nên bước đi đó cũng chậm lại, rõ ràng nhờ
vào sức lực của mình, từ sáng đi đến tối – từ sinh đến tử – chưa đạt được mục
đích. Cũng vậy, ra khỏi ba cõi, đành phải để ngày mai, đời sau lại tu tiếp. Tu
tự lực cũng giống như đi học, người người đều đi học, nhưng người có thể được
học vị học sĩ chẳng có nhiều, người được học vị bác sĩ càng ít.
· TU THA LỰC (pháp môn đặc biệt):
Tu tha lực, cũng giống như ra cữa đi du
lịch, từ sáng xuất hành, lái xe máy đi tới chiều (Mạng chung), mà chưa đến được
mục đích (sanh tây), có người lái xe hơi đến tiếp (nhờ Phật hiện ra tiếp dẫn),
thì dễ đi đường (pháp môn rất thẳng tắc). Dẫu là người thượng trí hay kẻ hạ
ngu, nam nữ già trẻ, người người đều có thể tu, đều có thể thực hành phương
pháp pháp môn “trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc”.
lịch, từ sáng xuất hành, lái xe máy đi tới chiều (Mạng chung), mà chưa đến được
mục đích (sanh tây), có người lái xe hơi đến tiếp (nhờ Phật hiện ra tiếp dẫn),
thì dễ đi đường (pháp môn rất thẳng tắc). Dẫu là người thượng trí hay kẻ hạ
ngu, nam nữ già trẻ, người người đều có thể tu, đều có thể thực hành phương
pháp pháp môn “trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc”.
Học Phật “tu hành” và “giải hành” cùng
tiến bộ là tốt nhất, việc đáng tiếc là rất nhiều người tu hành nhân vì thời
gian, sức lực và trí tuệ bị hạn chế, có hạn chế hiểu biết về Phật pháp, thường
thường nắm không được điểm quan trọng của sự tu hành, mà lại đầy dẫy những cảm
giác ngăn trở.
tiến bộ là tốt nhất, việc đáng tiếc là rất nhiều người tu hành nhân vì thời
gian, sức lực và trí tuệ bị hạn chế, có hạn chế hiểu biết về Phật pháp, thường
thường nắm không được điểm quan trọng của sự tu hành, mà lại đầy dẫy những cảm
giác ngăn trở.
Chúng ta nhận thức một con người, cũng
chẳng qua là nhận thức diện mạo thân thể của người đó đại khái mà thôi, thì
biết được người đó là ai, sao lại có thể đem cả toàn thân, tay, chân, lông,
tóc… từng chỗ của người đó ra mà nhận cho rõ ràng? Học Phật tu hành – pháp
môn trì danh niệm Phật – cũng vậy, đâu có thể nào đem toàn bộ tam tạng kinh
điển ra mà giải cho rõ ràng? Có thể đem: năm giới, mười thiện, tự tâm thanh
tịnh, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, luật nhân quả đều đã rõ ràng,
chấp trì một câu danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, tức là đã tu hành. Nắm vào
tay từ sự tu thân, chánh tâm và trên thành ý, thân không làm việc ác, miệng
không nói lời ác, ý không nghĩ việc ác; Làm việc thiện, nói lời tốt, giữ tâm
thiện hành trì.
chẳng qua là nhận thức diện mạo thân thể của người đó đại khái mà thôi, thì
biết được người đó là ai, sao lại có thể đem cả toàn thân, tay, chân, lông,
tóc… từng chỗ của người đó ra mà nhận cho rõ ràng? Học Phật tu hành – pháp
môn trì danh niệm Phật – cũng vậy, đâu có thể nào đem toàn bộ tam tạng kinh
điển ra mà giải cho rõ ràng? Có thể đem: năm giới, mười thiện, tự tâm thanh
tịnh, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, luật nhân quả đều đã rõ ràng,
chấp trì một câu danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, tức là đã tu hành. Nắm vào
tay từ sự tu thân, chánh tâm và trên thành ý, thân không làm việc ác, miệng
không nói lời ác, ý không nghĩ việc ác; Làm việc thiện, nói lời tốt, giữ tâm
thiện hành trì.
“Sự lý luận” trong Phật pháp, biết ít
không thành vấn đề, vấn đề là biết phương pháp tu hành.
không thành vấn đề, vấn đề là biết phương pháp tu hành.
PHƯƠNG PHÁP PHÁP MÔN TU TỊNH ĐỘ
(Trì danh Niệm Phật)
– Phát tâm: Phát bồ đề tâm.
– Tín – Nguyện – Hạnh đầy đủ. Thiếu một
thì chẳng thành.
thì chẳng thành.
– Chấp trì danh hiệu “Nam Mô A Di Đà
Phật”, một lòng chuyên niệm, chí thành khẩn thiết, hàng ngày niệm, hàng giờ
niệm, đến lúc lâm chung có Phật, nhất tâm bất loạn.
Phật”, một lòng chuyên niệm, chí thành khẩn thiết, hàng ngày niệm, hàng giờ
niệm, đến lúc lâm chung có Phật, nhất tâm bất loạn.
Phần sau đây là phần chung, không
luận bất cứ pháp môn nào, đều phải biết rõ ràng để ra sức tu hành:
luận bất cứ pháp môn nào, đều phải biết rõ ràng để ra sức tu hành:
– Tin về luật nhân quả một cách sâu xa.
– Tư tưởng và hành vi nên tuân theo
“Bát chánh đạo” mà hành trì.
“Bát chánh đạo” mà hành trì.
– Rõ thế nào là ác (chẳng làm các việc
ác), rõ thế nào là thiện, (vưng làm các việc thiện), rõ tâm như thế nào mới có
thể thanh tịnh (tự tịnh nơi tâm ý).
ác), rõ thế nào là thiện, (vưng làm các việc thiện), rõ tâm như thế nào mới có
thể thanh tịnh (tự tịnh nơi tâm ý).
– Nhẫn nhục.
– Tinh tấn.
– Ăn toàn chay.
– Làm được công đức nên hồi hướng.
– Phạm lỗi cần phải sám hối.
Tu trì pháp môn trì danh niệm Phật tức
là mấy câu nói như thế nầy sao? Quá đơn giản; Thế nhưng không nên coi nhỏ những
câu nói nầy! Nhìn thì giống như đơn giản, mà làm thì biết rồi, nếu chẳng cố
gắng công phu thích đáng, thì thật không dễ gì làm cho thông suốt! Vì người đời
nhiều kiếp vốn quen, lại thêm căn tánh kém cỏi nặng nề, tập khí (tâm bệnh xấu
xa) lại nhiều. Niệm Phật! Có người niệm lại thành ra “cầu ông thần tài”; Có
người ra công gấp rút để việc lợi đến gần, thấy không có cảm ứng thì chẳng niệm
nữa, trước thì siêng năng sau thì sa đọa; Có người cho là mười niệm hoặc sớm tối
chỉ niệm một niệm tức là đã niệm Phật, thì có thể vãng sanh Cực Lạc, mà chẳng
chịu niệm Phật nhiều, trong tâm không có Phật; Có người đã tu được mấy mươi
năm, mà còn bị chuyển bỡi hai cảnh thuận – nghịch, bị vây khổn vì tình, bị trói
buộc vì ái, ngay cả một chữ “tham” cũng tu hành không thông!
là mấy câu nói như thế nầy sao? Quá đơn giản; Thế nhưng không nên coi nhỏ những
câu nói nầy! Nhìn thì giống như đơn giản, mà làm thì biết rồi, nếu chẳng cố
gắng công phu thích đáng, thì thật không dễ gì làm cho thông suốt! Vì người đời
nhiều kiếp vốn quen, lại thêm căn tánh kém cỏi nặng nề, tập khí (tâm bệnh xấu
xa) lại nhiều. Niệm Phật! Có người niệm lại thành ra “cầu ông thần tài”; Có
người ra công gấp rút để việc lợi đến gần, thấy không có cảm ứng thì chẳng niệm
nữa, trước thì siêng năng sau thì sa đọa; Có người cho là mười niệm hoặc sớm tối
chỉ niệm một niệm tức là đã niệm Phật, thì có thể vãng sanh Cực Lạc, mà chẳng
chịu niệm Phật nhiều, trong tâm không có Phật; Có người đã tu được mấy mươi
năm, mà còn bị chuyển bỡi hai cảnh thuận – nghịch, bị vây khổn vì tình, bị trói
buộc vì ái, ngay cả một chữ “tham” cũng tu hành không thông!
Phàm là học tập một việc gì, cũng cần
phải rõ ràng mấy điểm sau: 1- Mục tiêu là gì? 2- Thế nào là có phương pháp hiệu
quả? 3- Những nổ lực đã trải qua kia, từ việc người có phương pháp hữu hiệu, đã
được thành quả thế nào?
phải rõ ràng mấy điểm sau: 1- Mục tiêu là gì? 2- Thế nào là có phương pháp hiệu
quả? 3- Những nổ lực đã trải qua kia, từ việc người có phương pháp hữu hiệu, đã
được thành quả thế nào?
Mục tiêu của pháp môn tu trì danh niệm
Phật là vãng sanh thế giới Cực Lạc – thành Phật! Chấp trì danh hiệu “Nam Mô A
Di Đà Phật”, cùng với trì giới, bố thí, thanh tịnh, tự tâm, nhẫn nhục, tinh
tấn, ăn toàn chay là phương pháp hữu hiệu; Trong “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục” đã
chép thuật sự tích của các bậc cao Tăng Đại đức vãng sanh, đó là thành quả, hơn
bốn mươi tám năm – tại Đài Loan – đã xuất bản quyển “Niệm Phật Cảm Ứng Kiến Văn
Ký” cũng là chứng minh cho thấy.
Phật là vãng sanh thế giới Cực Lạc – thành Phật! Chấp trì danh hiệu “Nam Mô A
Di Đà Phật”, cùng với trì giới, bố thí, thanh tịnh, tự tâm, nhẫn nhục, tinh
tấn, ăn toàn chay là phương pháp hữu hiệu; Trong “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục” đã
chép thuật sự tích của các bậc cao Tăng Đại đức vãng sanh, đó là thành quả, hơn
bốn mươi tám năm – tại Đài Loan – đã xuất bản quyển “Niệm Phật Cảm Ứng Kiến Văn
Ký” cũng là chứng minh cho thấy.
TÍN – HẠNH – NGUYỆN
Trì danh niệm Phật, Tín – Nguyện –
Hạnh, là ba món tư lương (lương thực để nuôi sống) rất quan trọng và rất cần
thiết của vấn đề vãng sanh, thiếu một thì chẳng được! Chẳng có “Tín” thì không
thể lập “Nguyện”, chẳng có nguyện thì không thể tuân hành lập “hạnh”. Chẳng có
“Hạnh” thì không thể chứng “Tín”, mà đầy đủ được “sở nguyện”.
Hạnh, là ba món tư lương (lương thực để nuôi sống) rất quan trọng và rất cần
thiết của vấn đề vãng sanh, thiếu một thì chẳng được! Chẳng có “Tín” thì không
thể lập “Nguyện”, chẳng có nguyện thì không thể tuân hành lập “hạnh”. Chẳng có
“Hạnh” thì không thể chứng “Tín”, mà đầy đủ được “sở nguyện”.
à TÍN, tức là “tín tâm” (chân tướng
tín), tin cõi Ta bà là biển khổ, đời người là khổ, khổ nhiều vui ít, tin lời
Phật chẳng luống dối hư huyễn, tin chắc chắn có thế giới Cực Lạc, tin chắc chắn
có Phật và Bồ tát, tin rằng ta chí thành chuyên nhất niệm Phật, thì lúc mạng
chung Đức Phật A Di Đà nhất định sẽ đến tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Ngay nơi tin thì chẳng được sinh nghi (lơ là), ngay nơi nghi thì không thể vãng
sanh! Tín tức là thái độ cung kính chân thành và niềm tin tuyệt đối; Nếu như
vừa muốn được lại vừa hoài nghi, thế thì không có hiệu quả. Tín tâm có bốn ý
nghĩa:
tín), tin cõi Ta bà là biển khổ, đời người là khổ, khổ nhiều vui ít, tin lời
Phật chẳng luống dối hư huyễn, tin chắc chắn có thế giới Cực Lạc, tin chắc chắn
có Phật và Bồ tát, tin rằng ta chí thành chuyên nhất niệm Phật, thì lúc mạng
chung Đức Phật A Di Đà nhất định sẽ đến tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Ngay nơi tin thì chẳng được sinh nghi (lơ là), ngay nơi nghi thì không thể vãng
sanh! Tín tức là thái độ cung kính chân thành và niềm tin tuyệt đối; Nếu như
vừa muốn được lại vừa hoài nghi, thế thì không có hiệu quả. Tín tâm có bốn ý
nghĩa:
1 – Tin Phật có công đức lợi ích bất
khả tư nghì.
khả tư nghì.
2 – Thường để tâm đối với Phật pháp.
3 – Thường hằng tư duy đạo tu hành, có
thể tô bồi thêm lên đức tốt tự lợi, lợi tha.
thể tô bồi thêm lên đức tốt tự lợi, lợi tha.
4 – Học tập đến nơi đến chốn đạo lớn
của Phật đà.
của Phật đà.
“Tín tâm” là căn bản của Phật đạo, suối
nguồn của đức tốt, nơi có thể làm tăng trưởng tất cả thiện hạnh, đoạn trừ tất
cả mê chướng, ra khỏi dòng lớn ham muốn; Vững chắc tín tâm, phát nguyện niệm
Phật. Cầu sanh về thế giới Cực Lạc, tín tâm cần phải kiên cố, chẳng nên lay
động tín tâm. Không luận là gặp tà kiến ngoại đạo, hay bất cứ tông phái nào,
nếu vui về ngũ dục, đều chẳng nên để cho bị nó làm lay động tín tâm.
nguồn của đức tốt, nơi có thể làm tăng trưởng tất cả thiện hạnh, đoạn trừ tất
cả mê chướng, ra khỏi dòng lớn ham muốn; Vững chắc tín tâm, phát nguyện niệm
Phật. Cầu sanh về thế giới Cực Lạc, tín tâm cần phải kiên cố, chẳng nên lay
động tín tâm. Không luận là gặp tà kiến ngoại đạo, hay bất cứ tông phái nào,
nếu vui về ngũ dục, đều chẳng nên để cho bị nó làm lay động tín tâm.
Tín tâm vững chắc không dời đổi, thì
nên xem xét tâm mình có đơn thuần hay không? Tâm càng đơn thuần thì càng có thể
hoàn toàn tiếp nhận được Phật pháp của Đức Phật dạy bảo chúng ta. Trong kinh
nói rằng:
nên xem xét tâm mình có đơn thuần hay không? Tâm càng đơn thuần thì càng có thể
hoàn toàn tiếp nhận được Phật pháp của Đức Phật dạy bảo chúng ta. Trong kinh
nói rằng:
“Phật pháp như biển lớn, tin là có thể
vào, trí là có thể độ”.
vào, trí là có thể độ”.
Như vậy đủ để chứng minh rằng nếu thiếu
tín tâm, thì không thể vào được pháp Phật. Có rất nhiều người qui y Tam bảo,
cũng trì danh niệm Phật, song niềm tin của họ lại tôn sùng ngoại đạo – loại tín
tâm nầy là “Bất chánh” (không chánh tín).
tín tâm, thì không thể vào được pháp Phật. Có rất nhiều người qui y Tam bảo,
cũng trì danh niệm Phật, song niềm tin của họ lại tôn sùng ngoại đạo – loại tín
tâm nầy là “Bất chánh” (không chánh tín).
à NGUYỆN, là “chơn nguyện”, ưa thích
Cực Lạc, nhàm chán Ta bà, nguyện mau ra khỏi thế giới khổ nầy, nguyện mau sanh
về thế giới Cực Lạc kia, nguyện tuân theo sự chiếu rọi của pháp Phật, tin chịu
vưng làm. Nếu còn tham luyến các việc: giàu có, danh tiếng, quyền thế, người
thân, vật chất hưởng thụ… như thế không phải là nhàm lìa thế giới nầy, mà là
tham luyến thế giới nầy.
Cực Lạc, nhàm chán Ta bà, nguyện mau ra khỏi thế giới khổ nầy, nguyện mau sanh
về thế giới Cực Lạc kia, nguyện tuân theo sự chiếu rọi của pháp Phật, tin chịu
vưng làm. Nếu còn tham luyến các việc: giàu có, danh tiếng, quyền thế, người
thân, vật chất hưởng thụ… như thế không phải là nhàm lìa thế giới nầy, mà là
tham luyến thế giới nầy.
à HẠNH (hành), là tu trì pháp Phật, tin
thọ phụng hành, đừng để niệm tạm quên, tu hành tận sức, chẳng gấp cầu lợi, nửa
đường bỏ cuộc, chẳng nhìn khác nghĩ lệch, thấu suốt mà làm. Hạnh thì cần phải
làm, chẳng phải niệm nói suông là ta học Phật tu hành mà thôi, tức là phải tu
dưỡng bằng công phu. Nếu không như thế, thì cũng giống như: Bánh vẽ mà no được
đói, trông trái mơ mà đỡ được khát sao?
thọ phụng hành, đừng để niệm tạm quên, tu hành tận sức, chẳng gấp cầu lợi, nửa
đường bỏ cuộc, chẳng nhìn khác nghĩ lệch, thấu suốt mà làm. Hạnh thì cần phải
làm, chẳng phải niệm nói suông là ta học Phật tu hành mà thôi, tức là phải tu
dưỡng bằng công phu. Nếu không như thế, thì cũng giống như: Bánh vẽ mà no được
đói, trông trái mơ mà đỡ được khát sao?
Do đó, niệm Phật cần phải phát tâm lâu
dài, rời xa tất cả tâm tạp nhiễm, tâm nghi ngờ, tâm kiêu xa… cố gắng ráng sức
tu hành như thế, vãng sanh Cực Lạc là lẽ đương nhiên, là điều phải đến.
dài, rời xa tất cả tâm tạp nhiễm, tâm nghi ngờ, tâm kiêu xa… cố gắng ráng sức
tu hành như thế, vãng sanh Cực Lạc là lẽ đương nhiên, là điều phải đến.
Tín – Hạnh – Nguyện, nếu như có tín mà
không có nguyện, là biết có chỗ đến tốt mà không nguyện đến, cũng là uổng vậy.
Có nguyện mà không có hạnh, cũng như phiếu chi mà không có đầu, chẳng giúp được
gì đối với công việc. Ba việc Tín – Hạnh – Nguyện, là lấy tín và nguyện để lập
hạnh (hành), lấy hạnh để thực hiện tín và nguyện.
không có nguyện, là biết có chỗ đến tốt mà không nguyện đến, cũng là uổng vậy.
Có nguyện mà không có hạnh, cũng như phiếu chi mà không có đầu, chẳng giúp được
gì đối với công việc. Ba việc Tín – Hạnh – Nguyện, là lấy tín và nguyện để lập
hạnh (hành), lấy hạnh để thực hiện tín và nguyện.
Người thực hành niệm Phật, tu tập thiện
pháp không được sinh nghi, nếu không tín tâm thì nguyện và hạnh không từ đâu
khởi, tức là thiếu mất một sức lực tinh thần mạnh mẽ để tiến thẳng về trước.
Người nghi ngờ, bị sự nghi che tâm, ở trong các pháp không được tín tâm, vì
không có tín tâm nên ở trong sự niệm Phật thật không được gì.
pháp không được sinh nghi, nếu không tín tâm thì nguyện và hạnh không từ đâu
khởi, tức là thiếu mất một sức lực tinh thần mạnh mẽ để tiến thẳng về trước.
Người nghi ngờ, bị sự nghi che tâm, ở trong các pháp không được tín tâm, vì
không có tín tâm nên ở trong sự niệm Phật thật không được gì.
Một người có “nghi kiến” (thấy nghi
ngờ), tức đối với chân lý chắc thật sinh lòng hoài nghi do dự. Chúng ta có thể
tin chắc niệm Phật tức là nhân duyên phước đức thiện căn rất nhiều. Chúng ta
phải nên đừng tin tà kiến, chẳng nghe tà thuyết, cần khởi chánh tín để chế ngự
tâm nghi, bỡi nghi là cấu uế, là mờ mịt, là chướng ngại.
ngờ), tức đối với chân lý chắc thật sinh lòng hoài nghi do dự. Chúng ta có thể
tin chắc niệm Phật tức là nhân duyên phước đức thiện căn rất nhiều. Chúng ta
phải nên đừng tin tà kiến, chẳng nghe tà thuyết, cần khởi chánh tín để chế ngự
tâm nghi, bỡi nghi là cấu uế, là mờ mịt, là chướng ngại.
Niệm Phật đối với lúc lâm chung, người
xưa đã đưa ra ba nghi cần phải đoạn dứt:
xưa đã đưa ra ba nghi cần phải đoạn dứt:
1 – Nghi rằng đời ta tạo tội rất nặng,
hàng ngày tu hành cạn cợt, e rằng không được vãng sanh.
hàng ngày tu hành cạn cợt, e rằng không được vãng sanh.
2 – Nghi tâm nguyện của ta chưa rõ và
tham – sân – si chưa dứt, e rằng không được vãng sanh.
tham – sân – si chưa dứt, e rằng không được vãng sanh.
3 – Nghi rằng ta tuy niệm Phật, lúc lâm
chung, Phật chẳng đến đón ta.
chung, Phật chẳng đến đón ta.
Nếu có một trong ba nghi nầy, thì nhân
nơi nghi mà sinh chướng, mất đi chánh niệm, chẳng được vãng sanh.
nơi nghi mà sinh chướng, mất đi chánh niệm, chẳng được vãng sanh.
Nay đây đưa ra cách trừ ba nghi, để mà
tham khảo:
tham khảo:
1 – Gốc của nghiệp luống mê muội, tâm
tịnh thì được rỗng rang, nghiệp nặng bất tất nghi ngờ vậy.
tịnh thì được rỗng rang, nghiệp nặng bất tất nghi ngờ vậy.
2 – Tình cũng như mộng huyễn, ngủ thức
dậy đâu còn? Tự chịu dừng nghỉ, thì tham sân si dứt, bất tất nghi ngờ.
dậy đâu còn? Tự chịu dừng nghỉ, thì tham sân si dứt, bất tất nghi ngờ.
3 – Chấp cái gì mà sinh phiền não? Tất
cả chúng sinh chấp trước các pháp thế gian là có thật, đâu biết rằng các pháp
xưa nay đều là hư vọng, như hoa đóm giữa hư không, trăng trong nước, cảnh trong
mộng, như bóng như huyễn, đều chẳng thật. Qua sông thì dùng bè, đã đến bờ kia,
vát bè làm gì? Tức là phải bỏ đi! Sau khi đã tin chẳng nên nghi ngờ trở lại.
cả chúng sinh chấp trước các pháp thế gian là có thật, đâu biết rằng các pháp
xưa nay đều là hư vọng, như hoa đóm giữa hư không, trăng trong nước, cảnh trong
mộng, như bóng như huyễn, đều chẳng thật. Qua sông thì dùng bè, đã đến bờ kia,
vát bè làm gì? Tức là phải bỏ đi! Sau khi đã tin chẳng nên nghi ngờ trở lại.
Ngày nay thời mạt pháp, chướng duyên
đặc biệt nhiều, chính là lúc quần ma múa may, người thực hành niệm Phật phải
mọi lúc thường xuyên đề cao cảnh giác – Cổ đức đã chỉ bày, lược nêu ra mấy cách
để tham khảo:
đặc biệt nhiều, chính là lúc quần ma múa may, người thực hành niệm Phật phải
mọi lúc thường xuyên đề cao cảnh giác – Cổ đức đã chỉ bày, lược nêu ra mấy cách
để tham khảo:
1 – Tin không hết lòng; Lòng tin sâu xa
rất là trọng yếu, tất có thể sinh năng lực hành đạo, chánh tín niệm Phật, lìa
khổ được vui, đồng thời cũng cần hiểu biết chân chánh, chẳng dao động, chẳng
sinh nghi hoặc, tâm thanh tịnh không nghi không cấu uế.
rất là trọng yếu, tất có thể sinh năng lực hành đạo, chánh tín niệm Phật, lìa
khổ được vui, đồng thời cũng cần hiểu biết chân chánh, chẳng dao động, chẳng
sinh nghi hoặc, tâm thanh tịnh không nghi không cấu uế.
2 – Nguyện chẳng thiết tha; Phát nguyện
thì nên nhất niệm thành khẩn, phát tâm vô thượng, tâm độ chúng sinh, hạnh phước
chư Phật là “lục độ vạn hạnh”, thảy đều hồi hướng mà cầu sanh về thế giới Cực
Lạc.
thì nên nhất niệm thành khẩn, phát tâm vô thượng, tâm độ chúng sinh, hạnh phước
chư Phật là “lục độ vạn hạnh”, thảy đều hồi hướng mà cầu sanh về thế giới Cực
Lạc.
3 – Hạnh không mạnh mẽ; Do tín nguyện
phát ra phối họp với lực hạnh, lúc niệm Phật giống như chiến đấu với ma, tinh
thần phải mạnh mẽ, có sức bền chí và có thể siêng năng khổ nhọc.
phát ra phối họp với lực hạnh, lúc niệm Phật giống như chiến đấu với ma, tinh
thần phải mạnh mẽ, có sức bền chí và có thể siêng năng khổ nhọc.
4 – Mặc niệm lơ là; Niệm Phật quan
trọng hàng đầu là nhắc bảo cố gắng siêng năng, mới được lực niệm; Giả sử tâm
không chuyên chú, thì lực không đầy đủ, khó địch lại “nghiệp tập khí” từ nhiều
đời, cho nên ở trong mỗi niệm chẳng quên công đức đại nguyện thành Phật.
trọng hàng đầu là nhắc bảo cố gắng siêng năng, mới được lực niệm; Giả sử tâm
không chuyên chú, thì lực không đầy đủ, khó địch lại “nghiệp tập khí” từ nhiều
đời, cho nên ở trong mỗi niệm chẳng quên công đức đại nguyện thành Phật.
5 – Tâm duyên việc đời; Việc đời như
dây trói buộc, cho nên nói tình đời bàn một phần, Phật pháp tự có một phần đắc
lực, nên lần lược mà cải tiến; Nói rằng tuổi trẻ dễ đi qua, năm tháng không ở
lại, đừng lãng phí thời gian, nên tự mình củng cố, muôn duyên đều buông rời.
dây trói buộc, cho nên nói tình đời bàn một phần, Phật pháp tự có một phần đắc
lực, nên lần lược mà cải tiến; Nói rằng tuổi trẻ dễ đi qua, năm tháng không ở
lại, đừng lãng phí thời gian, nên tự mình củng cố, muôn duyên đều buông rời.
6 – Yêu ghét chẳng trừ; Phàm phu phân
biệt, tập khí nặng nề, cần nên đọc nhiều “Cao tăng truyện”, để mở mang trí tuệ,
vì hai tâm yêu – ghét đều là nhơ, không yêu thì không tham, không ghét thì
không sân.
biệt, tập khí nặng nề, cần nên đọc nhiều “Cao tăng truyện”, để mở mang trí tuệ,
vì hai tâm yêu – ghét đều là nhơ, không yêu thì không tham, không ghét thì
không sân.
7 – Phân tâm; Mỗi người đều có sự hứng
thú và tự hào, dễ chuốt lấy sự phân tâm, chẳng thể chuyên nhất, là điều đại kỵ
cho người tu hành, ngay nơi niệm sinh tử, như cứu lửa cháy đầu, chuyên niệm A
Di Đà Phật khiến thành tam muội, lúc lâm chung chánh niệm, quyết định vãng
sanh, gặp Phật được “Vô sanh pháp nhẫn”, trở lại ba cõi cứu độ chúng sinh.
thú và tự hào, dễ chuốt lấy sự phân tâm, chẳng thể chuyên nhất, là điều đại kỵ
cho người tu hành, ngay nơi niệm sinh tử, như cứu lửa cháy đầu, chuyên niệm A
Di Đà Phật khiến thành tam muội, lúc lâm chung chánh niệm, quyết định vãng
sanh, gặp Phật được “Vô sanh pháp nhẫn”, trở lại ba cõi cứu độ chúng sinh.
8 – Đề cập kinh điển trong ngoài; Chúng
ta nghe có nhiều nhà lý luận tự cho là tài học của mình phong phú, thật thì lúc
lâm chung niệm Phật vãng sanh không họp như sự hiểu biết, hoặc người khinh mạn
thì tâm nhơ vẫn vậy, tạp nhiễm lăng xăng tâm chẳng an ổn, không thể liễu thoát
sinh tử.
ta nghe có nhiều nhà lý luận tự cho là tài học của mình phong phú, thật thì lúc
lâm chung niệm Phật vãng sanh không họp như sự hiểu biết, hoặc người khinh mạn
thì tâm nhơ vẫn vậy, tạp nhiễm lăng xăng tâm chẳng an ổn, không thể liễu thoát
sinh tử.
9 – Nghe các lời tạp loạn; Đây là bệnh
chung của mọi người, nên biết lời vô nghĩa là hí luận, cho đến những chuyện
nhân – ngã, phải – quấy, toàn bộ phát ra những lời lung tung, hoặc những lời
búa rìu loạn xạ, sao chẳng làm tổn thương người ư? – Nên cẩn thận!
chung của mọi người, nên biết lời vô nghĩa là hí luận, cho đến những chuyện
nhân – ngã, phải – quấy, toàn bộ phát ra những lời lung tung, hoặc những lời
búa rìu loạn xạ, sao chẳng làm tổn thương người ư? – Nên cẩn thận!
Pháp môn tịnh độ – Trì danh niệm Phật,
khó tin nhưng dễ làm, lý khó giải; Kinh “Phật Thuyết A Di Đà” nói rằng:
khó tin nhưng dễ làm, lý khó giải; Kinh “Phật Thuyết A Di Đà” nói rằng:
“Niệm Phật pháp môn là pháp khó tin
của thế gian”.
của thế gian”.
Có thể nói rằng phát tâm niệm Phật cũng
chẳng phải là đơn giản, ứng với tín và nguyện gọp lại để tiến bộ, niệm niệm là
Phật, để mà thoát sinh tử. Niệm Phật lấy TÍN tâm làm NHẤT tâm, có NGUYỆN thì
bèn có được định HƯỚNG mục tiêu, thì HẠNH có LỰC; như thế không sợ khốn khó,
mặc cho người nào châm chọc coi thường, vì sao vậy? Vì lúc nầy tâm niệm Phật,
chẳng bị cảnh chuyển, danh hiệu Phật chẳng dứt, chỉ cầu nhất tâm bất loạn, tâm
và Phật đồng ở một nơi, mỗi việc làm (mỗi công hạnh) đều niệm Phật, như thế có
thời gian đâu mà để ý đến sự chua ngọt, lạnh nóng!
chẳng phải là đơn giản, ứng với tín và nguyện gọp lại để tiến bộ, niệm niệm là
Phật, để mà thoát sinh tử. Niệm Phật lấy TÍN tâm làm NHẤT tâm, có NGUYỆN thì
bèn có được định HƯỚNG mục tiêu, thì HẠNH có LỰC; như thế không sợ khốn khó,
mặc cho người nào châm chọc coi thường, vì sao vậy? Vì lúc nầy tâm niệm Phật,
chẳng bị cảnh chuyển, danh hiệu Phật chẳng dứt, chỉ cầu nhất tâm bất loạn, tâm
và Phật đồng ở một nơi, mỗi việc làm (mỗi công hạnh) đều niệm Phật, như thế có
thời gian đâu mà để ý đến sự chua ngọt, lạnh nóng!
Người sơ tâm học Phật, thì còn tâm nghi
tà kiến, tập khí của tánh tình. Nếu bỏ tà liền được chánh, bỏ nghi liền được
chơn, chỉ như thế nầy mới có thể thành tựu được tín – nguyện, khắc phục tánh sa
đọa tức có thể khổ nhọc, diệt tập khí tức ngược lại là thanh tịnh; Là chơn,
siêng năng, thanh tịnh, như thế thành lập tín tâm. Nếu cầu sinh về tịnh độ Cực
Lạc ở phương tây, Tín – Nguyện – Hạnh mà thiếu một thì không thể được. Vãng
sanh hay không, chỉ cần hỏi rằng có Tín – Nguyện hay không? Phẩm vị cao thấp,
thì nhìn ngay nơi công phu (hạnh) niệm Phật sâu hay cạn?
tà kiến, tập khí của tánh tình. Nếu bỏ tà liền được chánh, bỏ nghi liền được
chơn, chỉ như thế nầy mới có thể thành tựu được tín – nguyện, khắc phục tánh sa
đọa tức có thể khổ nhọc, diệt tập khí tức ngược lại là thanh tịnh; Là chơn,
siêng năng, thanh tịnh, như thế thành lập tín tâm. Nếu cầu sinh về tịnh độ Cực
Lạc ở phương tây, Tín – Nguyện – Hạnh mà thiếu một thì không thể được. Vãng
sanh hay không, chỉ cần hỏi rằng có Tín – Nguyện hay không? Phẩm vị cao thấp,
thì nhìn ngay nơi công phu (hạnh) niệm Phật sâu hay cạn?
CHẲNG TƯƠNG ƯNG: Bỡi tín tâm chẳng
vững, lúc còn lúc mất, chẳng chắc chắn.
vững, lúc còn lúc mất, chẳng chắc chắn.
TÍN TÂM CHẲNG CHUYÊN NHẤT: Bỡi không
có sức quyết định, chẳng chịu dốc lòng hết sức mà hạ quyết chí công phu.
có sức quyết định, chẳng chịu dốc lòng hết sức mà hạ quyết chí công phu.
TÍN TÂM CHẲNG LIÊN TỤC: Bỡi tâm tưởng
bị gián đoạn, niệm Phật bị gián đoạn.
bị gián đoạn, niệm Phật bị gián đoạn.
TÍN TÂM CHẲNG CHÁNH: Thay đổi bất
thường, gặp sao hay vậy, đã cần tham Thiền, lại muốn học Mật, muốn gom chung
hết vào một điểm mới chịu; Hoặc bị tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngủ dẫn
dắt, nếu người để ở trong lòng, thì lập tức sai lầm.
thường, gặp sao hay vậy, đã cần tham Thiền, lại muốn học Mật, muốn gom chung
hết vào một điểm mới chịu; Hoặc bị tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngủ dẫn
dắt, nếu người để ở trong lòng, thì lập tức sai lầm.
Pháp môn niệm Phật không có gì đặc biệt
diệu kỳ tốt đẹp bằng, chỉ cần ba món tư lương: tin sâu, nguyện thiết tha, ra
sức công hạnh được đầy đủ, thì lúc mạng chung tâm sẽ không thể điên đảo, tức
được Đức Phật A Di Đà hiện thân tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc, liễu thoát sinh tử,
chóng thành Phật đạo. Chúng ta nếu quả phát tâm niệm Phật đầy đủ ba món tư
lương (tín – nguyện – hạnh), thì có thể ba nghiệp thanh tịnh – lúc niệm Phật,
mỗi niệm chấp trì một câu danh hiệu Phật, niệm trụ một chỗ, lấy một niệm mà
đình chỉ muôn niệm, tức ý nghiệp thanh tịnh; Hai nghiệp thân và miệng đều theo
ý nghiệp dắt dẫn sai khiến, ý nghiệp tịnh thì thân không làm vọng, tức thân
nghiệp tịnh; Miệng niệm hiệu Phật tức miệng thanh tịnh, Chúng ta đã vì phát tâm
tu hành, trì danh niệm Phật, muốn rõ thoát sinh tử thì chắc chắn phải đầy đủ ba
món tư lương: tín – nguyện – hạnh.
diệu kỳ tốt đẹp bằng, chỉ cần ba món tư lương: tin sâu, nguyện thiết tha, ra
sức công hạnh được đầy đủ, thì lúc mạng chung tâm sẽ không thể điên đảo, tức
được Đức Phật A Di Đà hiện thân tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc, liễu thoát sinh tử,
chóng thành Phật đạo. Chúng ta nếu quả phát tâm niệm Phật đầy đủ ba món tư
lương (tín – nguyện – hạnh), thì có thể ba nghiệp thanh tịnh – lúc niệm Phật,
mỗi niệm chấp trì một câu danh hiệu Phật, niệm trụ một chỗ, lấy một niệm mà
đình chỉ muôn niệm, tức ý nghiệp thanh tịnh; Hai nghiệp thân và miệng đều theo
ý nghiệp dắt dẫn sai khiến, ý nghiệp tịnh thì thân không làm vọng, tức thân
nghiệp tịnh; Miệng niệm hiệu Phật tức miệng thanh tịnh, Chúng ta đã vì phát tâm
tu hành, trì danh niệm Phật, muốn rõ thoát sinh tử thì chắc chắn phải đầy đủ ba
món tư lương: tín – nguyện – hạnh.
Phật pháp chú trọng giảng nghĩa rốt
ráo, nêu lý thì cần sự thấu đáo rõ ràng, luận sự thì cần phải triệt để không
nên lấp lửng một nửa. Giảng nhân quả nếu chẳng rõ ràng lý nghiệp báo luân hồi,
thì không thấu rõ; Giảng Từ bi nếu chẳng phổ cập việc chúng sinh thì chẳng
triệt để; Mà vả lại hành thiện bỏ ác nếu chỉ nói suông lẽ đương nhiên của
nghĩa, chẳng tin sự thật quả báo luân hồi, tâm ngăn ngừa, sợ sệt, cẩn thận, nếu
không có, chẳng thể chân chánh thiết tha mà làm việc, thì khó tránh khỏi việc
phô bày tự khi dối.
ráo, nêu lý thì cần sự thấu đáo rõ ràng, luận sự thì cần phải triệt để không
nên lấp lửng một nửa. Giảng nhân quả nếu chẳng rõ ràng lý nghiệp báo luân hồi,
thì không thấu rõ; Giảng Từ bi nếu chẳng phổ cập việc chúng sinh thì chẳng
triệt để; Mà vả lại hành thiện bỏ ác nếu chỉ nói suông lẽ đương nhiên của
nghĩa, chẳng tin sự thật quả báo luân hồi, tâm ngăn ngừa, sợ sệt, cẩn thận, nếu
không có, chẳng thể chân chánh thiết tha mà làm việc, thì khó tránh khỏi việc
phô bày tự khi dối.
Học Phật tu hành cần phải như pháp mà
phụng hành, cần phải khởi lên từ gốc rễ tâm địa sự tiêu trừ nhân ác.
phụng hành, cần phải khởi lên từ gốc rễ tâm địa sự tiêu trừ nhân ác.
Phật pháp tu hành như thế nào? Nói một
cách đơn giản là: Chế phục mình, làm theo lễ, lòng nhân từ, yêu thương vật, chỉ
cần thành khẩn là thật lòng, thật làm, chẳng được phô diễn dối gạt chính mình.
cách đơn giản là: Chế phục mình, làm theo lễ, lòng nhân từ, yêu thương vật, chỉ
cần thành khẩn là thật lòng, thật làm, chẳng được phô diễn dối gạt chính mình.
Học Phật tu hành do khởi tín mà vào
cửa, quí ở chỗ thực hành; Như giới sát là việc cần thiết thứ nhất của người học
Phật, mới học chưa thể dứt tuyệt, thì cũng nên mỗi ngày ăn ít một chút, lần hồi
mới có thể dứt được, chẳng tham theo khẩu vị, trong nhà không sát sinh mà lấy
tiền mua sắm, cũng khiến cho lò mổ sát hại, cũng nên hỏi lòng không thể nào
chẳng chia ra gánh vát lỗi đó. Lại học Phật chú trọng khả năng bố thí; Bố thí
một là có thể nuôi lớn tâm từ bi hỷ xả. Hai là có thể phá trừ thói quen (tập
khí) phiền não tham lam keo kiệt. Cần phải được sự lợi ích thực tế của Phật
pháp, nếu chẳng trừ tham – keo, tâm so đo chấp lấy sẽ nổi lên hừng hực, thì tâm
từ bi chắc chắn là không chân thật. Mà vả lại tham muốn là gốc khổ của sinh tử,
cội nguồn của phiền não. Nếu muốn tìm cách tránh hung, lìa khổ được vui, mà
không gắng sức trừ bỏ hai chữ “tham muốn”, thì không có thể giải quyết được!
Nếu muốn trừ bỏ tâm tham muốn, trước nhất từ sự bắt tay làm việc bố thí. Bố thí
là chế phục mình quên đi công lao của mình, và thí nghiệm tâm đại bi; Nếu tâm
Từ bi thiết tha, chế phục mình mà bố thí, là bỡi chúng sinh, thì thân cũng còn
có thể xả bỏ. Đâu có thể sát hại sinh mạng để mà khoái miệng mình! Đâu chịu lấy
tiền bạc của vật uổng phí để vui cho ý mình! Đâu chịu keo kiệt để giữ vật cho
mình chẳng dùng để giúp người, thì đâu chịu cung phụng cho thật hậu hĩ, coi
thường người khổ! Cho nên công phu thực hành, trước nhất là phải xét nét trên
việc bố thí, nếu ở đây mà làm mang tính cách phô diễn, thì khó mong có được
thành tích tốt. Kinh Phật nói rằng: “Nhân nếu không chơn, thì quả chuốt lấy
bị cong vạy”. Công đức của bố thí nguyên chẳng phải là ở chỗ lớn – nhỏ,
nhiều – ít, mà toàn là nhìn vào lúc phát tâm, ngày thường như thế nào giữ tâm?
Sự liên quan nầy cần phải thành khẩn. Nếu ngày thường tham lận phóng túng, cho
đến trong nhà có bệnh khổ nguy cấp, nhằm lúc ấy lạy Phật hứa nguyện, quyên tiền
thí giúp, cầu bệnh mau tiêu tai, những việc bố thí nầy không có chút nào phát
ra từ tâm chân thật Từ bi, làm sao có thể có được sự cảm ứng.
cửa, quí ở chỗ thực hành; Như giới sát là việc cần thiết thứ nhất của người học
Phật, mới học chưa thể dứt tuyệt, thì cũng nên mỗi ngày ăn ít một chút, lần hồi
mới có thể dứt được, chẳng tham theo khẩu vị, trong nhà không sát sinh mà lấy
tiền mua sắm, cũng khiến cho lò mổ sát hại, cũng nên hỏi lòng không thể nào
chẳng chia ra gánh vát lỗi đó. Lại học Phật chú trọng khả năng bố thí; Bố thí
một là có thể nuôi lớn tâm từ bi hỷ xả. Hai là có thể phá trừ thói quen (tập
khí) phiền não tham lam keo kiệt. Cần phải được sự lợi ích thực tế của Phật
pháp, nếu chẳng trừ tham – keo, tâm so đo chấp lấy sẽ nổi lên hừng hực, thì tâm
từ bi chắc chắn là không chân thật. Mà vả lại tham muốn là gốc khổ của sinh tử,
cội nguồn của phiền não. Nếu muốn tìm cách tránh hung, lìa khổ được vui, mà
không gắng sức trừ bỏ hai chữ “tham muốn”, thì không có thể giải quyết được!
Nếu muốn trừ bỏ tâm tham muốn, trước nhất từ sự bắt tay làm việc bố thí. Bố thí
là chế phục mình quên đi công lao của mình, và thí nghiệm tâm đại bi; Nếu tâm
Từ bi thiết tha, chế phục mình mà bố thí, là bỡi chúng sinh, thì thân cũng còn
có thể xả bỏ. Đâu có thể sát hại sinh mạng để mà khoái miệng mình! Đâu chịu lấy
tiền bạc của vật uổng phí để vui cho ý mình! Đâu chịu keo kiệt để giữ vật cho
mình chẳng dùng để giúp người, thì đâu chịu cung phụng cho thật hậu hĩ, coi
thường người khổ! Cho nên công phu thực hành, trước nhất là phải xét nét trên
việc bố thí, nếu ở đây mà làm mang tính cách phô diễn, thì khó mong có được
thành tích tốt. Kinh Phật nói rằng: “Nhân nếu không chơn, thì quả chuốt lấy
bị cong vạy”. Công đức của bố thí nguyên chẳng phải là ở chỗ lớn – nhỏ,
nhiều – ít, mà toàn là nhìn vào lúc phát tâm, ngày thường như thế nào giữ tâm?
Sự liên quan nầy cần phải thành khẩn. Nếu ngày thường tham lận phóng túng, cho
đến trong nhà có bệnh khổ nguy cấp, nhằm lúc ấy lạy Phật hứa nguyện, quyên tiền
thí giúp, cầu bệnh mau tiêu tai, những việc bố thí nầy không có chút nào phát
ra từ tâm chân thật Từ bi, làm sao có thể có được sự cảm ứng.
TU HÀNH KHÔNG ĐƯỢC DO DỰ
Người đời nghiệp ngày trước tạo ra có
thiện có ác, thiện ác lộn xộn nhau không rõ ràng; Có lúc sinh khởi thiện tâm,
có lúc lại sinh ra ác niệm. Do từ vô lượng kiếp đến hôm nay đây bỡi những vấn
đề thiện ác nầy, nên ngay lúc tu hành cũng chẳng dễ dẹp thoát được nghiệp báo;
Bỡi vậy có lúc muốn tu hành, có lúc lại nói rằng cuộc sống hiện tại tốt đẹp, có
lúc muốn tu hành, có lúc lại phải nhiễm ô, đây đều là do niệm sinh ra ở ngày
trước, mà đời nầy kết lấy quả nầy. Niệm trước muốn tu hành, niệm sau lại cần cầu
phú quí vinh hoa, phước báo trời người, cuộc sống hiện tại có ý nghĩa; Như vậy
thì làm thế nào? – “Lựa việc thiện mà theo, chẳng thiện thì sửa đổi”. Cần phải
từng lúc mà đề cao cảnh giác, như đi vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, cần có
tâm cẩn thận như thế nầy để tu hành. Cho nên tu hành là: “Cử động hành vi tự
quản lý, đi đứng ngồi nằm chẳng lìa niệm”. Cần nên mỗi niệm đều thanh tịnh, mỗi
niệm đều sáng suốt, không nên mỗi niệm nhiễm ô và tối tăm. Chúng ta mỗi một
niệm đều cần phải rất là cẩn thận, mỗi một niệm thiện thì sáng suốt rất nhiều,
nhưng nếu là niệm ác, thì càng niệm càng tối tăm. Trên đầu người thiện có luồng
“bạch quang”, trên đầu người ác có luồng “hắc khí”; cho nên làm thiện làm ác,
tự nhiên sẽ hiện ra hình tướng, ta cũng có thể nhìn thấy được người, nhưng nhìn
không rõ bằng chư Phật, Bồ tát và quỉ thần.
thiện có ác, thiện ác lộn xộn nhau không rõ ràng; Có lúc sinh khởi thiện tâm,
có lúc lại sinh ra ác niệm. Do từ vô lượng kiếp đến hôm nay đây bỡi những vấn
đề thiện ác nầy, nên ngay lúc tu hành cũng chẳng dễ dẹp thoát được nghiệp báo;
Bỡi vậy có lúc muốn tu hành, có lúc lại nói rằng cuộc sống hiện tại tốt đẹp, có
lúc muốn tu hành, có lúc lại phải nhiễm ô, đây đều là do niệm sinh ra ở ngày
trước, mà đời nầy kết lấy quả nầy. Niệm trước muốn tu hành, niệm sau lại cần cầu
phú quí vinh hoa, phước báo trời người, cuộc sống hiện tại có ý nghĩa; Như vậy
thì làm thế nào? – “Lựa việc thiện mà theo, chẳng thiện thì sửa đổi”. Cần phải
từng lúc mà đề cao cảnh giác, như đi vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, cần có
tâm cẩn thận như thế nầy để tu hành. Cho nên tu hành là: “Cử động hành vi tự
quản lý, đi đứng ngồi nằm chẳng lìa niệm”. Cần nên mỗi niệm đều thanh tịnh, mỗi
niệm đều sáng suốt, không nên mỗi niệm nhiễm ô và tối tăm. Chúng ta mỗi một
niệm đều cần phải rất là cẩn thận, mỗi một niệm thiện thì sáng suốt rất nhiều,
nhưng nếu là niệm ác, thì càng niệm càng tối tăm. Trên đầu người thiện có luồng
“bạch quang”, trên đầu người ác có luồng “hắc khí”; cho nên làm thiện làm ác,
tự nhiên sẽ hiện ra hình tướng, ta cũng có thể nhìn thấy được người, nhưng nhìn
không rõ bằng chư Phật, Bồ tát và quỉ thần.
Không luận là người xuất gia hay tại
gia, không nên không chỉ có chẳng lập công ở trong Phật giáo, mà ngược lại tạo
nghiệp tội, cần phải biết vì sao từ vô thỉ kiếp đến nay, tóm lại là không thể
thoát lìa được cái khổ luân hồi, vẫn là bị mờ mờ mịt mịt! Lại tính toán hồ đồ
không trong sáng, thị – phi lộn xộn, nửa nầy nửa nọ thanh tịnh và ô nhiễm (cho
đến nỗi có lúc bình thường tu hành mà mất niệm – muốn niệm Phật cũng chẳng được
– thậm chí có người khác ở trong thời gian niệm Phật mà anh cũng không biết
niệm cùng họ), cho nên không vượt được luân hồi. Chúng ta nếu chân chánh tu
hành, muốn sinh thế giới Cực Lạc, thì trước khi chưa vãng sanh, nhất định cần
phải tinh tấn mạnh mẽ, không nên biếng nhát, phô bày, tản mạn, đối phó cho qua
việc.
gia, không nên không chỉ có chẳng lập công ở trong Phật giáo, mà ngược lại tạo
nghiệp tội, cần phải biết vì sao từ vô thỉ kiếp đến nay, tóm lại là không thể
thoát lìa được cái khổ luân hồi, vẫn là bị mờ mờ mịt mịt! Lại tính toán hồ đồ
không trong sáng, thị – phi lộn xộn, nửa nầy nửa nọ thanh tịnh và ô nhiễm (cho
đến nỗi có lúc bình thường tu hành mà mất niệm – muốn niệm Phật cũng chẳng được
– thậm chí có người khác ở trong thời gian niệm Phật mà anh cũng không biết
niệm cùng họ), cho nên không vượt được luân hồi. Chúng ta nếu chân chánh tu
hành, muốn sinh thế giới Cực Lạc, thì trước khi chưa vãng sanh, nhất định cần
phải tinh tấn mạnh mẽ, không nên biếng nhát, phô bày, tản mạn, đối phó cho qua
việc.
Tu hành, là mọi người cần phải làm cho
được sự nuôi dưỡng bằng phẩm hạnh và đạo đức, không chỉ là không thể thiếu việc
nổ lực hướng thượng, mà còn là việc phải thực hành của một số người trong nẻo
mê. Tu dưỡng phẩm hạnh đạo đức, có thể khiến cho tư tưởng cân bằng, hành vi
được sửa đổi, tâm hướng thiện, hướng về sự tốt đẹp. Ngược lại nếu lúc bình
thường không chú trọng việc tu thân và lề lối chính mình, thì sẽ dẫn đến thành
một con người có hành vi tùy tiện, chỉ chăm vào việc tự lợi riêng tư, không
thèm để ý đến sự sống chết của kẻ khác; Do đó sửa đổi hành vi một con người,
hoàn toàn ở tại tâm – TÂM TỊNH – có thể nói rằng cảnh giới cao nhất thăng tiến
tinh thần, cũng ở ngay nơi người đời. Đối xử với sự cạnh tranh, cuộc sống, ham
muốn nhiều ở trong xã hội, lại cần có sự tu sửa hành vi như thế nầy; Nó có thể
khiến cho người ta không tìm cầu mù quáng, chẳng khởi tà niệm, ít dục vọng,
biết vừa đủ là đầy đủ, trong vui vẻ giúp người cứu người. Nhưng tu dưỡng tâm
cảnh nầy thật chẳng phải là dễ làm được, cần phải chính mình trong cuộc sống
ngày thường tu trì nhiều mặt, không được hư ngụy, chẳng cố tình làm ra vẻ,
trong ngoài một mối, mỗi lúc làm được việc gì thì lại tuần tự dần đưa vào cảnh
tốt đẹp.
được sự nuôi dưỡng bằng phẩm hạnh và đạo đức, không chỉ là không thể thiếu việc
nổ lực hướng thượng, mà còn là việc phải thực hành của một số người trong nẻo
mê. Tu dưỡng phẩm hạnh đạo đức, có thể khiến cho tư tưởng cân bằng, hành vi
được sửa đổi, tâm hướng thiện, hướng về sự tốt đẹp. Ngược lại nếu lúc bình
thường không chú trọng việc tu thân và lề lối chính mình, thì sẽ dẫn đến thành
một con người có hành vi tùy tiện, chỉ chăm vào việc tự lợi riêng tư, không
thèm để ý đến sự sống chết của kẻ khác; Do đó sửa đổi hành vi một con người,
hoàn toàn ở tại tâm – TÂM TỊNH – có thể nói rằng cảnh giới cao nhất thăng tiến
tinh thần, cũng ở ngay nơi người đời. Đối xử với sự cạnh tranh, cuộc sống, ham
muốn nhiều ở trong xã hội, lại cần có sự tu sửa hành vi như thế nầy; Nó có thể
khiến cho người ta không tìm cầu mù quáng, chẳng khởi tà niệm, ít dục vọng,
biết vừa đủ là đầy đủ, trong vui vẻ giúp người cứu người. Nhưng tu dưỡng tâm
cảnh nầy thật chẳng phải là dễ làm được, cần phải chính mình trong cuộc sống
ngày thường tu trì nhiều mặt, không được hư ngụy, chẳng cố tình làm ra vẻ,
trong ngoài một mối, mỗi lúc làm được việc gì thì lại tuần tự dần đưa vào cảnh
tốt đẹp.
Nhưng ở quá trình tu trì, quyết cần
phải lấy sự quyết tâm không so tính, chắc chắn và nghị lực, để khắc phục tất cả
nghiệp chướng, như các thói quen xấu ác: ham vật dụng, mê hoặc lợi dưỡng, tham
lam, sân hận, lòng dạ hẹp hòi v.v… Pháp luật dạy chúng ta cần đình chỉ việc
ác mà hãy làm việc thiện, tâm giữ niệm thiện, tuân làm những việc đạo đức cơ
bản làm người, thì cư xử người cần phải được tròn đầy, hài hòa, để mà đạt được
mục đích hỗ trợ.
phải lấy sự quyết tâm không so tính, chắc chắn và nghị lực, để khắc phục tất cả
nghiệp chướng, như các thói quen xấu ác: ham vật dụng, mê hoặc lợi dưỡng, tham
lam, sân hận, lòng dạ hẹp hòi v.v… Pháp luật dạy chúng ta cần đình chỉ việc
ác mà hãy làm việc thiện, tâm giữ niệm thiện, tuân làm những việc đạo đức cơ
bản làm người, thì cư xử người cần phải được tròn đầy, hài hòa, để mà đạt được
mục đích hỗ trợ.
Thời đại mạt pháp hiện tại, tà ma ngoại
đạo (tà ma là có ý nghĩa hại người; Ngoại đạo chẳng qua là sự hiểu biết, thấy
hiểu của người khác không phải là chánh đáng, phàm là việc không họp với sự tu
hành Phật pháp, đều gọi là ngoại đạo) dẫn dụ con người đi vào đường mê, hạng
người nầy rốt cuộc đều như thế, căn cơ của những người nầy đều là rất cạn cợt,
như thế sẽ đạt được Phật pháp chân chánh chăng? Ngay ở trong một đời nầy tu
thành công chăng? – Đức Phật đã nói rồi, tức là thời kỳ mạt pháp có ức ức người
tu hành, cũng khó được một người có thể tu thành công; Chỉ có niệm Phật cầu
sanh về thế giới Cực Lạc, mới có thể khỏi được khổ luân hồi sanh sanh tử tử
nầy. Cho nên ngoài pháp môn niệm Phật nầy, cầu sinh về thế giới Cực Lạc, bất
luận dùng phương pháp nào, nếu ở trên một đời nầy tu thành công, trọn không thể
được. Nếu là chờ đến đời sau, thì tính xem lại có thể sinh lại làm người không?
Hơn một nửa là mê mất, chẳng những chỗ mong đều thành bánh vẽ, vả lại có tạo
nghiệp phước nhân, đời sau cũng có nỗi lo đọa lạc!
đạo (tà ma là có ý nghĩa hại người; Ngoại đạo chẳng qua là sự hiểu biết, thấy
hiểu của người khác không phải là chánh đáng, phàm là việc không họp với sự tu
hành Phật pháp, đều gọi là ngoại đạo) dẫn dụ con người đi vào đường mê, hạng
người nầy rốt cuộc đều như thế, căn cơ của những người nầy đều là rất cạn cợt,
như thế sẽ đạt được Phật pháp chân chánh chăng? Ngay ở trong một đời nầy tu
thành công chăng? – Đức Phật đã nói rồi, tức là thời kỳ mạt pháp có ức ức người
tu hành, cũng khó được một người có thể tu thành công; Chỉ có niệm Phật cầu
sanh về thế giới Cực Lạc, mới có thể khỏi được khổ luân hồi sanh sanh tử tử
nầy. Cho nên ngoài pháp môn niệm Phật nầy, cầu sinh về thế giới Cực Lạc, bất
luận dùng phương pháp nào, nếu ở trên một đời nầy tu thành công, trọn không thể
được. Nếu là chờ đến đời sau, thì tính xem lại có thể sinh lại làm người không?
Hơn một nửa là mê mất, chẳng những chỗ mong đều thành bánh vẽ, vả lại có tạo
nghiệp phước nhân, đời sau cũng có nỗi lo đọa lạc!
TU HÀNH CẦN BỀN LÒNG KHÔNG BIẾN ĐỔI
Cây thì lớn lên từng ngày, ta tuy không
nhìn thấy sự sinh trưởng của nó, nhưng trong sự không biết không hiểu, nó vẫn
lớn lên, cho đến mười năm trăm năm, thì biến thành vật liệu hữu dụng. Cây như
vậy, chúng ta tu hành cũng như vậy, không nên gấp rút, chúng ta muốn ngày nay
tu hành ngày mai sẽ khai ngộ, không nên như thế; Quyết cần phải tu hàng ngày,
tu hàng năm, cũng nên xem nó có tiến bộ gì không, nếu không lui bước thì ta
tiến bộ; Chẳng nên cầu mau, chỗ gọi là: “Việc mà gấp tiến tới thì lui cũng
mau”. Ngược lại quyết cần phải dùng tâm bền bĩ thường hằng (hằng tâm) để tu
hành, hàng ngày cầu sám hối, sửa đổi lỗi lầm; Chỗ gọi là: “Một ngày không có
lỗi để sửa đổi, tức là một ngày không có công trạng để tạo”. Cho nên chúng ta
tu hành tức là cần diệt tập khí, cải đổi tâm bệnh, bỏ tư tưởng bẩn thỉu, hiện
ra ánh sáng quang minh vốn có, trí tuệ xưa nay. Những trí tuệ quang minh nầy là
người nào cũng đều vốn đủ có, tiếc rằng bị vô minh ngăn che, không thể khéo
dùng trí tuệ quang minh của mình. Vô minh đã ngăn che thì sẽ phải chìm đắm; Nếu
ta bừng phát trí tuệ thì sẽ vươn lên. Cho nên tu hành chẳng phải một sớm một
chiều, mà là ở ngay nơi niệm, hàng ngày hàng năm đều tu thế nầy hằng thường
không biến đổi. Thời gian lâu rồi sẽ mới có thể nuôi thành trí tuệ Bát nhã của
chúng ta. Không nên một ngày ráo riết, một ngày nguội lạnh, thế nầy thì vĩnh
viễn cũng chẳng thể có công phu, chúng ta tu hành nên học sự trưởng thành của
cây cối lớn lên từng ngày, từng ngày thành tâm để tu.
nhìn thấy sự sinh trưởng của nó, nhưng trong sự không biết không hiểu, nó vẫn
lớn lên, cho đến mười năm trăm năm, thì biến thành vật liệu hữu dụng. Cây như
vậy, chúng ta tu hành cũng như vậy, không nên gấp rút, chúng ta muốn ngày nay
tu hành ngày mai sẽ khai ngộ, không nên như thế; Quyết cần phải tu hàng ngày,
tu hàng năm, cũng nên xem nó có tiến bộ gì không, nếu không lui bước thì ta
tiến bộ; Chẳng nên cầu mau, chỗ gọi là: “Việc mà gấp tiến tới thì lui cũng
mau”. Ngược lại quyết cần phải dùng tâm bền bĩ thường hằng (hằng tâm) để tu
hành, hàng ngày cầu sám hối, sửa đổi lỗi lầm; Chỗ gọi là: “Một ngày không có
lỗi để sửa đổi, tức là một ngày không có công trạng để tạo”. Cho nên chúng ta
tu hành tức là cần diệt tập khí, cải đổi tâm bệnh, bỏ tư tưởng bẩn thỉu, hiện
ra ánh sáng quang minh vốn có, trí tuệ xưa nay. Những trí tuệ quang minh nầy là
người nào cũng đều vốn đủ có, tiếc rằng bị vô minh ngăn che, không thể khéo
dùng trí tuệ quang minh của mình. Vô minh đã ngăn che thì sẽ phải chìm đắm; Nếu
ta bừng phát trí tuệ thì sẽ vươn lên. Cho nên tu hành chẳng phải một sớm một
chiều, mà là ở ngay nơi niệm, hàng ngày hàng năm đều tu thế nầy hằng thường
không biến đổi. Thời gian lâu rồi sẽ mới có thể nuôi thành trí tuệ Bát nhã của
chúng ta. Không nên một ngày ráo riết, một ngày nguội lạnh, thế nầy thì vĩnh
viễn cũng chẳng thể có công phu, chúng ta tu hành nên học sự trưởng thành của
cây cối lớn lên từng ngày, từng ngày thành tâm để tu.
ĐÁNH MỞ SỰ KẾT BUỘC NƠI TÂM
“Phiền não không tìm, không thể có
phiền não”. Mỗi người đều có phiền não. Phiền não của chúng ta, cũng giống như
sự kết buộc ở trên tâm, tâm kết mà mở không được, vĩnh viễn sa đọa trong vực
sâu của phiền não, không cách nào tự vượt ra được. “Nghi Tọa Thiền” chép rằng:
– có một lần, Ngài A Nan, đệ tử của Đức Phật, lúc phiền não không dừng được,
bèn đến thỉnh giáo Đức Phật, Phật mới đem một chiếc khăn tay ra gút lại nhiều
gút, hỏi A Nan rằng: “Đây là cái gì?” Ngài A Nan đáp rằng: “Đây là gút”. Đức
Phật nhân cơ nói đạo: “A Nan, ở trong tâm ông cũng giống như gút lại nhiều gút như
đây, chỉ cần mở ra từng cái một, ông có thể giải tiêu được phiền não của ông”.
A Nan nghe xong lập tức khai giải được tâm ý.
phiền não”. Mỗi người đều có phiền não. Phiền não của chúng ta, cũng giống như
sự kết buộc ở trên tâm, tâm kết mà mở không được, vĩnh viễn sa đọa trong vực
sâu của phiền não, không cách nào tự vượt ra được. “Nghi Tọa Thiền” chép rằng:
– có một lần, Ngài A Nan, đệ tử của Đức Phật, lúc phiền não không dừng được,
bèn đến thỉnh giáo Đức Phật, Phật mới đem một chiếc khăn tay ra gút lại nhiều
gút, hỏi A Nan rằng: “Đây là cái gì?” Ngài A Nan đáp rằng: “Đây là gút”. Đức
Phật nhân cơ nói đạo: “A Nan, ở trong tâm ông cũng giống như gút lại nhiều gút như
đây, chỉ cần mở ra từng cái một, ông có thể giải tiêu được phiền não của ông”.
A Nan nghe xong lập tức khai giải được tâm ý.
Chúng ta là “Bát địa phàm phu”, rất khó
mà giải ngộ ngay được, huống chi nói đến chứng ngộ. Nhưng ở trong sự khai thị
cao minh mà đơn giản cần yếu của Đức Phật, chúng ta rất ít lãnh ngộ trên những
thứ lớp nào đó cần có; Một, tâm chúng ta xưa nay giống như chiếc khăn tay bằng
thẳng không có nếp nhăn, thế thì có gút nào tồn tại? Hai, do ở nơi tưởng vọng
làm vọng của chúng ta, mới có sự kết buộc của phiền não, kết buộc nầy là tự
chúng ta gút lấy; như mới tu hành vài năm thì đã muốn khai ngộ rồi. Ba, chỉ cần
chúng ta bắt tay vào tâm gút kết, chia ra hai bên, gút bèn có thể mở được. Như
mà dùng sức kéo đuôi gút, chẳng những mở không được, mà ngược lại càng kéo càng
bền chắc. Bốn, quyết cần ra tay từ cái gút – phiền não căn bản – phía trên, cái
gút phía dưới sẽ lần lượt được mở. Năm, gút buộc ở tâm được mở, phiền não cũng
sẽ không tồn tại lại nữa.
mà giải ngộ ngay được, huống chi nói đến chứng ngộ. Nhưng ở trong sự khai thị
cao minh mà đơn giản cần yếu của Đức Phật, chúng ta rất ít lãnh ngộ trên những
thứ lớp nào đó cần có; Một, tâm chúng ta xưa nay giống như chiếc khăn tay bằng
thẳng không có nếp nhăn, thế thì có gút nào tồn tại? Hai, do ở nơi tưởng vọng
làm vọng của chúng ta, mới có sự kết buộc của phiền não, kết buộc nầy là tự
chúng ta gút lấy; như mới tu hành vài năm thì đã muốn khai ngộ rồi. Ba, chỉ cần
chúng ta bắt tay vào tâm gút kết, chia ra hai bên, gút bèn có thể mở được. Như
mà dùng sức kéo đuôi gút, chẳng những mở không được, mà ngược lại càng kéo càng
bền chắc. Bốn, quyết cần ra tay từ cái gút – phiền não căn bản – phía trên, cái
gút phía dưới sẽ lần lượt được mở. Năm, gút buộc ở tâm được mở, phiền não cũng
sẽ không tồn tại lại nữa.
Biện pháp đơn giản nầy có thể làm chẳng
đi tìm, chẳng thể có phiền não, nhưng một khi đã có phiền não, cần phải dùng
pháp Đức Phật dạy dẫn A Nan: “Đem cái gút trong tâm, từng cái một mở ra”. Tức
là đơn giản như thế nầy, như đây mà thôi.
đi tìm, chẳng thể có phiền não, nhưng một khi đã có phiền não, cần phải dùng
pháp Đức Phật dạy dẫn A Nan: “Đem cái gút trong tâm, từng cái một mở ra”. Tức
là đơn giản như thế nầy, như đây mà thôi.
KHÔNG NÊN BỊ MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN
DẪN DẮT
DẪN DẮT
Gặp được tốt, nhìn được đẹp, nghe được
hay thì cao hứng; Ăn ngon, mặc đẹp, ở sang thì vui vẻ; Người nhà mọi việc thuận
ta thì vui lòng thõa ý; Gặp xấu, xem xấu, nghe dở thì nhàm ghét; Ăn sai một
chút thì thế nầy không thích ăn, thế kia không muốn ăn, không họp thời trang về
đồ mặc thì rầu rầu không vui; Việc nghịch lại thì giận, oán hận; Cả ngày phân
biệt ở nơi tốt – xấu, được – mất, khổ – vui, cứ lòng vòng… Đây tức là bị
chuyển theo cảnh! Bị mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dẫn dắt! Chẳng được tự tại.
Tốt – xấu, được – mất, vui – buồn, thuận – nghịch, đều chẳng khởi tâm động
niệm; Ngay khi khởi tâm động niệm thì đều bị cảnh chuyển, sẽ tạo nghiệp.
hay thì cao hứng; Ăn ngon, mặc đẹp, ở sang thì vui vẻ; Người nhà mọi việc thuận
ta thì vui lòng thõa ý; Gặp xấu, xem xấu, nghe dở thì nhàm ghét; Ăn sai một
chút thì thế nầy không thích ăn, thế kia không muốn ăn, không họp thời trang về
đồ mặc thì rầu rầu không vui; Việc nghịch lại thì giận, oán hận; Cả ngày phân
biệt ở nơi tốt – xấu, được – mất, khổ – vui, cứ lòng vòng… Đây tức là bị
chuyển theo cảnh! Bị mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dẫn dắt! Chẳng được tự tại.
Tốt – xấu, được – mất, vui – buồn, thuận – nghịch, đều chẳng khởi tâm động
niệm; Ngay khi khởi tâm động niệm thì đều bị cảnh chuyển, sẽ tạo nghiệp.
VẠN MA KHÔNG ĐẨY LÙI ĐƯỢC TÂM BỒ ĐỀ
Càng ở trong chỗ khó thì càng tinh tấn,
khắp tất cả những việc nghịch ý xen nhau dẫn đến đều vẫn thư thái, chẳng oán
trời, chẳng trách người.
khắp tất cả những việc nghịch ý xen nhau dẫn đến đều vẫn thư thái, chẳng oán
trời, chẳng trách người.
“Càng học tốt thì oan nghiệt tìm;
Cần thành Phật thì trước tiên phải bị ma”. Nếu không muốn tốt thì oan
nghiệt không thể đến tìm; Càng muốn tốt thì oan nghiệt càng tìm, mong muốn tính
toán cho xong nợ trần. Bỡi vì từ vô lượng kiếp đến nay, nghiệp thiện – ác đời
đời kiếp kiếp đã tạo ra, nó lộn xộn không rõ ràng, do vậy một ngày muốn tu
hành, các chủ nợ vốn có đều đến để đòi nợ. Cũng giống như anh từ trước đến giờ
là người bình thường, mượn rất nhiều tiền, không rõ là bao nhiêu. Trước lúc anh
chưa phát tài những chủ nợ nầy biết anh không có tiền, cho nên không thể đến
đòi nợ. Nhưng ngay khi một ngày nào đó anh phát tài, thì những chủ nợ nầy lập
tức đến tận nhà để đòi nợ. Vì sao? Bỡi vì anh đã có tiền, nếu chẳng cần đến
anh, thì không có thời gian để người ta phải quay lại. Cho nên trong việc tu
hành mà gặp nghịch cảnh, thì nên càng tinh tấn mạnh mẽ mà hướng về phía trước,
không được lui mất tâm bồ đề. Lúc chủ nợ đến đòi nợ thì trả cho họ. Tức là đem
công đức mình có được, hồi hướng cho bọn chủ nợ – cả kẻ oán lẫn người thân –
khiến họ được công đức, mà lià khổ được vui, liễu thoát sinh tử, chúng ta không
nên gánh nợ mà không trả!
Cần thành Phật thì trước tiên phải bị ma”. Nếu không muốn tốt thì oan
nghiệt không thể đến tìm; Càng muốn tốt thì oan nghiệt càng tìm, mong muốn tính
toán cho xong nợ trần. Bỡi vì từ vô lượng kiếp đến nay, nghiệp thiện – ác đời
đời kiếp kiếp đã tạo ra, nó lộn xộn không rõ ràng, do vậy một ngày muốn tu
hành, các chủ nợ vốn có đều đến để đòi nợ. Cũng giống như anh từ trước đến giờ
là người bình thường, mượn rất nhiều tiền, không rõ là bao nhiêu. Trước lúc anh
chưa phát tài những chủ nợ nầy biết anh không có tiền, cho nên không thể đến
đòi nợ. Nhưng ngay khi một ngày nào đó anh phát tài, thì những chủ nợ nầy lập
tức đến tận nhà để đòi nợ. Vì sao? Bỡi vì anh đã có tiền, nếu chẳng cần đến
anh, thì không có thời gian để người ta phải quay lại. Cho nên trong việc tu
hành mà gặp nghịch cảnh, thì nên càng tinh tấn mạnh mẽ mà hướng về phía trước,
không được lui mất tâm bồ đề. Lúc chủ nợ đến đòi nợ thì trả cho họ. Tức là đem
công đức mình có được, hồi hướng cho bọn chủ nợ – cả kẻ oán lẫn người thân –
khiến họ được công đức, mà lià khổ được vui, liễu thoát sinh tử, chúng ta không
nên gánh nợ mà không trả!
Vô lượng kiếp đến nay, do mỗi nhân
duyên không đồng nhau, đời đời kiếp kiếp không biết đã làm bao nhiêu việc. Thế
thì lấy đời nầy nói, chín chắn mà nghĩ, chúng ta đã giết bao nhiêu sinh mạng,
đã làm bao nhiêu việc chẳng công bằng? Đối với những chúng sinh khác mà nói,
hoặc dẫu không sát nhân, sinh mạng lớn (trâu ngựa, heo, gà, vịt, chó v.v…),
nhưng có thể sát sinh mạng nhỏ (muỗi, mòng, kiến, trùng nhỏ v.v…), cũng có
thể trong tâm anh đã có ý niệm sát được tồn tại. Giống như có một lúc, vì không
biết, mà đã sát rất nhiều động vật nhỏ, hay một ngày nào đó anh đoạt lấy và làm
tổn thương sinh mạng của chúng sinh; Nếu anh muốn tu hành, thì chúng nó đều sẽ
đến đòi nợ, nợ nầy không phải là một hai món, mà là không thể tính kể hết, đời
đời kiếp kiếp được tích lũy qua nhiều ngày tháng, nợ nầy nói cũng không thể
xong. Cho nên chúng ta chẳng thể không nói đến lẽ chung, nói ta đã tu hành, mà
chẳng nhận có nợ oan nghiệp. Nếu như có cách nghĩ như đây, thì vĩnh viễn chẳng
thể thành đạo, bỡi vì trong tâm chẳng công bằng, trong tâm nếu công bằng thì
cần nhận rõ, trả nợ thì đã không có việc gì rồi. Cho nên nói là: “Cần học tốt
thì oan nghiệp nhiều”. Cũng giống như một người mới phát tài, cho nên bạn nghèo
của người đó đều đến nhà để tìm, đều muốn được một chút lợi ích.
duyên không đồng nhau, đời đời kiếp kiếp không biết đã làm bao nhiêu việc. Thế
thì lấy đời nầy nói, chín chắn mà nghĩ, chúng ta đã giết bao nhiêu sinh mạng,
đã làm bao nhiêu việc chẳng công bằng? Đối với những chúng sinh khác mà nói,
hoặc dẫu không sát nhân, sinh mạng lớn (trâu ngựa, heo, gà, vịt, chó v.v…),
nhưng có thể sát sinh mạng nhỏ (muỗi, mòng, kiến, trùng nhỏ v.v…), cũng có
thể trong tâm anh đã có ý niệm sát được tồn tại. Giống như có một lúc, vì không
biết, mà đã sát rất nhiều động vật nhỏ, hay một ngày nào đó anh đoạt lấy và làm
tổn thương sinh mạng của chúng sinh; Nếu anh muốn tu hành, thì chúng nó đều sẽ
đến đòi nợ, nợ nầy không phải là một hai món, mà là không thể tính kể hết, đời
đời kiếp kiếp được tích lũy qua nhiều ngày tháng, nợ nầy nói cũng không thể
xong. Cho nên chúng ta chẳng thể không nói đến lẽ chung, nói ta đã tu hành, mà
chẳng nhận có nợ oan nghiệp. Nếu như có cách nghĩ như đây, thì vĩnh viễn chẳng
thể thành đạo, bỡi vì trong tâm chẳng công bằng, trong tâm nếu công bằng thì
cần nhận rõ, trả nợ thì đã không có việc gì rồi. Cho nên nói là: “Cần học tốt
thì oan nghiệp nhiều”. Cũng giống như một người mới phát tài, cho nên bạn nghèo
của người đó đều đến nhà để tìm, đều muốn được một chút lợi ích.
Ma, có nội ma và ngoại ma. Thiên ma và
tất cả Quỉ được tôn sùng là: “ngoại ma”; “Nội ma” tức là các phiền não và vọng
tưởng ở trong tâm, cho đến tất cả những lo buồn khổ não đều là nội ma. Do những
cái nầy hay chướng ngại tu hành cho nên gọi là MA. Ngoại ma so ra dễ khắc phục.
Nội ma rất khó mà hàng phục; Có thể hàng phục được nội ma, tức ngoại ma cũng
chẳng có thể làm hại được. Cho nên tu hành chủ yếu là “hàng phục nội ma”. Nội
ma được hàng phục tức tâm thanh tịnh, được mở trí tuệ lớn, có trí tuệ thì có
thể dứt được hoặc nghiệp, tức là thành đạo.
tất cả Quỉ được tôn sùng là: “ngoại ma”; “Nội ma” tức là các phiền não và vọng
tưởng ở trong tâm, cho đến tất cả những lo buồn khổ não đều là nội ma. Do những
cái nầy hay chướng ngại tu hành cho nên gọi là MA. Ngoại ma so ra dễ khắc phục.
Nội ma rất khó mà hàng phục; Có thể hàng phục được nội ma, tức ngoại ma cũng
chẳng có thể làm hại được. Cho nên tu hành chủ yếu là “hàng phục nội ma”. Nội
ma được hàng phục tức tâm thanh tịnh, được mở trí tuệ lớn, có trí tuệ thì có
thể dứt được hoặc nghiệp, tức là thành đạo.
“Cần thành Phật thì trước tiên phải bị
ma”. Phật được sự trợ giúp của ma mà thành đạo, nếu không có ma thì không có
Phật. Ma là để khảo nghiệm ta, khiến ta càng tiến bộ. Cho nên nói là: “Muốn
nhìn thấy đến ngàn dặm, lại phải lên một tầng lầu”. Đây cũng là muốn xem thử
nội công của anh đã đủ hay chưa? Nếu đủ, thì bất động không lùi trước ngàn vạn
ma quân; Tâm bồ đề không thối chuyển. Càng ở nơi chỗ khó thì càng tinh tấn, tất
cả những việc nghịch ý xen nhau dẫn đến đều đối xử rất là thư thái. Phải công
bằng, chẳng oán trời, chẳng trách người, có thể cái nghịch đến mà ta tùy thuận
thọ lãnh, tu nhẫn Ba La Mật, nên có công phu nầy; Cho nên ma chướng đã đến, thì
chẳng đối địch với ma, tự mình nuốt một chút thiệt thòi cũng chẳng sao, tự mình
nên phát nguyện độ ma, khiến nó qui y Tam bảo, phát tâm bồ đề. Đối với ai cũng
đều chẳng nên giận, oán hận, như thế có thể hóa hung thành cát, hóa chiến thành
hòa, hóa thù thành bạn. Nếu nói rằng tìm chỗ tốt đẹp ở phương diện ngược lại
(làm mà có chỗ không được, thì cầu ngược lại cho mình), chẳng nên làm luật sư
biện hộ cho mình, không luận là việc gì: “chơn thật nhận mình lỗi, chẳng bàn
cái quấy của người, “đồng thể” gọi là đại từ. Đồng thể, cũng là bao trùm cả ma;
Ma cũng là một phần của tự tánh. Nếu tự tánh có ma, thì sẽ dẫn đến ma bên
ngoài. Nếu tự tánh không ma, ma bên ngoài sẽ không thể tiến đến. Thế nào là ma
của tự tánh? Là tham, sân, si… có câu rằng: “Nếu không có bát mèo ăn, thì nhà
không có ruồi”. Ma biết được anh có chút ít béo bở, nó có thể “thừa nước đục
thả câu” để kiếm chút ngon, cho nên đến quấy rối anh, mà hiện ra việc ma của
nó. Cho nên nhất cử nhất động của chúng ta, một lời nói một hành vi cần phải
cho chắc chắn. Nói phải trung tín, làm phải thật kính, chẳng được nói lời vọng.
Nếu sợ nhận sai của mình, là rốt cuộc che dấu lỗi lầm, đây chẳng phải là hành vi
của người tu hành. Nên phải thành thật mà công bố ra, làm việc rất là thẳng
thắng và khảng khái, vốn được chiếu rọi từ lương tâm đạo đức và ý nghĩa để làm
việc. Nếu có chỗ chẳng họp với lương tâm đạo đức, thì dứt khoát không được làm.
ma”. Phật được sự trợ giúp của ma mà thành đạo, nếu không có ma thì không có
Phật. Ma là để khảo nghiệm ta, khiến ta càng tiến bộ. Cho nên nói là: “Muốn
nhìn thấy đến ngàn dặm, lại phải lên một tầng lầu”. Đây cũng là muốn xem thử
nội công của anh đã đủ hay chưa? Nếu đủ, thì bất động không lùi trước ngàn vạn
ma quân; Tâm bồ đề không thối chuyển. Càng ở nơi chỗ khó thì càng tinh tấn, tất
cả những việc nghịch ý xen nhau dẫn đến đều đối xử rất là thư thái. Phải công
bằng, chẳng oán trời, chẳng trách người, có thể cái nghịch đến mà ta tùy thuận
thọ lãnh, tu nhẫn Ba La Mật, nên có công phu nầy; Cho nên ma chướng đã đến, thì
chẳng đối địch với ma, tự mình nuốt một chút thiệt thòi cũng chẳng sao, tự mình
nên phát nguyện độ ma, khiến nó qui y Tam bảo, phát tâm bồ đề. Đối với ai cũng
đều chẳng nên giận, oán hận, như thế có thể hóa hung thành cát, hóa chiến thành
hòa, hóa thù thành bạn. Nếu nói rằng tìm chỗ tốt đẹp ở phương diện ngược lại
(làm mà có chỗ không được, thì cầu ngược lại cho mình), chẳng nên làm luật sư
biện hộ cho mình, không luận là việc gì: “chơn thật nhận mình lỗi, chẳng bàn
cái quấy của người, “đồng thể” gọi là đại từ. Đồng thể, cũng là bao trùm cả ma;
Ma cũng là một phần của tự tánh. Nếu tự tánh có ma, thì sẽ dẫn đến ma bên
ngoài. Nếu tự tánh không ma, ma bên ngoài sẽ không thể tiến đến. Thế nào là ma
của tự tánh? Là tham, sân, si… có câu rằng: “Nếu không có bát mèo ăn, thì nhà
không có ruồi”. Ma biết được anh có chút ít béo bở, nó có thể “thừa nước đục
thả câu” để kiếm chút ngon, cho nên đến quấy rối anh, mà hiện ra việc ma của
nó. Cho nên nhất cử nhất động của chúng ta, một lời nói một hành vi cần phải
cho chắc chắn. Nói phải trung tín, làm phải thật kính, chẳng được nói lời vọng.
Nếu sợ nhận sai của mình, là rốt cuộc che dấu lỗi lầm, đây chẳng phải là hành vi
của người tu hành. Nên phải thành thật mà công bố ra, làm việc rất là thẳng
thắng và khảng khái, vốn được chiếu rọi từ lương tâm đạo đức và ý nghĩa để làm
việc. Nếu có chỗ chẳng họp với lương tâm đạo đức, thì dứt khoát không được làm.
Phàm người tu cần phải đầy đủ trí tuệ.
Trí tuệ chân chánh, tức là không khen chê người khác; Nói: “Anh xem tôi đây
này, tôi là số một, tôi thanh cao nhất, mà ngược lại họ thấp hèn như thế”. Phàm
là người tự khen thì đã không có tiền đồ, tuy là đang sống, nhưng kỳ thật đã chết
rồi, bỡi vì họ đã đi ngược với đạo đức lương tâm, nhìn không được người khác,
chỉ biết có mình, đây là người rất không được sự khen vui của Phật và Bồ tát.
Nếu muốn được sự vui khen và yêu giúp của chư Phật và Bồ tát, thì lời nói và
việc làm một mối, “Nói phải nhìn việc làm, làm phải để ý lời nói”, chẳng mâu
thuẩn với nhau. Chẳng nên thường khoe mình tốt như thế nào, đến khi làm việc
thì xấu. Người tu hành không nên có tâm riêng tư, tâm tự lợi, cần có lợi ích
cho người khác, chẳng nên ráng sức làm thương tổn người để lợi ích cho mình,
hoặc nhìn không rõ được người khác, mỗi người nên “hồi quang phản chiếu” (quay
lại soi rọi xét nét chính mình), xét coi việc quá khứ, việc hiện tại, lại chiếu
xét đến tương lai. Có thể niệm đây ở tại đây (giữ niệm hiện tại), thời khắc
không quên lương tâm đạo đức, thời gian lâu rồi, thiện căn tự nhiên tăng
trưởng, tâm bồ đề phát lớn, thời sẽ làm đạo Bồ tát, lợi ích chúng sinh, đây là
sự quan hệ liên đới.
Trí tuệ chân chánh, tức là không khen chê người khác; Nói: “Anh xem tôi đây
này, tôi là số một, tôi thanh cao nhất, mà ngược lại họ thấp hèn như thế”. Phàm
là người tự khen thì đã không có tiền đồ, tuy là đang sống, nhưng kỳ thật đã chết
rồi, bỡi vì họ đã đi ngược với đạo đức lương tâm, nhìn không được người khác,
chỉ biết có mình, đây là người rất không được sự khen vui của Phật và Bồ tát.
Nếu muốn được sự vui khen và yêu giúp của chư Phật và Bồ tát, thì lời nói và
việc làm một mối, “Nói phải nhìn việc làm, làm phải để ý lời nói”, chẳng mâu
thuẩn với nhau. Chẳng nên thường khoe mình tốt như thế nào, đến khi làm việc
thì xấu. Người tu hành không nên có tâm riêng tư, tâm tự lợi, cần có lợi ích
cho người khác, chẳng nên ráng sức làm thương tổn người để lợi ích cho mình,
hoặc nhìn không rõ được người khác, mỗi người nên “hồi quang phản chiếu” (quay
lại soi rọi xét nét chính mình), xét coi việc quá khứ, việc hiện tại, lại chiếu
xét đến tương lai. Có thể niệm đây ở tại đây (giữ niệm hiện tại), thời khắc
không quên lương tâm đạo đức, thời gian lâu rồi, thiện căn tự nhiên tăng
trưởng, tâm bồ đề phát lớn, thời sẽ làm đạo Bồ tát, lợi ích chúng sinh, đây là
sự quan hệ liên đới.
Người chẳng nên sợ ma, mà thối lui tâm
bồ đề, ma chướng chỉ là để xét nghiệm. Cũng như học sinh vừa mới bắt đầu học,
cảm thấy bài khóa giáo trình rất khó, nhưng thời gian lâu rồi, học đã nhập môn
thì sẽ cảm thấy không còn khó khăn nữa. Từ bắt đầu học tiểu học, trung học, rồi
đến đại học, đều có những tình hình nầy phát sinh. Cho nên nói rằng: “Chẳng
trải qua một phen lạnh buốt xương, thì làm sao hoa Mai tỏa ngát hương” hay
“Mười năm song lạnh không người hỏi, một sớm thành danh thiên hạ hay”. Lúc tu
hành chẳng nên cố mong tự đề cao. Người tu hành còn cầu danh cầu lợi, ham muốn lung
tung là việc rất không cần. Chúng ta sau khi tu hành, nhất định cần nhận chân
được thực tế rõ ràng để tu hành, vun bồi sửa sang gieo trồng hạt giống phước
huệ. Tu phước thì cần phải lợi ích chúng sinh, tu huệ thì cần phải niệm Phật
nhiều, nghiên cứu tụng đọc kinh điển, thường làm việc lợi ích chúng sinh, thì
sẽ sinh ra phước đức. Có người hỏi là có nên dùng tiền tài để làm công đức hay
không? – Chỉ cần bảo tồn tâm thiện; Làm mười nghiệp thiện, không có tâm ác;
Chẳng làm mười nghiệp ác, đây đều là vun bồi chỗ phước đức, thật ra chẳng phải
là nhất định cần dùng tiền làm công đức mới là công đức. Cho nên nói là: “Miệng
Từ bi, lưỡi phương tiện, có tiền không tiền đều làm được công đức”. Chúng ta
nên mọi chỗ mà tiếc phước, mọi nơi không bỏ phước, đâu đâu cũng tu phước huệ.
Tu phước huệ chẳng phải một sớm một chiều được thành, mà năm nầy tháng nọ đều
cần phải làm liên tục. “Chẳng nên một ngày dồn dập, một ngày nguội lạnh”, chúng
ta nếu là thế nầy, vĩnh viễn chẳng thể có tiến bộ. Cho nên chúng ta cần nhận
định “tôn chỉ”, mạnh mẽ tinh tấn, chẳng nên lùi về sau, đây là điều kiện mà mỗi
người tu hành nên có.
bồ đề, ma chướng chỉ là để xét nghiệm. Cũng như học sinh vừa mới bắt đầu học,
cảm thấy bài khóa giáo trình rất khó, nhưng thời gian lâu rồi, học đã nhập môn
thì sẽ cảm thấy không còn khó khăn nữa. Từ bắt đầu học tiểu học, trung học, rồi
đến đại học, đều có những tình hình nầy phát sinh. Cho nên nói rằng: “Chẳng
trải qua một phen lạnh buốt xương, thì làm sao hoa Mai tỏa ngát hương” hay
“Mười năm song lạnh không người hỏi, một sớm thành danh thiên hạ hay”. Lúc tu
hành chẳng nên cố mong tự đề cao. Người tu hành còn cầu danh cầu lợi, ham muốn lung
tung là việc rất không cần. Chúng ta sau khi tu hành, nhất định cần nhận chân
được thực tế rõ ràng để tu hành, vun bồi sửa sang gieo trồng hạt giống phước
huệ. Tu phước thì cần phải lợi ích chúng sinh, tu huệ thì cần phải niệm Phật
nhiều, nghiên cứu tụng đọc kinh điển, thường làm việc lợi ích chúng sinh, thì
sẽ sinh ra phước đức. Có người hỏi là có nên dùng tiền tài để làm công đức hay
không? – Chỉ cần bảo tồn tâm thiện; Làm mười nghiệp thiện, không có tâm ác;
Chẳng làm mười nghiệp ác, đây đều là vun bồi chỗ phước đức, thật ra chẳng phải
là nhất định cần dùng tiền làm công đức mới là công đức. Cho nên nói là: “Miệng
Từ bi, lưỡi phương tiện, có tiền không tiền đều làm được công đức”. Chúng ta
nên mọi chỗ mà tiếc phước, mọi nơi không bỏ phước, đâu đâu cũng tu phước huệ.
Tu phước huệ chẳng phải một sớm một chiều được thành, mà năm nầy tháng nọ đều
cần phải làm liên tục. “Chẳng nên một ngày dồn dập, một ngày nguội lạnh”, chúng
ta nếu là thế nầy, vĩnh viễn chẳng thể có tiến bộ. Cho nên chúng ta cần nhận
định “tôn chỉ”, mạnh mẽ tinh tấn, chẳng nên lùi về sau, đây là điều kiện mà mỗi
người tu hành nên có.
NHỎ NHẸ KHIÊM TỐN
Gọi là “nhỏ nhẹ khiêm tốn”. “nhỏ nhẹ”
tức là tâm rỗng rang (khiêm tốn) không kiêu ngạo, không tự đại, chẳng cố tự
đóng chặc bước tiến; “khiêm tốn” là dằng tiếng nuốt khí, là trên thái độ biểu
thị “ta ở dưới người”, người khác đều mạnh hơn ta, đều tốt hơn ta. Bỡi vì tâm
rỗng rang không có thành kiến, mới có thể hoàn toàn xét nghĩ khách quan, mà có
thể tiếp nhận được kiến nghị của người khác. Cho nên cần phải nhỏ nhẹ khiêm tốn
ở nơi việc người, ở trên sự tu hành lại cần phải nhỏ nhẹ khiêm tốn, chẳng vậy –
vĩnh viễn không thành tựu. Nên biết rằng Đức Phật giảng bình đẳng, tất cả chúng
sinh đều bình đẳng, nam nữ già trẻ, phú quí bần tiện, đều một lẽ bình đẳng,
chẳng phân đây – kia, đối với họ đều một lẽ khiêm tốn và hài hòa, ở bất kỳ tình
huống nào, vẫn tâm bình khí hòa, chẳng sinh bực mình, nhẫn nại đợi chờ, đây mới
là nội công tốt đẹp nhất. Chẳng thể nhỏ nhẹ khiêm tốn, như gà cồ thét gáy, có
đấu được rồi, công trước bỏ hết, già chết bất thành; việc phàm việc Thánh đều
như thế nầy, mong nguyện những người đồng tu cùng cố gắng.
tức là tâm rỗng rang (khiêm tốn) không kiêu ngạo, không tự đại, chẳng cố tự
đóng chặc bước tiến; “khiêm tốn” là dằng tiếng nuốt khí, là trên thái độ biểu
thị “ta ở dưới người”, người khác đều mạnh hơn ta, đều tốt hơn ta. Bỡi vì tâm
rỗng rang không có thành kiến, mới có thể hoàn toàn xét nghĩ khách quan, mà có
thể tiếp nhận được kiến nghị của người khác. Cho nên cần phải nhỏ nhẹ khiêm tốn
ở nơi việc người, ở trên sự tu hành lại cần phải nhỏ nhẹ khiêm tốn, chẳng vậy –
vĩnh viễn không thành tựu. Nên biết rằng Đức Phật giảng bình đẳng, tất cả chúng
sinh đều bình đẳng, nam nữ già trẻ, phú quí bần tiện, đều một lẽ bình đẳng,
chẳng phân đây – kia, đối với họ đều một lẽ khiêm tốn và hài hòa, ở bất kỳ tình
huống nào, vẫn tâm bình khí hòa, chẳng sinh bực mình, nhẫn nại đợi chờ, đây mới
là nội công tốt đẹp nhất. Chẳng thể nhỏ nhẹ khiêm tốn, như gà cồ thét gáy, có
đấu được rồi, công trước bỏ hết, già chết bất thành; việc phàm việc Thánh đều
như thế nầy, mong nguyện những người đồng tu cùng cố gắng.
THÀNH TỰU
Chẳng nên tu một thời gian ngắn thì
muốn có sự thành tựu ngay, sự thành tựu không phải là việc dễ dàng như thế. Như
chúng ta học muốn được học vị bác sĩ (tiến sĩ), thì cần phải trải qua: tiểu
học, trung học, đại học, thạc sĩ, rồi mới có thể được bác sĩ, trong những
khoảng thời gian đó lại trải qua nhiều lần thi cử, nếu có một lần mà thi qua
không được, thì học vị bác sĩ cũng mất hy vọng mà thôi, chỉ biết “Nhìn biển bao
la mà than dài!”. Niệm Phật tu hành cũng là như đây, nếu chỉ niệm có mấy năm
như thế mà muốn có thành tựu, dẫu là người căn khí bậc thượng cũng chẳng có thể
mau như vậy đâu! Người tu tự lực mới bàn đến việc “thành tựu”; Bỡi vì người tu
tự lực nếu không có “Thành tựu” thì ra không khỏi ba cõi! Cho nên cần có sự
thành tựu, mới bàn đến thành tựu. Tu tự lực không nhẹ nhàng thoải mái giống như
niệm Phật. Ta chỉ nhìn đến người tu tự lực có sự thành tựu, mà không thấy được
sự ăn uống khổ sở, công phu phải ra sức của người tu tự lực. Cũng bỡi vì dễ
được như thế, người niệm Phật chẳng bàn đến sự thành tựu, cũng không có thành
tựu để bàn, vì khỏi được cái nhân cần có là “Thành tựu”, hễ thêm một việc ở nơi
tâm là chướng ngại một việc. Người niệm Phật, lúc mạng chung, biết trước được
giờ chết mà chánh niệm luôn được duy trì, tâm không điên đảo, niệm Phật vãng
sanh tức là thành tựu!
muốn có sự thành tựu ngay, sự thành tựu không phải là việc dễ dàng như thế. Như
chúng ta học muốn được học vị bác sĩ (tiến sĩ), thì cần phải trải qua: tiểu
học, trung học, đại học, thạc sĩ, rồi mới có thể được bác sĩ, trong những
khoảng thời gian đó lại trải qua nhiều lần thi cử, nếu có một lần mà thi qua
không được, thì học vị bác sĩ cũng mất hy vọng mà thôi, chỉ biết “Nhìn biển bao
la mà than dài!”. Niệm Phật tu hành cũng là như đây, nếu chỉ niệm có mấy năm
như thế mà muốn có thành tựu, dẫu là người căn khí bậc thượng cũng chẳng có thể
mau như vậy đâu! Người tu tự lực mới bàn đến việc “thành tựu”; Bỡi vì người tu
tự lực nếu không có “Thành tựu” thì ra không khỏi ba cõi! Cho nên cần có sự
thành tựu, mới bàn đến thành tựu. Tu tự lực không nhẹ nhàng thoải mái giống như
niệm Phật. Ta chỉ nhìn đến người tu tự lực có sự thành tựu, mà không thấy được
sự ăn uống khổ sở, công phu phải ra sức của người tu tự lực. Cũng bỡi vì dễ
được như thế, người niệm Phật chẳng bàn đến sự thành tựu, cũng không có thành
tựu để bàn, vì khỏi được cái nhân cần có là “Thành tựu”, hễ thêm một việc ở nơi
tâm là chướng ngại một việc. Người niệm Phật, lúc mạng chung, biết trước được
giờ chết mà chánh niệm luôn được duy trì, tâm không điên đảo, niệm Phật vãng
sanh tức là thành tựu!
Chẳng nên tu mới mấy bữa đã mong có sự
thành tựu, trước nhất phải xem thử sự dụng công của ta đã được bao nhiêu? Xem
thử sử dụng sau khi tu hành, thì biết được công phu tu hành của ta có sâu nhiều
chăng! Chẳng ngại làm việc kiểm tra như sau đây:
thành tựu, trước nhất phải xem thử sự dụng công của ta đã được bao nhiêu? Xem
thử sử dụng sau khi tu hành, thì biết được công phu tu hành của ta có sâu nhiều
chăng! Chẳng ngại làm việc kiểm tra như sau đây:
– ẤN
CHỨNG DÙNG BƯỚC ĐẦU:
CHỨNG DÙNG BƯỚC ĐẦU:
1 – Sau khi phiền não khởi, chớp mắt đã
tiêu mất, rất là dễ chuyển.
tiêu mất, rất là dễ chuyển.
2 – Thói quen sâu xa ngày thường hãy
còn ưa chuộng, chợt dứt đi mà sửa đổi (Như: chẳng phải do áp lực từ bên ngoài
đến, mà chợt tự động ngăn ngừa thuốc, rượu, thịt v.v…), tự động ăn chay.
còn ưa chuộng, chợt dứt đi mà sửa đổi (Như: chẳng phải do áp lực từ bên ngoài
đến, mà chợt tự động ngăn ngừa thuốc, rượu, thịt v.v…), tự động ăn chay.
3 – Gặp việc không đi vào chỗ bế tắc,
mà thường từ chỗ siêu việt để nghĩ tưởng.
mà thường từ chỗ siêu việt để nghĩ tưởng.
4 – Gặp việc thường phán đoán quán sát
trên nhân quả, tùy duyên, nhân đó mà thích ứng, ở đó mà được thư thái, tâm được
– mất đều bình an và điềm đạm.
trên nhân quả, tùy duyên, nhân đó mà thích ứng, ở đó mà được thư thái, tâm được
– mất đều bình an và điềm đạm.
5 – Ngay lúc gặp gỡ những việc phi lễ
(vô lễ) và sỉ nhục, cũng chẳng dễ gì giận dữ và oán hận như ngày trước.
(vô lễ) và sỉ nhục, cũng chẳng dễ gì giận dữ và oán hận như ngày trước.
6 – Ít oán trách, ít so kể, ít tranh
chấp, ít lao xao rộn ràng, ít phân biệt.
chấp, ít lao xao rộn ràng, ít phân biệt.
– BƯỚC
KẾ TIẾP:
KẾ TIẾP:
1 – Đối với người có chỗ thân yêu, chỉ
là soi xét chỗ thích ứng để mà dẫn dắt, giúp họ có sự tự lập, tự cường, tự trị,
mà chẳng phải cả ngày cõng vát chẳng thôi, lo nầy nghĩ kia, phập phồng lo lắng,
cả ngày buông không rời.
là soi xét chỗ thích ứng để mà dẫn dắt, giúp họ có sự tự lập, tự cường, tự trị,
mà chẳng phải cả ngày cõng vát chẳng thôi, lo nầy nghĩ kia, phập phồng lo lắng,
cả ngày buông không rời.
2 – Đối với sắc đẹp, sự hiển vinh tôn
quí, cừu thù ở đời, kẻ vô lại, người tà đạo, lúc ứng phó tâm không thành kiến,
dùng tâm bình đẳng bình thường để đối đãi nhau.
quí, cừu thù ở đời, kẻ vô lại, người tà đạo, lúc ứng phó tâm không thành kiến,
dùng tâm bình đẳng bình thường để đối đãi nhau.
3 – Đối với sự vật, tiếp tục, sự ưa
chuộng rất là yêu vui, có thể biết đó là vô thường, yêu mà không chấp giữ thì
chẳng bị lụy vì nó, dẫu mất đó cũng chẳng cảm thấy khó chịu, chẳng làm nô lệ
cho sự vật.
chuộng rất là yêu vui, có thể biết đó là vô thường, yêu mà không chấp giữ thì
chẳng bị lụy vì nó, dẫu mất đó cũng chẳng cảm thấy khó chịu, chẳng làm nô lệ
cho sự vật.
4 – Đối với danh lợi, quyền thế, chuyên
môn sở trường, của báu, phạm vi mình có, nên biết là huyễn mà không dính mắt,
tùy duyên lấy bỏ, được không vui, mất không buồn, biết phân định đó là vô
thường.
môn sở trường, của báu, phạm vi mình có, nên biết là huyễn mà không dính mắt,
tùy duyên lấy bỏ, được không vui, mất không buồn, biết phân định đó là vô
thường.
5 – Lúc đối đáp giao tiếp, lúc vui hết
mình, lúc kinh sợ, lúc lo lắng, lúc cô quạnh… có thể chịu nổi không bị bức
bách, nhân sự thích ứng mà tự như vậy, hoặc dứt bỏ buông rời, mảy may không
quái ngại.
mình, lúc kinh sợ, lúc lo lắng, lúc cô quạnh… có thể chịu nổi không bị bức
bách, nhân sự thích ứng mà tự như vậy, hoặc dứt bỏ buông rời, mảy may không
quái ngại.
6 – Đối với hoàn cảnh chẳng tốt đẹp,
công việc không thuận lợi, chỗ ở không thích nghi, bề mặt không tốt đẹp… các
cảnh nghịch; Đều nên phá bỏ tâm trói buộc, tùy cảnh gặp, nhân đó mà thích ứng,
mà an ổn, không lấy việc khổ vui thế tục mà làm khổ vui.
công việc không thuận lợi, chỗ ở không thích nghi, bề mặt không tốt đẹp… các
cảnh nghịch; Đều nên phá bỏ tâm trói buộc, tùy cảnh gặp, nhân đó mà thích ứng,
mà an ổn, không lấy việc khổ vui thế tục mà làm khổ vui.
– LẠI
BƯỚC KẾ TIẾP:
BƯỚC KẾ TIẾP:
1 – Nên tự sửa đổi tính cách, như bỏ
lìa: đa nghi, keo kiệt, gấp gáp, thô tháo, khéo tính toán, khéo tranh luận,
khéo hư vinh, khéo bài xích người khác… những cái riêng của ta cố chấp kết
nhóm khó lìa, từ sự câu chấp mà dẹp thoát, mà hào phóng, mà siêu vượt, mà viên
thông, mà tự tại.
lìa: đa nghi, keo kiệt, gấp gáp, thô tháo, khéo tính toán, khéo tranh luận,
khéo hư vinh, khéo bài xích người khác… những cái riêng của ta cố chấp kết
nhóm khó lìa, từ sự câu chấp mà dẹp thoát, mà hào phóng, mà siêu vượt, mà viên
thông, mà tự tại.
2 – Gặp lúc thiên tai, nhân họa, bệnh
tật, khổ nạn nặng nề v.v… thì biết tất cả sinh diệt vô thường, nguồn gốc
không huyễn, nên không buồn không sợ, xử sự thư thái, tùy duyên mà “Nhậm vận”,
tự tại vô ngại.
tật, khổ nạn nặng nề v.v… thì biết tất cả sinh diệt vô thường, nguồn gốc
không huyễn, nên không buồn không sợ, xử sự thư thái, tùy duyên mà “Nhậm vận”,
tự tại vô ngại.
3 – Tuy biết phân biệt nhưng không trụ
ở hai tướng, chẳng vì so lường mà sinh vọng tưởng, chẳng vì thương ghét mà sinh
phiền não, vào ở “trí không phân biệt”.
ở hai tướng, chẳng vì so lường mà sinh vọng tưởng, chẳng vì thương ghét mà sinh
phiền não, vào ở “trí không phân biệt”.
4 – Đối với ranh giới thị – phi, chánh
– tà thì hoàn toàn rõ chăng? Có tròn đầy rỗng không hay chăng? Lòng dạ có rộng
rãi hơn trước hay chăng? Vọng tưởng, phiền não, chấp trước có giảm ít cho đến
không có hay chăng? Đối với nghĩa chân thật tự ta thì đã có rõ ràng không nghi
ngờ hay chăng? Được “Pháp hỷ” hay chăng? Pháp hỷ thì tinh thần no đủ, không mỏi
mệt dễ dàng, thời gian ngủ nghỉ ít đi, tu hành không biếng nhác. Có tinh thần
là từ trong pháp hỷ.
– tà thì hoàn toàn rõ chăng? Có tròn đầy rỗng không hay chăng? Lòng dạ có rộng
rãi hơn trước hay chăng? Vọng tưởng, phiền não, chấp trước có giảm ít cho đến
không có hay chăng? Đối với nghĩa chân thật tự ta thì đã có rõ ràng không nghi
ngờ hay chăng? Được “Pháp hỷ” hay chăng? Pháp hỷ thì tinh thần no đủ, không mỏi
mệt dễ dàng, thời gian ngủ nghỉ ít đi, tu hành không biếng nhác. Có tinh thần
là từ trong pháp hỷ.
Muốn biết công phu tu hành của mình sâu
được bao nhiêu? Đức hạnh của mình có được bao nhiêu? (Đã đủ đức hạnh, thì chỗ ở
không đóng cữa ngõ mà ruồi muỗi hay các loài trùng nhỏ… chẳng thể tiến vào);
Các phần trên, nếu có thể tự ta khẳng định, thì là thành tựu của anh.
được bao nhiêu? Đức hạnh của mình có được bao nhiêu? (Đã đủ đức hạnh, thì chỗ ở
không đóng cữa ngõ mà ruồi muỗi hay các loài trùng nhỏ… chẳng thể tiến vào);
Các phần trên, nếu có thể tự ta khẳng định, thì là thành tựu của anh.
Ở thời gian tu hành, gặp bất cứ cảnh
giới nào, dù duyên thuận hay nghịch, đều phải cư xử thư thái, thuận nghịch đều
phải tinh tấn, xem tất cả muôn sự muôn vật thành là vì chúng ta mà nói pháp,
nếu chúng ta rõ biết muôn sự muôn vật đều ở tại thuyết pháp, thì có thể biết
chỗ kỳ diệu chẳng thể nói được; Nếu có thể rõ ràng rồi, thì có thể biết bản lai
diện mục, là đi trở về nhà, mượn pháp thế gian mà tu pháp xuất thế, chẳng bị
muôn pháp mê hoặc, ngay khi tất cả cảnh giới đến, đón tiếp mà hiểu biết, không
bị nó chướng ngại, thời gian thế nầy lâu rồi, Phật tánh của chúng ta sẽ hiển
hiện; Nguyên nhân không hiển hiện, tức là chúng ta chẳng tiến về trước, gặp
thiện duyên thì do dự không cương quyết, gặp ác duyên thì chạy với nó, do đó mà
bị dừng giữ lại ở trong đời hiện tại. Cho nên xem không rõ, buông không rời,
tóm lại chẳng được tự giải thoát, hồ đồ sinh ra rồi hồ đồ chết đi, chung qui là
điên điên đảo đảo, tìm không ra đạo lý như vậy. Đời người nầy tức là đời người
hồ đồ, tóm lại cho là mình có thành tựu lớn, có của cải giàu, có sự nghiệp lớn,
có danh vọng nhiều, mọi người khen ngợi, vâng làm, trọng đãi, phô trương nhiều!
Hiển hách nhiều! Ở trên đời người thế là thành công rồi; Đâu chẳng biết rằng
thành công trên đời người, tức là thất bại trên sự tu hành! Ra không khỏi luân
hồi! Cho nên cần đưa ra sự tính toán đặc biệt rõ ràng, làm một con người tu
hành chân chính minh bạch, đánh phá cửa sinh tử, vượt thoát vòng luân hồi, thế
nầy mới là người tu hành chân thật.
giới nào, dù duyên thuận hay nghịch, đều phải cư xử thư thái, thuận nghịch đều
phải tinh tấn, xem tất cả muôn sự muôn vật thành là vì chúng ta mà nói pháp,
nếu chúng ta rõ biết muôn sự muôn vật đều ở tại thuyết pháp, thì có thể biết
chỗ kỳ diệu chẳng thể nói được; Nếu có thể rõ ràng rồi, thì có thể biết bản lai
diện mục, là đi trở về nhà, mượn pháp thế gian mà tu pháp xuất thế, chẳng bị
muôn pháp mê hoặc, ngay khi tất cả cảnh giới đến, đón tiếp mà hiểu biết, không
bị nó chướng ngại, thời gian thế nầy lâu rồi, Phật tánh của chúng ta sẽ hiển
hiện; Nguyên nhân không hiển hiện, tức là chúng ta chẳng tiến về trước, gặp
thiện duyên thì do dự không cương quyết, gặp ác duyên thì chạy với nó, do đó mà
bị dừng giữ lại ở trong đời hiện tại. Cho nên xem không rõ, buông không rời,
tóm lại chẳng được tự giải thoát, hồ đồ sinh ra rồi hồ đồ chết đi, chung qui là
điên điên đảo đảo, tìm không ra đạo lý như vậy. Đời người nầy tức là đời người
hồ đồ, tóm lại cho là mình có thành tựu lớn, có của cải giàu, có sự nghiệp lớn,
có danh vọng nhiều, mọi người khen ngợi, vâng làm, trọng đãi, phô trương nhiều!
Hiển hách nhiều! Ở trên đời người thế là thành công rồi; Đâu chẳng biết rằng
thành công trên đời người, tức là thất bại trên sự tu hành! Ra không khỏi luân
hồi! Cho nên cần đưa ra sự tính toán đặc biệt rõ ràng, làm một con người tu
hành chân chính minh bạch, đánh phá cửa sinh tử, vượt thoát vòng luân hồi, thế
nầy mới là người tu hành chân thật.
TRONG SẠCH TÂM ÍT HAM MUỐN – TRỪ PHIỀN
NÃO
NÃO
Mỗi người đều có rất nhiều phiền não,
đây là nguồn gốc dẫn dắt mê hoặc và đau khổ. Người đời muốn thoát ly sự trói
buộc của phiền não, quyết cần phải tiến tu năm phương pháp:
đây là nguồn gốc dẫn dắt mê hoặc và đau khổ. Người đời muốn thoát ly sự trói
buộc của phiền não, quyết cần phải tiến tu năm phương pháp:
1 – Cần có chỗ thấy chính xác. Đối với
muôn sự muôn vật trên thế gian, cần nên giữ lấy cái nhìn chính xác, bày rõ quan
hệ nhân quả, tin xác thực tất cả cội nguồn của khổ đau, đều khởi từ phiền não
trong tâm ta, một ngày kia phiền não đã tiêu trừ, thì khổ đau sẽ tự nhiên không
từ đâu sinh khởi. Người đời bỡi do chỗ thấy không chính xác, cho nên mới đối
với “muôn sự muôn vật” và “Ngã” đã sinh khởi cái chấp có thật, hơn nữa do không
rõ phép tắc sự tuần hoàn nhân quả của việc đời, mà luống tự tăng trưởng mê
hoặc. Bị trói buộc ở nơi quan niệm sai lầm nầy, phiền não đương nhiên sẽ không
có cách nào tiêu mất, sự đau khổ cũng sẽ theo thời gian mà tăng trưởng. Cho nên
nói: Chỗ thấy chính xác là nguyên nhân chủ yếu nhất để tiêu trừ khổ đau.
muôn sự muôn vật trên thế gian, cần nên giữ lấy cái nhìn chính xác, bày rõ quan
hệ nhân quả, tin xác thực tất cả cội nguồn của khổ đau, đều khởi từ phiền não
trong tâm ta, một ngày kia phiền não đã tiêu trừ, thì khổ đau sẽ tự nhiên không
từ đâu sinh khởi. Người đời bỡi do chỗ thấy không chính xác, cho nên mới đối
với “muôn sự muôn vật” và “Ngã” đã sinh khởi cái chấp có thật, hơn nữa do không
rõ phép tắc sự tuần hoàn nhân quả của việc đời, mà luống tự tăng trưởng mê
hoặc. Bị trói buộc ở nơi quan niệm sai lầm nầy, phiền não đương nhiên sẽ không
có cách nào tiêu mất, sự đau khổ cũng sẽ theo thời gian mà tăng trưởng. Cho nên
nói: Chỗ thấy chính xác là nguyên nhân chủ yếu nhất để tiêu trừ khổ đau.
2 – Cần khắc phục dục vọng. Người đời
nếu có dục vọng thì nhất định có phiền não. Cho nên cần phải lấy tâm thanh tịnh
để giữ gìn dục vọng sinh khởi từ sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý,
cần dứt trừ cội nguồn phát sinh phiền não.
nếu có dục vọng thì nhất định có phiền não. Cho nên cần phải lấy tâm thanh tịnh
để giữ gìn dục vọng sinh khởi từ sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý,
cần dứt trừ cội nguồn phát sinh phiền não.
3 – Chẳng bị nô lệ vật bên ngoài. Vạn
vật ở thế gian là ứng với sự nhu cầu của con người mà sinh, mục đích của mặc y
phục là ngăn che và tránh lạnh, cho đến bao lấy những cái xấu hổ bên trong; Mục
đích của ăn uống là đủ no và nuôi dưỡng đời sống, để tiện việc tu tập, chẳng
được tham lam hưởng lạc, mà chẳng biết đủ đầy. Nếu có thể giữ được cách nhìn
chính xác nầy, chẳng bị vật bên ngoài sai sử, thì phiền não không từ đâu mà
sinh khởi.
vật ở thế gian là ứng với sự nhu cầu của con người mà sinh, mục đích của mặc y
phục là ngăn che và tránh lạnh, cho đến bao lấy những cái xấu hổ bên trong; Mục
đích của ăn uống là đủ no và nuôi dưỡng đời sống, để tiện việc tu tập, chẳng
được tham lam hưởng lạc, mà chẳng biết đủ đầy. Nếu có thể giữ được cách nhìn
chính xác nầy, chẳng bị vật bên ngoài sai sử, thì phiền não không từ đâu mà
sinh khởi.
4 – Tâm nhẫn nại phải nên bồi dưỡng cao
độ. Không luận là hoàn cảnh hiểm ác bao nhiêu, nếu nhẫn nại khiêm nhường, tất
cả phiền não tranh chấp sẽ bị tiêu diệt ở nơi vô hình. Quá nóng, lạnh giá, đói
rét, khô khát đều cần nhẫn nại; Gặp bị nhục mạ, chê bai, cũng cần nhẫn nại bình
tâm tĩnh khí, quên hết những nỗi bận tâm, lo âu, lửa phiền não không cách nào
nổi dậy, cũng sẽ chẳng cách nào thiêu hủy tự thân được.
độ. Không luận là hoàn cảnh hiểm ác bao nhiêu, nếu nhẫn nại khiêm nhường, tất
cả phiền não tranh chấp sẽ bị tiêu diệt ở nơi vô hình. Quá nóng, lạnh giá, đói
rét, khô khát đều cần nhẫn nại; Gặp bị nhục mạ, chê bai, cũng cần nhẫn nại bình
tâm tĩnh khí, quên hết những nỗi bận tâm, lo âu, lửa phiền não không cách nào
nổi dậy, cũng sẽ chẳng cách nào thiêu hủy tự thân được.
5 – Xa lìa sự mê hoặc dẫn dụ của cảnh
xấu (ác). Chính như người hiền chẳng tiếp gần các loại như: Ngựa chứng, chó
điên; Người tu hành cũng chẳng nên tiếp gần hoàn cảnh đầy dẫy hiểm ác, hoặc chỗ
ở gần, bạn bè, sách vở v.v… những điều có hại đối với mình, người tu hành nếu
xa lìa sự mê hoặc dẫn dụ của các việc hiểm ác, lửa phiền não tự sẽ bình yên dứt
mất.
xấu (ác). Chính như người hiền chẳng tiếp gần các loại như: Ngựa chứng, chó
điên; Người tu hành cũng chẳng nên tiếp gần hoàn cảnh đầy dẫy hiểm ác, hoặc chỗ
ở gần, bạn bè, sách vở v.v… những điều có hại đối với mình, người tu hành nếu
xa lìa sự mê hoặc dẫn dụ của các việc hiểm ác, lửa phiền não tự sẽ bình yên dứt
mất.
Các món dục vọng của thế gian, tóm lại
chẳng ra ngoài năm việc: Đồ vật được thấy ở mắt, âm thanh được nghe ở tai, mùi
hương được nghe ở mũi, vị được thưởng thức ở đầu lưỡi, cảm giác được chạm xúc ở
nơi thân; Năm cơ quan mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nầy tìm cầu cảm giác khoái thích
và hấp dẫn, bèn là năm việc ham muốn (ngũ dục).
chẳng ra ngoài năm việc: Đồ vật được thấy ở mắt, âm thanh được nghe ở tai, mùi
hương được nghe ở mũi, vị được thưởng thức ở đầu lưỡi, cảm giác được chạm xúc ở
nơi thân; Năm cơ quan mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nầy tìm cầu cảm giác khoái thích
và hấp dẫn, bèn là năm việc ham muốn (ngũ dục).
Con người, hầu hết đều vì dục vọng của
bản thân bị hấp dẫn mà chìm đắm trong đó, không xét hiểu được kết quả đam mê ở
nơi ham muốn của bản thân thì sẽ phát sinh nhẫn đến tai hại đáng sợ.
bản thân bị hấp dẫn mà chìm đắm trong đó, không xét hiểu được kết quả đam mê ở
nơi ham muốn của bản thân thì sẽ phát sinh nhẫn đến tai hại đáng sợ.
Cũng vậy, nếu người ta có thể tu luyện
tâm mình, chẳng bị mê hoặc bỡi năm dục, thì không luận là hiện tại hay vị lai,
đều có thể không phiền não, không khổ đau, được hạnh phúc mà vui vẻ.
tâm mình, chẳng bị mê hoặc bỡi năm dục, thì không luận là hiện tại hay vị lai,
đều có thể không phiền não, không khổ đau, được hạnh phúc mà vui vẻ.
Một con người tham cầu không nhàm chán
sự giàu có, danh tiếng, quyền thế, sắc đẹp, thế thì phiền não sẽ không cách nào
dẹp thoát được.
sự giàu có, danh tiếng, quyền thế, sắc đẹp, thế thì phiền não sẽ không cách nào
dẹp thoát được.
Tâm người là nhu nhược mười phần, rất
dễ lay động, một chút mà không giữ thần giữ ý, thì sẽ hướng lệch lạc đến ở
trong dục vọng đầy những tập khí nặng nề. Ví như xem được, nghe được, muốn được
sự vật vui thích, thì sẽ sinh khởi tâm THAM. Xem được, nghe được, gặp được sự
vật chẳng thuận ý mình, thì sinh khởi tâm SÂN. Xem được, nghe được, gặp được sự
vật đáng sợ, thì sẽ sinh khởi tâm sợ hãi. Trong tâm nếu thường xuyên ở trong
cảnh tham, thì tâm tham sẽ tăng mạnh. Nếu thường nghĩ tưởng cảnh sân hoặc cảnh
sợ hãi, thì tâm sân và tâm sợ hãi cũng sẽ mạnh mẽ lên từng ngày.
dễ lay động, một chút mà không giữ thần giữ ý, thì sẽ hướng lệch lạc đến ở
trong dục vọng đầy những tập khí nặng nề. Ví như xem được, nghe được, muốn được
sự vật vui thích, thì sẽ sinh khởi tâm THAM. Xem được, nghe được, gặp được sự
vật chẳng thuận ý mình, thì sinh khởi tâm SÂN. Xem được, nghe được, gặp được sự
vật đáng sợ, thì sẽ sinh khởi tâm sợ hãi. Trong tâm nếu thường xuyên ở trong
cảnh tham, thì tâm tham sẽ tăng mạnh. Nếu thường nghĩ tưởng cảnh sân hoặc cảnh
sợ hãi, thì tâm sân và tâm sợ hãi cũng sẽ mạnh mẽ lên từng ngày.
Cho nên cần phải đem mình mà nghiêm túc
giữ gìn, phá trừ tất cả niệm tà ác, triệt để dẹp bỏ tâm tham, sân và hại (sợ
hãi); Bồi dưỡng tâm chẳng tham, chẳng sân và chẳng hãi sợ. Nếu như tâm chẳng
thanh tịnh, hành vi sẽ có mối tệ; Hành vi có mối tệ, thì không thể tránh khỏi
phiền não. Do đó, nên thanh tịnh nội tâm, cẩn thận lời nói và việc làm.
giữ gìn, phá trừ tất cả niệm tà ác, triệt để dẹp bỏ tâm tham, sân và hại (sợ
hãi); Bồi dưỡng tâm chẳng tham, chẳng sân và chẳng hãi sợ. Nếu như tâm chẳng
thanh tịnh, hành vi sẽ có mối tệ; Hành vi có mối tệ, thì không thể tránh khỏi
phiền não. Do đó, nên thanh tịnh nội tâm, cẩn thận lời nói và việc làm.
PHƯƠNG PHÁP ĐOẠN TRỪ PHIỀN NÃO
1 – Không nghĩ quá khứ, hiện tại, vị
lai, tốt xấu, đắc thất, vinh nhục, khổ vui.
lai, tốt xấu, đắc thất, vinh nhục, khổ vui.
2 – Giữ gìn nhãn căn của mình, dùng
pháp “bất tịnh” mà quán sát, nếu dùng pháp tịnh mà quán thì sinh ra các món
phiền não; Năm căn khác cũng như vậy.
pháp “bất tịnh” mà quán sát, nếu dùng pháp tịnh mà quán thì sinh ra các món
phiền não; Năm căn khác cũng như vậy.
3 – Xa lìa tất cả các việc ác, như sự
dụ dẫn mê hoặc của tri thức, bạn bè, ở hàng xóm v.v…
dụ dẫn mê hoặc của tri thức, bạn bè, ở hàng xóm v.v…
4 – Ở việc ăn mặc, chẳng phải là sự lợi
dưỡng tự thân, hay là để cống cao ngã mạn; Đó chỉ là nhiếp phòng cho mạng căn,
khiến cho thân được yên ổn; Hai cảnh thuận nghịch cần nên nhẫn; Đói, khát,
lạnh, nóng, muỗi, ruồi… bức xúc, tiếng ác đập gõ cũng nên nhẫn, thân thể gặp
các bệnh rất là khổ đau, còn có các việc không vui cũng đều nên phải nhẫn.
dưỡng tự thân, hay là để cống cao ngã mạn; Đó chỉ là nhiếp phòng cho mạng căn,
khiến cho thân được yên ổn; Hai cảnh thuận nghịch cần nên nhẫn; Đói, khát,
lạnh, nóng, muỗi, ruồi… bức xúc, tiếng ác đập gõ cũng nên nhẫn, thân thể gặp
các bệnh rất là khổ đau, còn có các việc không vui cũng đều nên phải nhẫn.
Người tu hành nếu sinh niệm ham muốn,
chẳng chịu trừ bỏ, sinh tà kiến chẳng chịu xả trừ, thì phiền não khởi, chỉ duy
lấy chánh kiến, chánh tư duy mới có thể đoạn trừ phiền não.
chẳng chịu trừ bỏ, sinh tà kiến chẳng chịu xả trừ, thì phiền não khởi, chỉ duy
lấy chánh kiến, chánh tư duy mới có thể đoạn trừ phiền não.
NGÃ CHẤP
Chấp trước: Chấp là giữ cứng; Trước là
dính chắc; Vọng tưởng là lầm lỗi; Chấp trước là giữ chặc lấy lầm lỗi.
dính chắc; Vọng tưởng là lầm lỗi; Chấp trước là giữ chặc lấy lầm lỗi.
Phàm là chấp trước: thân ta, tâm ta,
tri kiến ta, khả năng ta, ta lợi hại, ta yêu ghét v.v… đều thuộc về “Ngã
chấp”. Chính con người thường lấy NGÃ làm trung tâm, lúc tranh sĩ diện, tranh
hư vinh, tranh ý khí, tranh được mất từ công việc, tức là lúc biểu lộ ngã chấp.
tri kiến ta, khả năng ta, ta lợi hại, ta yêu ghét v.v… đều thuộc về “Ngã
chấp”. Chính con người thường lấy NGÃ làm trung tâm, lúc tranh sĩ diện, tranh
hư vinh, tranh ý khí, tranh được mất từ công việc, tức là lúc biểu lộ ngã chấp.
Đời người nguyên là vô ngã và chẳng có
kiến chấp ngã, ngay khi người ở yên tịnh, lúc chẳng ghét chẳng cầu, không ân
không oán, vốn không gọi là ý thức ngã và phi ngã; Kiến chấp về ngã bỡi do phân
biệt so đo mà sinh, ý thức vun bồi mà thành, thói quen đã chứa khó sửa đổi mà
chấp.
kiến chấp ngã, ngay khi người ở yên tịnh, lúc chẳng ghét chẳng cầu, không ân
không oán, vốn không gọi là ý thức ngã và phi ngã; Kiến chấp về ngã bỡi do phân
biệt so đo mà sinh, ý thức vun bồi mà thành, thói quen đã chứa khó sửa đổi mà
chấp.
Người thường hoặc dùng thân thể làm
“Ngã”, hoặc dùng sự thấy hiểu của tư tưởng làm “Ngã”, hoặc dùng hành vi tạo tác
làm “Ngã”, hoặc dùng danh dự – giàu có – quyền thế làm “Ngã”, thậm chí dùng cái
thuộc sở hữu làm “Ngã”; Chỗ gọi là “Ngã” ấy, bất quá là một món giả định trên
quan niệm mà thôi.
“Ngã”, hoặc dùng sự thấy hiểu của tư tưởng làm “Ngã”, hoặc dùng hành vi tạo tác
làm “Ngã”, hoặc dùng danh dự – giàu có – quyền thế làm “Ngã”, thậm chí dùng cái
thuộc sở hữu làm “Ngã”; Chỗ gọi là “Ngã” ấy, bất quá là một món giả định trên
quan niệm mà thôi.
Sợ sệt đời người, lo lắng xã hội, chỉ
duyên chúng sinh chấp trước ngã kiến (kiến chấp về ngã), thói quen chứa nhóm
riêng tư, người người đều cố tham chấp “cái ta” nầy, bài trừ những cái chẳng
phải ta, vì mưu lợi cho “cái ta” nầy, bèn đưa mình lên và ức chế người khác
xuống, ở việc đó mưu tính hại nhau, nhiễu nhương không dứt, thành ra tranh
chấp, ghét hận, oán cừu, đánh nhau, tàn hại v.v… rất là buồn khổ.
duyên chúng sinh chấp trước ngã kiến (kiến chấp về ngã), thói quen chứa nhóm
riêng tư, người người đều cố tham chấp “cái ta” nầy, bài trừ những cái chẳng
phải ta, vì mưu lợi cho “cái ta” nầy, bèn đưa mình lên và ức chế người khác
xuống, ở việc đó mưu tính hại nhau, nhiễu nhương không dứt, thành ra tranh
chấp, ghét hận, oán cừu, đánh nhau, tàn hại v.v… rất là buồn khổ.
Chấp trước hư vinh, tranh hơn ghen
ghét, ỷ mạnh tranh thắng, kích động tổn thương người. Si mê danh lợi, cam chịu
làm tay sai, dốc lòng dựa dẫm leo cao, chẳng trừ thủ đoạn, mưu tính hại nhau,
trở trái vô thường, bán bạn cầu vinh, làm phản cướp lợi, vì riêng tư mà làm
rối, che dối thiện lương, vì quấy làm tồi, tán tâm cuồng bệnh. Tham lam, tranh
bá, đoạt lấy, tàn hại, đấu tranh, giết chóc, kết oán.
ghét, ỷ mạnh tranh thắng, kích động tổn thương người. Si mê danh lợi, cam chịu
làm tay sai, dốc lòng dựa dẫm leo cao, chẳng trừ thủ đoạn, mưu tính hại nhau,
trở trái vô thường, bán bạn cầu vinh, làm phản cướp lợi, vì riêng tư mà làm
rối, che dối thiện lương, vì quấy làm tồi, tán tâm cuồng bệnh. Tham lam, tranh
bá, đoạt lấy, tàn hại, đấu tranh, giết chóc, kết oán.
Thân có: Sinh, lão, bệnh, tử. Vật có: Thành, trụ, hoại,
không. Tâm có: Khởi, chấp,
chuyển, dứt. Người có:
Kết, họp, tản, lìa.Sự có: Lập, hưng, suy, phế. Trời có gió mây bất trắc. Đời có họa phước ngày đêm, tùy thời gian chuyển
biến, không có hằng thường, việc thế gian không như ý ta ấy, thường thì tám –
chín phần mười; người ta ở trong sự chuyển biến không dứt nầy chỉnh đốn hoàn
cảnh, chẳng nên đem một mảnh ý thức riêng mình si chấp giằng co, ngoan cố không
chịu biến đổi, hoặc “gọt chân cho vừa giày” (làm sai những nguyên tắc đã có
sẵn), si mê tự trói buộc, cũng chẳng nên giữ gìn chấp lệch về một phía của
riêng mình, rắp tâm cưỡng cầu, cố sức đoạt lấy, hoặc cố ý bẻ cong sự thật, cố
giữ ý phá hoại, càng chẳng nên đối với cái không thích riêng mình mà trói buộc
ở nơi tình, phóng túng đường tình mạnh mẽ, ý khí tranh chấp, hoặc tìm cừu thù
gây sự, đánh nhau rất là hung ác. Ngược lại, quán sát cần nên thấu triệt, lý
trí sáng suốt, khi đã rõ ràng ra thì ôm lòng thương xót, nhìn thấu tâm cảnh,
nên rất là đạm bạc trong sự ham muốn riêng tư, đối xử với người tốt đẹp hài
hòa, sửa đổi công việc một cách tròn đầy bao dung. Chớ nên chấp cái “nhân” của
thói quen, chớ nên chấp “tri kiến” mà trói buộc, chớ nên chấp “ngã” mà có sự
riêng tư, chớ nên chấp “oán” mà có sự đấu tranh.
không. Tâm có: Khởi, chấp,
chuyển, dứt. Người có:
Kết, họp, tản, lìa.Sự có: Lập, hưng, suy, phế. Trời có gió mây bất trắc. Đời có họa phước ngày đêm, tùy thời gian chuyển
biến, không có hằng thường, việc thế gian không như ý ta ấy, thường thì tám –
chín phần mười; người ta ở trong sự chuyển biến không dứt nầy chỉnh đốn hoàn
cảnh, chẳng nên đem một mảnh ý thức riêng mình si chấp giằng co, ngoan cố không
chịu biến đổi, hoặc “gọt chân cho vừa giày” (làm sai những nguyên tắc đã có
sẵn), si mê tự trói buộc, cũng chẳng nên giữ gìn chấp lệch về một phía của
riêng mình, rắp tâm cưỡng cầu, cố sức đoạt lấy, hoặc cố ý bẻ cong sự thật, cố
giữ ý phá hoại, càng chẳng nên đối với cái không thích riêng mình mà trói buộc
ở nơi tình, phóng túng đường tình mạnh mẽ, ý khí tranh chấp, hoặc tìm cừu thù
gây sự, đánh nhau rất là hung ác. Ngược lại, quán sát cần nên thấu triệt, lý
trí sáng suốt, khi đã rõ ràng ra thì ôm lòng thương xót, nhìn thấu tâm cảnh,
nên rất là đạm bạc trong sự ham muốn riêng tư, đối xử với người tốt đẹp hài
hòa, sửa đổi công việc một cách tròn đầy bao dung. Chớ nên chấp cái “nhân” của
thói quen, chớ nên chấp “tri kiến” mà trói buộc, chớ nên chấp “ngã” mà có sự
riêng tư, chớ nên chấp “oán” mà có sự đấu tranh.
LÚC NIỆM PHẬT VỌNG TƯỞNG NHIỀU
– Có những người nói: Lúc ta niệm Phật,
không hiểu duyên cớ vì sao, vọng tưởng ở trong tâm ta khởi lên nhiều, do đó
niệm Phật không thể chuyên tâm được, muốn trừ vọng tưởng thật là rất khó?
không hiểu duyên cớ vì sao, vọng tưởng ở trong tâm ta khởi lên nhiều, do đó
niệm Phật không thể chuyên tâm được, muốn trừ vọng tưởng thật là rất khó?
Người ban đầu học Phật, tâm còn thô
tháo động loạn nhiều, định lực chẳng đủ, niệm trước dứt niệm sau khởi, niệm
niệm liên tục trong một sát na, trọn không dừng dứt. Vọng tưởng tức là nghiệp
chướng. Tâm có chơn có vọng, một mà hai, hai mà một; Tâm phàm phu nhảy nhót
dong ruổi, niệm niệm luân lưu biến chuyển, chưa từng có một lúc dừng nghỉ, đây
là vọng tâm vậy.
tháo động loạn nhiều, định lực chẳng đủ, niệm trước dứt niệm sau khởi, niệm
niệm liên tục trong một sát na, trọn không dừng dứt. Vọng tưởng tức là nghiệp
chướng. Tâm có chơn có vọng, một mà hai, hai mà một; Tâm phàm phu nhảy nhót
dong ruổi, niệm niệm luân lưu biến chuyển, chưa từng có một lúc dừng nghỉ, đây
là vọng tâm vậy.
Chúng ta có thể lăng xăng loạn động ở
tâm tư, không lúc nào ngưng tâm nhứt ý niệm Phật là việc rất tự nhiên, nhân vì
chúng ta rốt cuộc còn phải trải qua thời gian ở trần thế, gốc của phiền não
vọng niệm đó là đã trói buộc lâu ngày chẳng buông rời, nên bất tất phải tiêu
diệt nó. Không có vọng niệm thì không thể phát sinh ra chánh niệm, không có
phiền não thì chẳng thể muốn thoát khổ. Mà niệm Phật là chánh niệm, chúng ta
còn phải niệm ra câu niệm không dứt đoạn: “Nam Mô A Di Đà Phật”, vọng tưởng
không cách nào mọc rễ thì tự động tiêu diệt, chẳng thể lâu dài trói buộc ở nơi
chúng ta.
tâm tư, không lúc nào ngưng tâm nhứt ý niệm Phật là việc rất tự nhiên, nhân vì
chúng ta rốt cuộc còn phải trải qua thời gian ở trần thế, gốc của phiền não
vọng niệm đó là đã trói buộc lâu ngày chẳng buông rời, nên bất tất phải tiêu
diệt nó. Không có vọng niệm thì không thể phát sinh ra chánh niệm, không có
phiền não thì chẳng thể muốn thoát khổ. Mà niệm Phật là chánh niệm, chúng ta
còn phải niệm ra câu niệm không dứt đoạn: “Nam Mô A Di Đà Phật”, vọng tưởng
không cách nào mọc rễ thì tự động tiêu diệt, chẳng thể lâu dài trói buộc ở nơi
chúng ta.
Niệm Phật có vọng tưởng, là chúng ta
dụng công niệm Phật soi rọi ngược lại ở trong tâm, do đó mới biết có vọng
tưởng, lúc trước không niệm Phật, trong tâm mất đi sự quản lý, chính mình cũng
có thói quen không suy xét; Chúng ta niệm Phật là chèn ép vọng tưởng đi.
dụng công niệm Phật soi rọi ngược lại ở trong tâm, do đó mới biết có vọng
tưởng, lúc trước không niệm Phật, trong tâm mất đi sự quản lý, chính mình cũng
có thói quen không suy xét; Chúng ta niệm Phật là chèn ép vọng tưởng đi.
Hàng phàm phu chúng ta, ban đầu niệm
Phật, thì vọng tưởng lăng xăng, tâm không cách nào yên tỉnh được, biện pháp duy
nhất là chí thành khẩn thiết niệm chuyên tâm; Vọng tưởng khởi lên không thể bỏ
được, càng không thể muốn tiêu diệt nó; Ta niệm Phật của ta, thuận với tự
nhiên, thời gian lâu rồi, công phu đến lúc, vọng tưởng sẽ tự nhiên giảm ít cho
đến không còn; Nếu muốn vọng tưởng không khởi thì vọng tưởng ngược lại càng
nhiều. Có thể nhất tâm bất loạn thì không có vọng tưởng rồi. Rất nhiều người
thường xuyên đề cập, lúc niệm Phật còn có vọng tưởng, chẳng qua là chút ít mà
thôi. Không nên vì niệm Phật có vọng tưởng nhiều mà sinh phiền não! Công phu
của ta đến lúc nhất tâm bất loạn, vọng tưởng sẽ không có.
Phật, thì vọng tưởng lăng xăng, tâm không cách nào yên tỉnh được, biện pháp duy
nhất là chí thành khẩn thiết niệm chuyên tâm; Vọng tưởng khởi lên không thể bỏ
được, càng không thể muốn tiêu diệt nó; Ta niệm Phật của ta, thuận với tự
nhiên, thời gian lâu rồi, công phu đến lúc, vọng tưởng sẽ tự nhiên giảm ít cho
đến không còn; Nếu muốn vọng tưởng không khởi thì vọng tưởng ngược lại càng
nhiều. Có thể nhất tâm bất loạn thì không có vọng tưởng rồi. Rất nhiều người
thường xuyên đề cập, lúc niệm Phật còn có vọng tưởng, chẳng qua là chút ít mà
thôi. Không nên vì niệm Phật có vọng tưởng nhiều mà sinh phiền não! Công phu
của ta đến lúc nhất tâm bất loạn, vọng tưởng sẽ không có.
Niệm Phật có vọng tưởng nhiều, tâm khó
qui nhất, phải nhất tâm chí thành khẩn thiết (chuyên niệm – tập niệm thành thói
quen sẽ dễ nhiếp tâm hơn), lâu ngày vọng tưởng tự mất. Nếu khó qui nhất, tức
nên dùng “Mười niệm nhớ số”. Gọi là mười niệm nhớ số tức là ngay lúc niệm Phật,
từ một câu đến mười câu, cần niệm rõ ràng nhớ cũng rõ ràng. Đến mười câu rồi,
lại bắt đầu từ câu một niệm đi… không được dùng chuỗi, chỉ nhờ tâm nhớ, nếu
một lần nhớ mười câu khó nhớ, có thể phân làm hai hơi, từ một đến năm, từ sáu
đến mười làm hai lần niệm; Nếu giữa chừng vọng khởi thì bắt đầu lại từ câu thứ
nhất mà niệm. Niệm được rõ ràng, nhớ được rõ ràng, nghe được rõ ràng, mỗi ngày
niệm được vài vạn, đều niệm như thế, lâu rồi tự được. Vọng niệm nặng nề thì
chăm vào câu niệm Phật vậy. Như lúc chẳng niệm Phật thì lăng xăng sóng dậy,
vọng niệm lao xao chẳng dừng, dù khoảng sát na, đâu có thể tỉnh giác được ư.
qui nhất, phải nhất tâm chí thành khẩn thiết (chuyên niệm – tập niệm thành thói
quen sẽ dễ nhiếp tâm hơn), lâu ngày vọng tưởng tự mất. Nếu khó qui nhất, tức
nên dùng “Mười niệm nhớ số”. Gọi là mười niệm nhớ số tức là ngay lúc niệm Phật,
từ một câu đến mười câu, cần niệm rõ ràng nhớ cũng rõ ràng. Đến mười câu rồi,
lại bắt đầu từ câu một niệm đi… không được dùng chuỗi, chỉ nhờ tâm nhớ, nếu
một lần nhớ mười câu khó nhớ, có thể phân làm hai hơi, từ một đến năm, từ sáu
đến mười làm hai lần niệm; Nếu giữa chừng vọng khởi thì bắt đầu lại từ câu thứ
nhất mà niệm. Niệm được rõ ràng, nhớ được rõ ràng, nghe được rõ ràng, mỗi ngày
niệm được vài vạn, đều niệm như thế, lâu rồi tự được. Vọng niệm nặng nề thì
chăm vào câu niệm Phật vậy. Như lúc chẳng niệm Phật thì lăng xăng sóng dậy,
vọng niệm lao xao chẳng dừng, dù khoảng sát na, đâu có thể tỉnh giác được ư.
Như thế nào trừ được tạp niệm? Chẳng
tiêu trừ được, nhưng tự phấn chấn tinh thần, dùng một niệm nầy hoàn toàn để nơi
Phật, tạp niệm tức không có. Song tinh lực mệt yếu, thì không thể khiến cho tạp
niệm không có, lại phải như thế nào? Đạo lực chưa đầy đủ, nhiều những tán loạn,
thì thu nhiếp sáu căn lần quay về thanh tịnh. Ngay khi tạp niệm khởi, chẳng nên
xử lý nó, cũng chẳng nên chuyển theo nó, mà ta chỉ niệm Phật, sẽ tự nhiên không
tạp niệm vậy. Nhưng lâu sau tạp niệm lại khởi, thậm chí ràng buộc không mở
được, bất tất phải nóng nảy, chỉ lắng trong sự suy nghĩ của tâm, khiến sáu chữ
Hồng Danh phát ra từ tâm, thành tiếng từ miệng, nghe tiếng rõ ràng ở trong tai,
trở lại lưu xuất từ trong tâm niệm, xoay vần xâu nhiếp chẳng để gián đoạn, thì
tạp niệm tự sẽ không có.
tiêu trừ được, nhưng tự phấn chấn tinh thần, dùng một niệm nầy hoàn toàn để nơi
Phật, tạp niệm tức không có. Song tinh lực mệt yếu, thì không thể khiến cho tạp
niệm không có, lại phải như thế nào? Đạo lực chưa đầy đủ, nhiều những tán loạn,
thì thu nhiếp sáu căn lần quay về thanh tịnh. Ngay khi tạp niệm khởi, chẳng nên
xử lý nó, cũng chẳng nên chuyển theo nó, mà ta chỉ niệm Phật, sẽ tự nhiên không
tạp niệm vậy. Nhưng lâu sau tạp niệm lại khởi, thậm chí ràng buộc không mở
được, bất tất phải nóng nảy, chỉ lắng trong sự suy nghĩ của tâm, khiến sáu chữ
Hồng Danh phát ra từ tâm, thành tiếng từ miệng, nghe tiếng rõ ràng ở trong tai,
trở lại lưu xuất từ trong tâm niệm, xoay vần xâu nhiếp chẳng để gián đoạn, thì
tạp niệm tự sẽ không có.
CHẲNG NÊN VỌNG CẦU CẢM ỨNG
Đã từng có nhiều người lần đầu nghe nói
“Tịnh độ tông” – Pháp môn trì danh niệm Phật, kinh ngạc đối với một tiếng “Nam
Mô A Di Đà Phật” chứa đựng sự thẳng tắt thành Phật rất đơn giản, rất dễ dàng và
rất rộng rãi, mà hiện ra nét mặt vui tươi, trong lòng phát ra tâm tình rạng rỡ
như là “Ta đã tìm được rồi”. Thế là trên tay lần chuỗi, trong miệng niệm Phật
râm rang, bất luận là đi, đứng, ngồi, nằm đều niệm, chuỗi chẳng rời tay, miệng
chẳng lìa câu danh niệm Phật, một bộ dạng tu hành thật sự; Trải qua bao nhiêu
thời gian, trên kinh đã nói một tiếng niệm Phật diệt được hà sa tội, nhưng ta
đã niệm vô số tiếng rồi, mà cuộc sống cũng giống như không có sự thay đổi gì,
việc không như ý mà người thường thế tục gặp được, cũng mãi đổ trút trên đầu
của ta. Xem người niệm Phật ở trên “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục”, mỗi việc đã đầy đủ
sự cảm ứng thần kỳ, không chỉ là Thần về thế giới Cực Lạc, thì cũng là gặp thấy
được Đức Phật A Di Đà, và Bồ tát Quán Thế Âm, sao ta không có một chút cảm ứng
nào? Một khi thất vọng thì chẳng chịu niệm nữa. Trạng thái tâm lý gấp rút cầu
lợi như thế thì cầu chẳng được, chỉ biết người khác niệm Phật được cảm ứng
thôi, ngược lại không biết họ niệm Phật đã bỏ ra bao nhiêu là công phu? Đã niệm
Phật bao nhiêu năm? Lúc niệm Phật “Nhất tâm bất loạn”. Anh niệm Phật đã được
bao nhiêu năm? Lúc niệm Phật gió thổi cỏ động anh đều biết đến, vọng tưởng tạp
loạn lăng xăng, sáu căn chẳng động – anh làm không được; Chỉ hỏi vấn đề thu
hoạch, mà không hỏi vấn đề cày bừa, vọng cầu cảm ứng có được hay không?
“Tịnh độ tông” – Pháp môn trì danh niệm Phật, kinh ngạc đối với một tiếng “Nam
Mô A Di Đà Phật” chứa đựng sự thẳng tắt thành Phật rất đơn giản, rất dễ dàng và
rất rộng rãi, mà hiện ra nét mặt vui tươi, trong lòng phát ra tâm tình rạng rỡ
như là “Ta đã tìm được rồi”. Thế là trên tay lần chuỗi, trong miệng niệm Phật
râm rang, bất luận là đi, đứng, ngồi, nằm đều niệm, chuỗi chẳng rời tay, miệng
chẳng lìa câu danh niệm Phật, một bộ dạng tu hành thật sự; Trải qua bao nhiêu
thời gian, trên kinh đã nói một tiếng niệm Phật diệt được hà sa tội, nhưng ta
đã niệm vô số tiếng rồi, mà cuộc sống cũng giống như không có sự thay đổi gì,
việc không như ý mà người thường thế tục gặp được, cũng mãi đổ trút trên đầu
của ta. Xem người niệm Phật ở trên “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục”, mỗi việc đã đầy đủ
sự cảm ứng thần kỳ, không chỉ là Thần về thế giới Cực Lạc, thì cũng là gặp thấy
được Đức Phật A Di Đà, và Bồ tát Quán Thế Âm, sao ta không có một chút cảm ứng
nào? Một khi thất vọng thì chẳng chịu niệm nữa. Trạng thái tâm lý gấp rút cầu
lợi như thế thì cầu chẳng được, chỉ biết người khác niệm Phật được cảm ứng
thôi, ngược lại không biết họ niệm Phật đã bỏ ra bao nhiêu là công phu? Đã niệm
Phật bao nhiêu năm? Lúc niệm Phật “Nhất tâm bất loạn”. Anh niệm Phật đã được
bao nhiêu năm? Lúc niệm Phật gió thổi cỏ động anh đều biết đến, vọng tưởng tạp
loạn lăng xăng, sáu căn chẳng động – anh làm không được; Chỉ hỏi vấn đề thu
hoạch, mà không hỏi vấn đề cày bừa, vọng cầu cảm ứng có được hay không?
Có thể từ niệm Phật mà đạt được chỗ tốt
đẹp rất nhiều, là quyết định ở nơi tâm tình và nổ lực niệm Phật của ta. Cũng
vậy, người niệm Phật, có chỗ khác nhau rất lớn giữa người có thể niệm và người
không thể niệm. Người có thể niệm, rất dễ dàng có thể niệm thoải mái trong
lòng; Còn người không thể niệm rất dễ dàng rơi vào sự gấp rút cầu lợi, khô
khan, lãnh vực cơ giới hóa, mà mất đi sự hứng thú của tín tâm. Nếu như hoàn
toàn tin vào kinh điển, hoàn toàn tin vào nguyện lực đại bi của Đức Phật A Di
Đà, nếu như lấy lòng cảm ơn cảm tạ để niệm Phật, cảm ơn có thể niệm Phật thì
sao là vận may! Cảm tạ mình có thân tâm niệm Phật, cảm tạ chư vị đại đức tổ sư
nhiều đời truyền nên huệ mạng Phật pháp… mà có thể niệm Phật, ắc cần người và
việc cảm ơn cảm tạ rất ư là nhiều rồi, ở trong lòng cảm ơn như thế nầy mà niệm
Phật, thì tâm tình rất là thoải mái; Nếu như lấy tâm tình vui vẻ để mà niệm
Phật, chẳng hiểu là anh được một việc vui vẻ hay không? Niệm Phật A Di Đà, đời
sau sanh về thế giới Cực Lạc, có thể chẳng vui sao? Tức khiến không muốn niệm
Phật có chỗ tốt đẹp nhiều thế nầy, rõ ràng là bản thân niệm Phật thì có thể
khiến tâm lăng xăng vọng tưởng của ta được một đối tượng chuyên chú thanh tịnh,
thân tâm an ổn tốt đẹp, tự tại, cũng có thể khiến ta đã cảm được sự vui vẻ rồi.
đẹp rất nhiều, là quyết định ở nơi tâm tình và nổ lực niệm Phật của ta. Cũng
vậy, người niệm Phật, có chỗ khác nhau rất lớn giữa người có thể niệm và người
không thể niệm. Người có thể niệm, rất dễ dàng có thể niệm thoải mái trong
lòng; Còn người không thể niệm rất dễ dàng rơi vào sự gấp rút cầu lợi, khô
khan, lãnh vực cơ giới hóa, mà mất đi sự hứng thú của tín tâm. Nếu như hoàn
toàn tin vào kinh điển, hoàn toàn tin vào nguyện lực đại bi của Đức Phật A Di
Đà, nếu như lấy lòng cảm ơn cảm tạ để niệm Phật, cảm ơn có thể niệm Phật thì
sao là vận may! Cảm tạ mình có thân tâm niệm Phật, cảm tạ chư vị đại đức tổ sư
nhiều đời truyền nên huệ mạng Phật pháp… mà có thể niệm Phật, ắc cần người và
việc cảm ơn cảm tạ rất ư là nhiều rồi, ở trong lòng cảm ơn như thế nầy mà niệm
Phật, thì tâm tình rất là thoải mái; Nếu như lấy tâm tình vui vẻ để mà niệm
Phật, chẳng hiểu là anh được một việc vui vẻ hay không? Niệm Phật A Di Đà, đời
sau sanh về thế giới Cực Lạc, có thể chẳng vui sao? Tức khiến không muốn niệm
Phật có chỗ tốt đẹp nhiều thế nầy, rõ ràng là bản thân niệm Phật thì có thể
khiến tâm lăng xăng vọng tưởng của ta được một đối tượng chuyên chú thanh tịnh,
thân tâm an ổn tốt đẹp, tự tại, cũng có thể khiến ta đã cảm được sự vui vẻ rồi.
Chẳng nên đem tâm tình gấp rút cầu lợi,
buồn khổ, cầu tha thứ để mà niệm Phật, chẳng nên đem Đức Phật A Di Đà xem như
là Thần để cầu tài, cầu bình an, cầu tha thứ… mà niệm Phật. Niệm như thế nầy,
sẽ khiến cho niệm Phật là việc thưởng thức nơi tâm và vui nơi mắt mà thôi!
buồn khổ, cầu tha thứ để mà niệm Phật, chẳng nên đem Đức Phật A Di Đà xem như
là Thần để cầu tài, cầu bình an, cầu tha thứ… mà niệm Phật. Niệm như thế nầy,
sẽ khiến cho niệm Phật là việc thưởng thức nơi tâm và vui nơi mắt mà thôi!
Đã trải qua bao nhiêu thời gian… mà
ta không có một chút gì cảm ứng? Cũng giống như đi lên gò núi nhỏ, gian nan
niệm Phật đã lâu, phát hiện ra không được một cái gì, ở đó gấp rút đi trở lại,
quay về điểm khởi đầu. Trải qua sự nổ lực niệm Phật một thời gian, kết quả là
bỏ cuộc giữa đường, bây giờ hồi tưởng lại, cũng rất là gấp gáp cầu lợi, thế là
rách việc rồi!
ta không có một chút gì cảm ứng? Cũng giống như đi lên gò núi nhỏ, gian nan
niệm Phật đã lâu, phát hiện ra không được một cái gì, ở đó gấp rút đi trở lại,
quay về điểm khởi đầu. Trải qua sự nổ lực niệm Phật một thời gian, kết quả là
bỏ cuộc giữa đường, bây giờ hồi tưởng lại, cũng rất là gấp gáp cầu lợi, thế là
rách việc rồi!
Nếu ta không gấp gáp cầu lợi, chỉ là
giống như nước chảy về phía trước một cách vô tâm, nước chảy cuối cùng có lúc
tập trung về nơi biển lớn; Tâm linh tịnh hóa không hay không biết đó tóm lại
cũng có một ngày sẽ xuất hiện trình độ tiến bộ rõ ràng, có một ngày ta sẽ phát
hiện ra chỗ tốt đẹp to lớn đến từ sự niệm Phật, quyết định tâm tình niệm Phật đối
với ta.
giống như nước chảy về phía trước một cách vô tâm, nước chảy cuối cùng có lúc
tập trung về nơi biển lớn; Tâm linh tịnh hóa không hay không biết đó tóm lại
cũng có một ngày sẽ xuất hiện trình độ tiến bộ rõ ràng, có một ngày ta sẽ phát
hiện ra chỗ tốt đẹp to lớn đến từ sự niệm Phật, quyết định tâm tình niệm Phật đối
với ta.
Nếu như ta giống với cái ta quá khứ,
cũng gấp gáp cầu lợi, đem trạng thái tâm ấy mà niệm Phật, cũng có thể sẽ giống
như ở trước là bỏ cuộc giữa đường, rõ ràng đã lãng phí đi một pháp môn tiềm
năng thâm hậu.
cũng gấp gáp cầu lợi, đem trạng thái tâm ấy mà niệm Phật, cũng có thể sẽ giống
như ở trước là bỏ cuộc giữa đường, rõ ràng đã lãng phí đi một pháp môn tiềm
năng thâm hậu.
Nếu như ta đem sự tin tưởng hoàn toàn vào
kinh điển mà nói, hoàn toàn tin vào sự tốt đẹp vi diệu của thế giới Cực Lạc,
hoàn toàn tin vào nguyện lực Từ bi của Đức Phật A Di Đà, ngay lúc ta dùng tâm
tình nầy để niệm Phật, nghiệp chướng nhiều đời khởi lên mạnh mẽ, cũng ngăn cản
không được sự tiến đến giác ngộ dũng mãnh của ta.
kinh điển mà nói, hoàn toàn tin vào sự tốt đẹp vi diệu của thế giới Cực Lạc,
hoàn toàn tin vào nguyện lực Từ bi của Đức Phật A Di Đà, ngay lúc ta dùng tâm
tình nầy để niệm Phật, nghiệp chướng nhiều đời khởi lên mạnh mẽ, cũng ngăn cản
không được sự tiến đến giác ngộ dũng mãnh của ta.
Nếu như Đức Phật A Di Đà trong tâm
trong mắt ta không chỉ là một tượng Phật được tôn trí trên khám Phật cúng
dường, mà là pháp thân biến khắp hư không, mười phương thế giới chúng sinh
chung một thể tánh; Ngay khi ta đem tâm tình thế giới nầy để niệm Phật, tức
khiến cho nghiệp tội sâu nặng đều giống như cục băng bộc lộ sự tiêu tan mau
chóng dưới mặt trời.
trong mắt ta không chỉ là một tượng Phật được tôn trí trên khám Phật cúng
dường, mà là pháp thân biến khắp hư không, mười phương thế giới chúng sinh
chung một thể tánh; Ngay khi ta đem tâm tình thế giới nầy để niệm Phật, tức
khiến cho nghiệp tội sâu nặng đều giống như cục băng bộc lộ sự tiêu tan mau
chóng dưới mặt trời.
Trước lúc chưa được nhất tâm, nhất
thiết là không được nôn nóng trước vọng cầu cảm ứng; Vì sau khi nhất tâm thì
đương nhiên có sự cảm ứng. Tâm chưa nhất, mà cầu cảm ứng, tức tâm cầu cảm ứng
nầy sẽ là một chướng ngại lớn cho sự tu hành.
thiết là không được nôn nóng trước vọng cầu cảm ứng; Vì sau khi nhất tâm thì
đương nhiên có sự cảm ứng. Tâm chưa nhất, mà cầu cảm ứng, tức tâm cầu cảm ứng
nầy sẽ là một chướng ngại lớn cho sự tu hành.
CUỘC SỐNG QUA ĐI THÌ TỐT
Người đời vì lập nghiệp, thành gia,
sinh con, mua xe, mua nhà v.v… muôn điều bận rộn! Tu hành học Phật không vì
những việc thế tục nầy mà bận rộn! Cuộc sống qua đi thì tốt, nếu có ít tiền gởi
ở ngân hàng để sinh lợi tức, cũng có thể để sinh sống, sự nghiệp không có thì
ngại gì? Cần nên hướng đến việc niệm Phật vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
sinh con, mua xe, mua nhà v.v… muôn điều bận rộn! Tu hành học Phật không vì
những việc thế tục nầy mà bận rộn! Cuộc sống qua đi thì tốt, nếu có ít tiền gởi
ở ngân hàng để sinh lợi tức, cũng có thể để sinh sống, sự nghiệp không có thì
ngại gì? Cần nên hướng đến việc niệm Phật vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Tiền bạc chẳng phải là vạn năng; Chẳng
nên cho tiền bạc là vạn năng, có được tiền là mua được quỉ đuổi được ma.
nên cho tiền bạc là vạn năng, có được tiền là mua được quỉ đuổi được ma.
Tiền bạc nhiều thì lo rầu nhiều; Đã có
tiền bạc nhiều thì luôn ở trong sự lo âu và sợ sệt.
tiền bạc nhiều thì luôn ở trong sự lo âu và sợ sệt.
Tiền bạc cố nhiên là cần, thật ra chẳng
có thể đầy đủ toàn bộ nhu cầu cho tánh tham con người. Ví như sự: khẩn trương,
lo rầu, sợ sệt, phiền muộn, rỗng tuếch; Hay là: thoải mái, vui vẻ, tự tại, phấn
chấn cũng chẳng thể dùng tiền bạc để đổi lấy được.
có thể đầy đủ toàn bộ nhu cầu cho tánh tham con người. Ví như sự: khẩn trương,
lo rầu, sợ sệt, phiền muộn, rỗng tuếch; Hay là: thoải mái, vui vẻ, tự tại, phấn
chấn cũng chẳng thể dùng tiền bạc để đổi lấy được.
Xác nhận tiền bạc ở trong cuộc sống
ngày thường là “vật phải cần”, ăn uống, mặc, giao thông, vui vẻ… đều cần đến
nó, cuộc sống của mỗi người cùng với tiền bạc rất gần gũi tương quan, nhưng có
một ngày lúc tiền sụt giá hay không có tiền, thế thì không thể vui vẻ được.
ngày thường là “vật phải cần”, ăn uống, mặc, giao thông, vui vẻ… đều cần đến
nó, cuộc sống của mỗi người cùng với tiền bạc rất gần gũi tương quan, nhưng có
một ngày lúc tiền sụt giá hay không có tiền, thế thì không thể vui vẻ được.
Cơm hẩm áo thô, vui thú rõ ràng như cũ;
Nếu lo lắng lăng xăng không dừng, buồn lo họa hoạn trói thân, thì dẫu mặc gấm
ăn sang, cũng chỉ cảm thấy muôn điều sầu khổ.
Nếu lo lắng lăng xăng không dừng, buồn lo họa hoạn trói thân, thì dẫu mặc gấm
ăn sang, cũng chỉ cảm thấy muôn điều sầu khổ.
Chờ khi tư tưởng thông rồi, thấy rõ
ràng rồi, thì ta nhiều tiền như thế, cũng chỉ là cái rương! Sau khi tiền nhiều
dư dũ, ngược lại bị gặp khổ não và rầu lo rất là nhiều, cho nên đừng vì tiền
nhiều mà bận rộn lăng xăng!
ràng rồi, thì ta nhiều tiền như thế, cũng chỉ là cái rương! Sau khi tiền nhiều
dư dũ, ngược lại bị gặp khổ não và rầu lo rất là nhiều, cho nên đừng vì tiền
nhiều mà bận rộn lăng xăng!
Áo mặc, cơm ăn, đến đi, qua lại…
những việc người đời đã tốt lại càng muốn tốt, đã nhiều lại càng muốn nhiều,
thậm chí dùng sinh mạng để đổi lấy. Nhưng thực tại có thể hưởng dùng thì có
hạn, ăn nhiều một chút thì đau căng bao tử, mặc nhiều một chút thì nóng đổ mồ
hôi, một thân chẳng thể ngủ hai giường. Vật ngoài thân thì muốn càng nhiều càng
tốt, thật ra có thể hưởng dùng được bao nhiêu? Lúc chết đi mang theo được cái
gì? Song thì con người rốt cuộc vẫn là con người, cầu lấy trên cơ bản vật chất
đầy đủ, mà đừng nên làm dày thêm việc sai quấy; Nhưng nếu đảo lộn gốc ngọn, một
khi mê muội tìm cầu cho đầy đủ trên vật chất, rồi thì cho rằng tiền bạc là mục
đích của đời người, rồi tự cho là lẽ phải, học Phật tu hành như đây, muốn vãng
sanh về thế giới Cực Lạc ngược lại thì trôi mãi trong luân hồi.
những việc người đời đã tốt lại càng muốn tốt, đã nhiều lại càng muốn nhiều,
thậm chí dùng sinh mạng để đổi lấy. Nhưng thực tại có thể hưởng dùng thì có
hạn, ăn nhiều một chút thì đau căng bao tử, mặc nhiều một chút thì nóng đổ mồ
hôi, một thân chẳng thể ngủ hai giường. Vật ngoài thân thì muốn càng nhiều càng
tốt, thật ra có thể hưởng dùng được bao nhiêu? Lúc chết đi mang theo được cái
gì? Song thì con người rốt cuộc vẫn là con người, cầu lấy trên cơ bản vật chất
đầy đủ, mà đừng nên làm dày thêm việc sai quấy; Nhưng nếu đảo lộn gốc ngọn, một
khi mê muội tìm cầu cho đầy đủ trên vật chất, rồi thì cho rằng tiền bạc là mục
đích của đời người, rồi tự cho là lẽ phải, học Phật tu hành như đây, muốn vãng
sanh về thế giới Cực Lạc ngược lại thì trôi mãi trong luân hồi.
Phấn chấn cầu tài, lục đục vì danh,
song, dẫu cho kiếm được tiền của rất nhiều, đối với việc vị lai vẫn không hiểu
được một chút nào, chẳng nắm chắc mảy may, rốt cuộc mới phát hiện giàu có thật
ra không phải mục tiêu của đời người, há chẳng phải là một cuộc bận rộn rỗng
không! Người xưa nói rằng: “Ruộng tốt vạn khoảnh, ngày ăn một thăng, nhà
rộng ngàn gian, tối lại cũng chỉ ngủ một giường”. Thân ta thật ra sự nhu
cầu chẳng nhiều, ngược lại sự xa xỉ ham muốn chính ta và ăn mòn riêng tư, cho
đến nỗi cả ngày chẳng thể nào vừa ý, thật thoải mái được. Tuy trên vật chất là
giàu có, song sinh mạng ngược lại thiếu vị khô cằn. Đứng về cuộc sống tinh thần
mà nói, thì nghèo thiếu không có gì cả.
song, dẫu cho kiếm được tiền của rất nhiều, đối với việc vị lai vẫn không hiểu
được một chút nào, chẳng nắm chắc mảy may, rốt cuộc mới phát hiện giàu có thật
ra không phải mục tiêu của đời người, há chẳng phải là một cuộc bận rộn rỗng
không! Người xưa nói rằng: “Ruộng tốt vạn khoảnh, ngày ăn một thăng, nhà
rộng ngàn gian, tối lại cũng chỉ ngủ một giường”. Thân ta thật ra sự nhu
cầu chẳng nhiều, ngược lại sự xa xỉ ham muốn chính ta và ăn mòn riêng tư, cho
đến nỗi cả ngày chẳng thể nào vừa ý, thật thoải mái được. Tuy trên vật chất là
giàu có, song sinh mạng ngược lại thiếu vị khô cằn. Đứng về cuộc sống tinh thần
mà nói, thì nghèo thiếu không có gì cả.
Thảng hoặc chỉ vì bận rộn, tranh danh
đoạt lợi, vơ vét giàu có, thê thiếp đầy nhà, nghiên cứu ăn ngon mặt đẹp, tâm
say nơi tiếng tăm sắc dục, cuộc sống vật chất mong cho cao cấp mới có sỉ diện,
mới có phong độ, mới có hiển hách… bề bộn bận rộn cả ngày vì danh vì lợi,
chứa nhóm ý niệm nầy, tâm thần vì đó mà tiều tụy, không có phút giây yên ổn, lo
rầu nghĩ nhớ lớp lớp, mây sầu giăng thảm, khổ não không thể tự tiêu cho đến
chết, buồn nầy lúc nào mới tránh khỏi!
đoạt lợi, vơ vét giàu có, thê thiếp đầy nhà, nghiên cứu ăn ngon mặt đẹp, tâm
say nơi tiếng tăm sắc dục, cuộc sống vật chất mong cho cao cấp mới có sỉ diện,
mới có phong độ, mới có hiển hách… bề bộn bận rộn cả ngày vì danh vì lợi,
chứa nhóm ý niệm nầy, tâm thần vì đó mà tiều tụy, không có phút giây yên ổn, lo
rầu nghĩ nhớ lớp lớp, mây sầu giăng thảm, khổ não không thể tự tiêu cho đến
chết, buồn nầy lúc nào mới tránh khỏi!
Người đời lục đục, hấp tấp bôn chôn,
rộn ràng, nhộn nhịp, việc để tìm cầu không ra khỏi hai chữ “danh – lợi”; Sự
thật, sau khi thành danh được lợi, ngược lại thì đời người ấy cái khoảng cách
với hạnh phúc và khoái lạc rất xa; Bỡi vì danh lợi trọn không có chỗ dùng, mà
vả lại được thì khó, mất thì dễ; Chẳng những là cần giữ lấy cái lợi ích ấy mà
đã phải phơi lòng treo mật để có được, còn đem sinh mạng để tìm cầu cho cao hơn
một bực, do đó lại có chủ định khổ nhọc trọn đời, không được yên ổn.
rộn ràng, nhộn nhịp, việc để tìm cầu không ra khỏi hai chữ “danh – lợi”; Sự
thật, sau khi thành danh được lợi, ngược lại thì đời người ấy cái khoảng cách
với hạnh phúc và khoái lạc rất xa; Bỡi vì danh lợi trọn không có chỗ dùng, mà
vả lại được thì khó, mất thì dễ; Chẳng những là cần giữ lấy cái lợi ích ấy mà
đã phải phơi lòng treo mật để có được, còn đem sinh mạng để tìm cầu cho cao hơn
một bực, do đó lại có chủ định khổ nhọc trọn đời, không được yên ổn.
Làm quan to hay có tiền nhiều mới có sỉ
diện, làm công việc nặng nhọc thô kệch, ăn đạm bạc đậu rau thì không có sỉ
diện, bị người coi thường; Đây tức là không thấy rõ, tự chuốt khổ não. Kỳ thật,
có sỉ diện, là tâm hư vinh làm điều quái gở, cuộc sống đời người mãi mãi trôi
chuyển trong sáu đường, tức là tham ái dính mắc vấn đề “có sỉ diện” nầy.
diện, làm công việc nặng nhọc thô kệch, ăn đạm bạc đậu rau thì không có sỉ
diện, bị người coi thường; Đây tức là không thấy rõ, tự chuốt khổ não. Kỳ thật,
có sỉ diện, là tâm hư vinh làm điều quái gở, cuộc sống đời người mãi mãi trôi
chuyển trong sáu đường, tức là tham ái dính mắc vấn đề “có sỉ diện” nầy.
Tiền bạc không phải là ở nơi có nhiều,
dùng hàng ngày đủ là được; Làm quan chẳng là phải lớn, mà làm tốt trách nhiệm
là được; Mạng sống chẳng phải ở chỗ dài lâu, mà phải khỏe mạnh thì vui. Không
tham bên ngoài thì thanh tịnh bên trong, vả lại được nhiều phước; Tâm không xấu
hổ thì khỏe mạnh và tuổi thọ nhiều. Có hai việc: Phước – Thọ nầy thì sẽ tốt hơn
nhiều so với: Tiền vàng nhiều, sự nghiệp nhiều, con cháu nhiều. Đã nhiều tiền
thì sẽ bị chi phối không tốt, là nguồn gốc của tội ác.
dùng hàng ngày đủ là được; Làm quan chẳng là phải lớn, mà làm tốt trách nhiệm
là được; Mạng sống chẳng phải ở chỗ dài lâu, mà phải khỏe mạnh thì vui. Không
tham bên ngoài thì thanh tịnh bên trong, vả lại được nhiều phước; Tâm không xấu
hổ thì khỏe mạnh và tuổi thọ nhiều. Có hai việc: Phước – Thọ nầy thì sẽ tốt hơn
nhiều so với: Tiền vàng nhiều, sự nghiệp nhiều, con cháu nhiều. Đã nhiều tiền
thì sẽ bị chi phối không tốt, là nguồn gốc của tội ác.
Tự ta say sưa, do đó cũng chính ta khen
thưởng cho ta, cũng tức là tự mình coi trọng mình. Không có sự tự ti mặc cảm là
không chú trọng sỉ diện, không coi trọng mình, cũng có thể thu được cảm nhận
đầy đủ và vui vẻ, thảnh thơi tự tại, thân tâm tự nhiên khỏe mạnh thoải mái; Đời
người có cảnh giới nầy, lại cầu gì để được người khen thưởng (có sỉ diện).
thưởng cho ta, cũng tức là tự mình coi trọng mình. Không có sự tự ti mặc cảm là
không chú trọng sỉ diện, không coi trọng mình, cũng có thể thu được cảm nhận
đầy đủ và vui vẻ, thảnh thơi tự tại, thân tâm tự nhiên khỏe mạnh thoải mái; Đời
người có cảnh giới nầy, lại cầu gì để được người khen thưởng (có sỉ diện).
Sự nghiệp đã lớn, sự tình đã nhiều,
công việc đã nặng, ranh giới quan hệ của người lại phải ứng phó cho tốt, việc
nhiều tâm phiền, cả ngày bận rộn, khổ nhọc quấy động trong tâm, làm cho thân
tâm cứ mãi khẩn trương. Đời người giàu có vốn có định số, chẳng nên giở thủ
đoạn trong ý mà cưỡng cầu, nếu được cũng chẳng thể hưởng lâu. Xem rõ những vấn
đề đó, coi thường những vấn đề đó, giàu có hay nghèo khó cũng nên để nó thuận
với tự nhiên, mà bình thường. Ông chủ nhỏ, người làm công, ngày làm tám tiếng
đồng hồ, chẳng làm thêm; Tự hưởng lấy đúng với công sức mình đổ ra, có gì là
chẳng tốt? Tiền ít một chút, có thể ước lượng sự thu vào để mà xuất ra, còn dư
tiền thì phải khéo giữ, lúc không có công việc thì có để mà ăn, không cầu người
khác, không có người tìm tới để đòi nợ, chẳng nóng nảy, chẳng lo nghĩ, một thân
nhẹ nhàng, cuộc sống được vui vẻ tự tại.
công việc đã nặng, ranh giới quan hệ của người lại phải ứng phó cho tốt, việc
nhiều tâm phiền, cả ngày bận rộn, khổ nhọc quấy động trong tâm, làm cho thân
tâm cứ mãi khẩn trương. Đời người giàu có vốn có định số, chẳng nên giở thủ
đoạn trong ý mà cưỡng cầu, nếu được cũng chẳng thể hưởng lâu. Xem rõ những vấn
đề đó, coi thường những vấn đề đó, giàu có hay nghèo khó cũng nên để nó thuận
với tự nhiên, mà bình thường. Ông chủ nhỏ, người làm công, ngày làm tám tiếng
đồng hồ, chẳng làm thêm; Tự hưởng lấy đúng với công sức mình đổ ra, có gì là
chẳng tốt? Tiền ít một chút, có thể ước lượng sự thu vào để mà xuất ra, còn dư
tiền thì phải khéo giữ, lúc không có công việc thì có để mà ăn, không cầu người
khác, không có người tìm tới để đòi nợ, chẳng nóng nảy, chẳng lo nghĩ, một thân
nhẹ nhàng, cuộc sống được vui vẻ tự tại.
Phật pháp yêu cầu người đời chẳng nên
chấp nơi hư danh, tài lợi, riêng tư trong lòng, ham muốn của người, vật chất…
Vì những vấn đề nầy đều là nhân tố chủ yếu của khổ đau đời người. Vì những vấn
đề nầy không những khiến cho con người sanh lòng xảo quyệt đoạt lấy, làm thương
hại đến đạo lý, mà rốt cuộc rồi còn phải chuốt lấy ngày lâm chung chẳng tốt đẹp
yên bình.
chấp nơi hư danh, tài lợi, riêng tư trong lòng, ham muốn của người, vật chất…
Vì những vấn đề nầy đều là nhân tố chủ yếu của khổ đau đời người. Vì những vấn
đề nầy không những khiến cho con người sanh lòng xảo quyệt đoạt lấy, làm thương
hại đến đạo lý, mà rốt cuộc rồi còn phải chuốt lấy ngày lâm chung chẳng tốt đẹp
yên bình.
Xem thấu suốt sự lý tình người, thì có
thể không còn lo nghĩ; Xem không thấu, nghĩ không rõ, thì sẽ tâm phiền toái suy
nghĩ loạn động. Phiền não nhiều do hai chữ DANH – LỢI mà ra; Lạc quan nhiều do
một niệm CHẲNG CẦU mà có. Không yêu cầu quá sức, thì không có sự thất vọng
ngoài ý muốn; Mà đã không có sự thất vọng ngài ý muốn thì không sinh ra sự oán
trách. Đem hai chữ “danh lợi” bỏ đi, tâm cảnh bèn sẽ linh thông sáng suốt; Trừ
sạch quan niệm “tham cầu”, phiền não tự nhiên trong suốt.
thể không còn lo nghĩ; Xem không thấu, nghĩ không rõ, thì sẽ tâm phiền toái suy
nghĩ loạn động. Phiền não nhiều do hai chữ DANH – LỢI mà ra; Lạc quan nhiều do
một niệm CHẲNG CẦU mà có. Không yêu cầu quá sức, thì không có sự thất vọng
ngoài ý muốn; Mà đã không có sự thất vọng ngài ý muốn thì không sinh ra sự oán
trách. Đem hai chữ “danh lợi” bỏ đi, tâm cảnh bèn sẽ linh thông sáng suốt; Trừ
sạch quan niệm “tham cầu”, phiền não tự nhiên trong suốt.
Xem và phá một cách triệt để năm dục –
danh lợi, chuyên tâm nhứt ý niệm Phật, không nhìn gió mây biến huyễn, trăng
khuyết trăng tròn, xem cái gì cũng đều không động ở bên trong, thế mới là chơn
tâm tu hành.
danh lợi, chuyên tâm nhứt ý niệm Phật, không nhìn gió mây biến huyễn, trăng
khuyết trăng tròn, xem cái gì cũng đều không động ở bên trong, thế mới là chơn
tâm tu hành.
Nuôi con ngừa lúc tuổi già, ngậm kẹo
đùa trẻ (niềm vui thú của người già), thời đại đó đã qua rồi. Thời đại biến
chuyển, trào lưu biến chuyển, hoàn cảnh cũng biến đổi; “Nuôi con” chỉ là một
vấn đề trách nhiệm, một loại nghĩa vụ. Niềm hy vọng thời đại con trẻ nuôi người
già đã qua rồi. Con cái trong thời hiện đại cần phấn đấu chính mình, độc lập
chính mình, là một gia đình nhỏ, đã không có thời gian và sức lực dư thừa để
chiếu cố người già. Nếu lại muốn nuôi con để ngừa lúc tuổi già, không nên ngóng
chờ lỗ mũi con cái mà thở, nên nhìn sắc mặt của con cái, thậm chí biến thành
vật thừa trong tâm trong mắt của con cái, thế thì thê thảm quá! Con cháu tự có
cái phước của nó, chẳng nên vì con cháu mà làm trâu làm ngựa; Con cái lúc còn
nhỏ thì nuôi dạy cho tốt, lớn lên thành người rồi thì hết chức phận, nên giữ ít
tiền, làm việc học Phật tu hành cho chính mình (Niệm Phật), nên tinh tấn để
vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
đùa trẻ (niềm vui thú của người già), thời đại đó đã qua rồi. Thời đại biến
chuyển, trào lưu biến chuyển, hoàn cảnh cũng biến đổi; “Nuôi con” chỉ là một
vấn đề trách nhiệm, một loại nghĩa vụ. Niềm hy vọng thời đại con trẻ nuôi người
già đã qua rồi. Con cái trong thời hiện đại cần phấn đấu chính mình, độc lập
chính mình, là một gia đình nhỏ, đã không có thời gian và sức lực dư thừa để
chiếu cố người già. Nếu lại muốn nuôi con để ngừa lúc tuổi già, không nên ngóng
chờ lỗ mũi con cái mà thở, nên nhìn sắc mặt của con cái, thậm chí biến thành
vật thừa trong tâm trong mắt của con cái, thế thì thê thảm quá! Con cháu tự có
cái phước của nó, chẳng nên vì con cháu mà làm trâu làm ngựa; Con cái lúc còn
nhỏ thì nuôi dạy cho tốt, lớn lên thành người rồi thì hết chức phận, nên giữ ít
tiền, làm việc học Phật tu hành cho chính mình (Niệm Phật), nên tinh tấn để
vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
TIÊU TRỪ NIỆM THAM
1 – Nhìn thấu suốt, phân tích rõ, hiểu
được cái gì là CHƠN THƯỜNG, cái gì là VÔ THƯỜNG, biết tất cả không khả năng giữ
mãi, có mãi, chấp mãi, cũng không cần lấy nhiều, chứa nhiều, quán chiếu thấy
năm uẩn là không, tự nhiên không có niệm tham.
được cái gì là CHƠN THƯỜNG, cái gì là VÔ THƯỜNG, biết tất cả không khả năng giữ
mãi, có mãi, chấp mãi, cũng không cần lấy nhiều, chứa nhiều, quán chiếu thấy
năm uẩn là không, tự nhiên không có niệm tham.
2 – Đời người giàu có vinh hoa, sinh
chẳng mang đến, chết cũng chẳng đem theo, được chẳng vui, mất chẳng buồn, tham
của người khác làm gì? Vả lại sau khi chết vãng sanh về thế giới Cực Lạc thì
vạn lần tốt đẹp đầy đủ.
chẳng mang đến, chết cũng chẳng đem theo, được chẳng vui, mất chẳng buồn, tham
của người khác làm gì? Vả lại sau khi chết vãng sanh về thế giới Cực Lạc thì
vạn lần tốt đẹp đầy đủ.
3 – Một việc ham muốn mong cầu (dục
vọng), ở nơi niệm trọn không chỗ dừng nghỉ, tuy là do tham mà được, cũng vĩnh
viễn khó mà đầy đủ; Ngược lại, vọng niệm thì điềm tĩnh chẳng cầu, tuy là ngay
nơi không có gì, mà rõ ràng tự được, không mảy may gì là chẳng vui.
vọng), ở nơi niệm trọn không chỗ dừng nghỉ, tuy là do tham mà được, cũng vĩnh
viễn khó mà đầy đủ; Ngược lại, vọng niệm thì điềm tĩnh chẳng cầu, tuy là ngay
nơi không có gì, mà rõ ràng tự được, không mảy may gì là chẳng vui.
4 – Người ta có thể tiêu trừ niệm tham,
thì sẽ ít chấp trước, ít tranh đoạt, ít đố kỵ, ít oán trách, khiến cho xã hội
có xu hướng hòa bình yên ổn.
thì sẽ ít chấp trước, ít tranh đoạt, ít đố kỵ, ít oán trách, khiến cho xã hội
có xu hướng hòa bình yên ổn.
TIÊU TRỪ NIỆM SÂN
1 – Niệm sân thường nhân nơi tâm giận
mà khởi, tâm giận thường vì sự riêng tư của bản ngã, sự sai lệch của bản ngã,
cân lường, so sánh, háo thắng, ỷ mạnh, ưa sỉ diện, ưa hư vinh mà khởi ra; Cho
nên gọi là sợ mình chẳng thành mà thành ra giận người. Cần biết rằng người phàm
việc phàm, mỗi cái đều có nhân duyên, mỗi cái tự phải nổ lực, mỗi cái đều có
phước báo, sao không biết tự trồng ở nơi ruộng phước, mà lại chuyên đi làm cái
việc ức chế phá hoại người khác, dẫu tổn hại người mà chẳng ích lợi gì mình!
mà khởi, tâm giận thường vì sự riêng tư của bản ngã, sự sai lệch của bản ngã,
cân lường, so sánh, háo thắng, ỷ mạnh, ưa sỉ diện, ưa hư vinh mà khởi ra; Cho
nên gọi là sợ mình chẳng thành mà thành ra giận người. Cần biết rằng người phàm
việc phàm, mỗi cái đều có nhân duyên, mỗi cái tự phải nổ lực, mỗi cái đều có
phước báo, sao không biết tự trồng ở nơi ruộng phước, mà lại chuyên đi làm cái
việc ức chế phá hoại người khác, dẫu tổn hại người mà chẳng ích lợi gì mình!
2 – Niệm sân lại thường còn do nơi tâm
oán hận mà khởi, oán hận lại thường nhân nơi hiểu lầm, biết sai, bị xúi dục, bị
ly gián, sinh tranh chấp, ôm lòng hiềm khích, nhớ lấy cừu hận, nghĩ sự phục thù
v.v… mà khởi ra. Cần nên biết rằng con người đối xử với nhau, phải có đức bao
dung cho lớn, có thể nhẫn việc để mà giúp đỡ, nếu còn oán sân với nhau thì kiếp
nạn cứ xoay vần, họa báo không dứt được. Huống nữa oán sân với người thì kết
lấy duyên ác, người ấy chưa chắc gì vì ta oán sân mà chuyển thành tốt; Ngược
lại lượng thứ cho người thì có thể kết duyên thiện, người đó có thể nhân vì ta
Từ bi mà được chuyển hóa, cảm hóa.
oán hận mà khởi, oán hận lại thường nhân nơi hiểu lầm, biết sai, bị xúi dục, bị
ly gián, sinh tranh chấp, ôm lòng hiềm khích, nhớ lấy cừu hận, nghĩ sự phục thù
v.v… mà khởi ra. Cần nên biết rằng con người đối xử với nhau, phải có đức bao
dung cho lớn, có thể nhẫn việc để mà giúp đỡ, nếu còn oán sân với nhau thì kiếp
nạn cứ xoay vần, họa báo không dứt được. Huống nữa oán sân với người thì kết
lấy duyên ác, người ấy chưa chắc gì vì ta oán sân mà chuyển thành tốt; Ngược
lại lượng thứ cho người thì có thể kết duyên thiện, người đó có thể nhân vì ta
Từ bi mà được chuyển hóa, cảm hóa.
3 – Ngay lúc niệm sân khởi, người niệm
Phật nên chọn ngay mà dùng tuệ giác chiếu để gấp rút chuyển pháp, và làm phép
quán “bình đẳng bất nhị”.
Phật nên chọn ngay mà dùng tuệ giác chiếu để gấp rút chuyển pháp, và làm phép
quán “bình đẳng bất nhị”.
TIÊU TRỪ NIỆM SI
1 – Thế gian vốn không có thị – phi,
được – mất, tất cả bỡi do tâm huyễn (không chơn) của con người tạo tác giả
định, chúng ta nên thận trọng rõ ràng chỗ tạo tác đóù là hợp lý hay không? Là
chính đáng hay không? Có ý nghĩa giá trị hay không? Nếu như không nhận rõ xanh,
hồng, đen, trắng thì mù mắt chạy theo, si mê vọng chấp, tự rơi vào cạm bẫy, cam
chịu sự trói buộc, bèn là việc cực đoan ngu tệ.
được – mất, tất cả bỡi do tâm huyễn (không chơn) của con người tạo tác giả
định, chúng ta nên thận trọng rõ ràng chỗ tạo tác đóù là hợp lý hay không? Là
chính đáng hay không? Có ý nghĩa giá trị hay không? Nếu như không nhận rõ xanh,
hồng, đen, trắng thì mù mắt chạy theo, si mê vọng chấp, tự rơi vào cạm bẫy, cam
chịu sự trói buộc, bèn là việc cực đoan ngu tệ.
2 – Phước báo đời người, mỗi người tự
có nhân duyên, tất cả nên tùy duyên, tùy hỉ mà lấy bỏ, chẳng nên mờ mắt mong
cầu, si mê trói chặt, cưỡng lấy xảo đoạt, mánh khóe khổ cầu, chỉ là tạo ra
những duyên nghiệt ngã, nhân quả trả báo nhau, để hại vô cùng.
có nhân duyên, tất cả nên tùy duyên, tùy hỉ mà lấy bỏ, chẳng nên mờ mắt mong
cầu, si mê trói chặt, cưỡng lấy xảo đoạt, mánh khóe khổ cầu, chỉ là tạo ra
những duyên nghiệt ngã, nhân quả trả báo nhau, để hại vô cùng.
3 – Tự đến khuyên người dừng sự tranh
cãi là nghĩa cử thiện, khích người đấu tranh với nhau là nghiệp ác. Hãy còn si
mê ở nơi tranh chấp tới cùng, đấu tranh ghê gớm, kết cừu báo oán, thì lâm vào
thế ngồi trên lưng cọp, tự chuốc phiền toái và não hại người khác, kia đây trái
chống, nhiễu nhương trọn đời. Vì việc gì đây? Chớ tạo sai quấy, người Thần đều
buồn.
cãi là nghĩa cử thiện, khích người đấu tranh với nhau là nghiệp ác. Hãy còn si
mê ở nơi tranh chấp tới cùng, đấu tranh ghê gớm, kết cừu báo oán, thì lâm vào
thế ngồi trên lưng cọp, tự chuốc phiền toái và não hại người khác, kia đây trái
chống, nhiễu nhương trọn đời. Vì việc gì đây? Chớ tạo sai quấy, người Thần đều
buồn.
4 – Người niệm Phật, nên hằng giờ phải
quán chiếu tự tánh, rõ ngộ bản thể thanh tịnh, phá trừ vô minh, tự nhiên xa rời
được si mê.
quán chiếu tự tánh, rõ ngộ bản thể thanh tịnh, phá trừ vô minh, tự nhiên xa rời
được si mê.
TIÊU TRỪ NGÃ KIẾN
1 – Sự nhu cầu một ngày của đời người,
trăm công việc muốn được chu toàn thì kia – đây phải nương nhau, hợp tác giúp
đỡ cho nhau, mới có thể cùng tồn tại cùng hưởng lấy. Nếu miễn cưỡng chia ra:
kia – đây, cùng nhau đấu tranh chê bai nhau, thì rõ ràng tàn hại cùng nhau.
trăm công việc muốn được chu toàn thì kia – đây phải nương nhau, hợp tác giúp
đỡ cho nhau, mới có thể cùng tồn tại cùng hưởng lấy. Nếu miễn cưỡng chia ra:
kia – đây, cùng nhau đấu tranh chê bai nhau, thì rõ ràng tàn hại cùng nhau.
2 – Con người quí ở chỗ là khoang dung
thông cảm với nhau, vui hòa chung ở, hóa giải oán cừu, vun bồi việc tốt đẹp, mà
tránh khỏi sự phát sinh tranh chấp, tạo nên khẩn trương.
thông cảm với nhau, vui hòa chung ở, hóa giải oán cừu, vun bồi việc tốt đẹp, mà
tránh khỏi sự phát sinh tranh chấp, tạo nên khẩn trương.
3 – Con người mà khi đã muốn làm việt
thiện, lợi ích chúng sanh, làm việc phục vụ, rộng lòng bố thí, thì còn e ngại
gì nữa vấn đề tiện nghi bị người chiếm đoạt, chỗ ở tốt bị người chiếm lấy? Lại
còn sợ gì nữa khi người khác hơn mình.
thiện, lợi ích chúng sanh, làm việc phục vụ, rộng lòng bố thí, thì còn e ngại
gì nữa vấn đề tiện nghi bị người chiếm đoạt, chỗ ở tốt bị người chiếm lấy? Lại
còn sợ gì nữa khi người khác hơn mình.
4 – Cuộc sống nổi trôi như huyễn mộng,
chẳng qua đời ta như kẻ lữ hành lặng lội một đời người vài mươi mùa nóng lạnh
(năm) mà thôi! Cái ta có: nào chồng, nào vợ, rồi con cái, bạn bè xã hội, quốc
gia… thậm chí chỗ gọi là của ta, cũng tạm là nhân duyên giả hợp, duyên phần
có lúc hết, qua lại vô thường, chẳng phải chết rồi chấp cho vĩnh hằng, cũng
chẳng phải lấy ta làm trung tâm, mà sinh kiến chấp lệch lạc, tư riêng, yêu
thương và sân giận.
chẳng qua đời ta như kẻ lữ hành lặng lội một đời người vài mươi mùa nóng lạnh
(năm) mà thôi! Cái ta có: nào chồng, nào vợ, rồi con cái, bạn bè xã hội, quốc
gia… thậm chí chỗ gọi là của ta, cũng tạm là nhân duyên giả hợp, duyên phần
có lúc hết, qua lại vô thường, chẳng phải chết rồi chấp cho vĩnh hằng, cũng
chẳng phải lấy ta làm trung tâm, mà sinh kiến chấp lệch lạc, tư riêng, yêu
thương và sân giận.
5 – TA_ ngày hôm qua, chẳng phải TA
ngày hôm nay, TA hôm nay chẳng phải TA ngày mai. TA bèn là ở sự biến hóa vô
thường tùy lúc, nên chẳng thể được. TA đã chẳng thể được, thì hà tất gì phải
tham chấp ở nơi cái TA nầy? Mà đi bài trừ bác bỏ cái chẳng là TA, công kích
những gì khác mình, tạo thành tranh chấp, đố kỵ, hờn giận oán cừu, đối địch đấu
tranh, tàn hại nhau v.v… biết bao điều đau khổ.
ngày hôm nay, TA hôm nay chẳng phải TA ngày mai. TA bèn là ở sự biến hóa vô
thường tùy lúc, nên chẳng thể được. TA đã chẳng thể được, thì hà tất gì phải
tham chấp ở nơi cái TA nầy? Mà đi bài trừ bác bỏ cái chẳng là TA, công kích
những gì khác mình, tạo thành tranh chấp, đố kỵ, hờn giận oán cừu, đối địch đấu
tranh, tàn hại nhau v.v… biết bao điều đau khổ.
6 – Người phải quay lại quán tự tánh là
bản tánh thanh tịnh, chẳng dính mắc, chẳng ô nhiễm, quán sát thế gian tất cả
đều “bình đẳng bất nhị”, không oán không thân, cũng không có kiến chấp tướng
người tướng ta, tình và pháp cả hai điều mất, người và ta điều không, rõ ràng
mà rộng lớn, sao lại có cái thấy (kiến chấp) riêng tư đối với ta?
bản tánh thanh tịnh, chẳng dính mắc, chẳng ô nhiễm, quán sát thế gian tất cả
đều “bình đẳng bất nhị”, không oán không thân, cũng không có kiến chấp tướng
người tướng ta, tình và pháp cả hai điều mất, người và ta điều không, rõ ràng
mà rộng lớn, sao lại có cái thấy (kiến chấp) riêng tư đối với ta?
TIÊU TRỪ CHẤP TRƯỚC
1 – Tâm người thường mỗi khi bị vô minh
che lấp, gặp việc chẳng kể là phải – quấy, thiện ác, chủ quan trước tiên,
thường ưa chấp lấy. Tâm như keo dính, gặp lợi là chấp lợi, gặp khổ chấp khổ,
gặp vui chấp vui (gặp ngã chấp ngã, gặp pháp chấp pháp, gặp thấy (kiến) chấp
thấy, càng chấp càng bền chắc, tâm bị chấp sai khiến nên rơi vào mê khổ).
che lấp, gặp việc chẳng kể là phải – quấy, thiện ác, chủ quan trước tiên,
thường ưa chấp lấy. Tâm như keo dính, gặp lợi là chấp lợi, gặp khổ chấp khổ,
gặp vui chấp vui (gặp ngã chấp ngã, gặp pháp chấp pháp, gặp thấy (kiến) chấp
thấy, càng chấp càng bền chắc, tâm bị chấp sai khiến nên rơi vào mê khổ).
2 – Chấp thì phát sinh cái lực ma sát
cản trở mà làm ngăn hại, chẳng chấp thì bốn phía đều không, tất cả sinh hoạt vô
ngại, mới dễ giải thoát.
cản trở mà làm ngăn hại, chẳng chấp thì bốn phía đều không, tất cả sinh hoạt vô
ngại, mới dễ giải thoát.
3 – Nhân quả cũng chẳng nên chấp trước,
có thể tùy duyên mà gạt bỏ hóa trừ. Nhân ác cố gắng chẳng nên dính mắc, nên cần
làm thiện để hóa giải, trọn có lúc được tiêu trừ. Nhân thiện cũng chẳng nên
dính mắc, vì bỡi dính mắc sẽ có tướng: Ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; mà chẳng
thể giải thoát.
có thể tùy duyên mà gạt bỏ hóa trừ. Nhân ác cố gắng chẳng nên dính mắc, nên cần
làm thiện để hóa giải, trọn có lúc được tiêu trừ. Nhân thiện cũng chẳng nên
dính mắc, vì bỡi dính mắc sẽ có tướng: Ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; mà chẳng
thể giải thoát.
4 – Đem pháp đời mà nói, ban đầu của
đời người, cội nguồn là một tấm trắng không, tất cả phong tục, tập quán, pháp
luật, chế độ, phải quấy, chia phân, sang hèn, được mất, cao thấp v.v… đều là
sự quan hệ do nơi tâm huyễn giả định bày ra, tạo tác mà lập nên. Nhưng tất cả
sự vật sau khi đã lập, thì có sự tương đối, do đó có lợi thì có tệ nạn, quan
tâm việc nầy thì mất việc kia, theo duyên chuyển hóa, sinh diệt vô thường, thật
sự không thành tâm ý và trạng thái bất biến, cũng không thành tiêu chuẩn và sự
cao cả của thói quen bất biến. Cho nên xử sự quí ở chỗ khách quan không câu
chấp, trọn không nên thành kiến, đối với tất cả các phép tắc chế độ, hành vi
cung cách, dùng đến thì làm, bỏ thì xả buông, mới có thể nhân nơi con người,
thời gian, công việc, nơi chốn mà điều chế thích nghi, làm – bỏ phải sáng suốt
thích nghi với nhân. Nếu còn chấp lệch lạc một chút trong đó mà nắm chắc chẳng
buông rời, ăn lâu chẳng tiêu hóa, mê muội biến thành đần độn, ngoan cố biến
thành bệnh tật, tự lụy tự khốn đốn, thì đi đến chỗ ngăn trở chướng ngại, không
thể ứng xử với đời được viên dung, vả lại ngu muội mê hoặc chính mình, một đời
bị sự sai bảo của kiến chấp và tình thức, bị khống chế và trói buộc, trần lao
không hết, phiền não không cùng. Nếu còn đối với những cảm xúc nầy tức từng mức
so tính ở nơi tâm, từng giờ chẳng quên ở nỗi nhớ, thì cái thần của tâm bị tước
đoạt, liên tục quên mất đường về, tâm chẳng tự chủ, sự não loạn làm sao dứt
được?
đời người, cội nguồn là một tấm trắng không, tất cả phong tục, tập quán, pháp
luật, chế độ, phải quấy, chia phân, sang hèn, được mất, cao thấp v.v… đều là
sự quan hệ do nơi tâm huyễn giả định bày ra, tạo tác mà lập nên. Nhưng tất cả
sự vật sau khi đã lập, thì có sự tương đối, do đó có lợi thì có tệ nạn, quan
tâm việc nầy thì mất việc kia, theo duyên chuyển hóa, sinh diệt vô thường, thật
sự không thành tâm ý và trạng thái bất biến, cũng không thành tiêu chuẩn và sự
cao cả của thói quen bất biến. Cho nên xử sự quí ở chỗ khách quan không câu
chấp, trọn không nên thành kiến, đối với tất cả các phép tắc chế độ, hành vi
cung cách, dùng đến thì làm, bỏ thì xả buông, mới có thể nhân nơi con người,
thời gian, công việc, nơi chốn mà điều chế thích nghi, làm – bỏ phải sáng suốt
thích nghi với nhân. Nếu còn chấp lệch lạc một chút trong đó mà nắm chắc chẳng
buông rời, ăn lâu chẳng tiêu hóa, mê muội biến thành đần độn, ngoan cố biến
thành bệnh tật, tự lụy tự khốn đốn, thì đi đến chỗ ngăn trở chướng ngại, không
thể ứng xử với đời được viên dung, vả lại ngu muội mê hoặc chính mình, một đời
bị sự sai bảo của kiến chấp và tình thức, bị khống chế và trói buộc, trần lao
không hết, phiền não không cùng. Nếu còn đối với những cảm xúc nầy tức từng mức
so tính ở nơi tâm, từng giờ chẳng quên ở nỗi nhớ, thì cái thần của tâm bị tước
đoạt, liên tục quên mất đường về, tâm chẳng tự chủ, sự não loạn làm sao dứt
được?
SỰ CHẾT TỐT ĐẸP
Con người – cầu cái gì? Cầu cuối
đời được an lành mà thôi, cuối cùng được tốt đẹp tức là “sự chết tốt đẹp” mà
mọi người nói đến. Cuối đời an lành là rất khó! Không thể dùng tiền bạc mà có
thể mua được, con người đại phú đại quí không nhất định là đến cuối đời được an
lành, người sống lâu trăm tuổi cũng không nhất định được cái chết tốt đẹp. Giả
dụ ta thường nhìn thấy người khác trước lúc lâm chung bệnh rất lâu, tình trạng
giãy giụa đau khổ như thế, cầu sống không được, cầu chết không xong, anh lúc đó
sẽ có thể nói lên lời cảm thán: “ta một đời không cầu gì khác, chỉ cầu mong
cuối đời được an lành thì tốt rồi!”.
đời được an lành mà thôi, cuối cùng được tốt đẹp tức là “sự chết tốt đẹp” mà
mọi người nói đến. Cuối đời an lành là rất khó! Không thể dùng tiền bạc mà có
thể mua được, con người đại phú đại quí không nhất định là đến cuối đời được an
lành, người sống lâu trăm tuổi cũng không nhất định được cái chết tốt đẹp. Giả
dụ ta thường nhìn thấy người khác trước lúc lâm chung bệnh rất lâu, tình trạng
giãy giụa đau khổ như thế, cầu sống không được, cầu chết không xong, anh lúc đó
sẽ có thể nói lên lời cảm thán: “ta một đời không cầu gì khác, chỉ cầu mong
cuối đời được an lành thì tốt rồi!”.
Người ta lúc lâm chung, đều sẽ khinh
hãi sợ sệt, sáu thần không chủ, tay quơ chân đạp, giống như con cua rơi trong
than lửa và con kiến rớt trong chảo nóng. Trên thân thể phát sinh sự co giật
mặt mày gân thịt, tròng con ngươi (mắt) nở to, thị giác chậm chạp si đần, hơi
thở hiện tượng gân rút. Chúng ta bình thường chỉ xem bất quá là cái dáng giãy
giụa bên ngoài, kỳ thật, nỗi bàng hoàng, đau khổ, sợ sệt không có sự trợ
giúp… ở trong tâm của họ, đó mới là vấn đề bút mực khó có thể hình dung!
hãi sợ sệt, sáu thần không chủ, tay quơ chân đạp, giống như con cua rơi trong
than lửa và con kiến rớt trong chảo nóng. Trên thân thể phát sinh sự co giật
mặt mày gân thịt, tròng con ngươi (mắt) nở to, thị giác chậm chạp si đần, hơi
thở hiện tượng gân rút. Chúng ta bình thường chỉ xem bất quá là cái dáng giãy
giụa bên ngoài, kỳ thật, nỗi bàng hoàng, đau khổ, sợ sệt không có sự trợ
giúp… ở trong tâm của họ, đó mới là vấn đề bút mực khó có thể hình dung!
Được cuối đời an lành chẳng phải dễ.
Cuối đời an lành, tuyệt không có thể nhờ vào sự man mắn, nhất định phải là do
“Thật đức” rộng tu Phước – Huệ mới có thể được. Cuối đời an lành có sự quan hệ
với thiện nghiệp trong quá khứ, nhưng chủ yếu nhất còn phải là do “đức tốt” đời
này của chúng ta và tâm linh an ổn yên tĩnh và hòa bình. Trừ phi chúng ta có
thể rộng tích chứa đức, dừng dứt vọng niệm, công phu gắng nhiều; không như thế
thì lúc lâm chung rất khó được tự tại.
Cuối đời an lành, tuyệt không có thể nhờ vào sự man mắn, nhất định phải là do
“Thật đức” rộng tu Phước – Huệ mới có thể được. Cuối đời an lành có sự quan hệ
với thiện nghiệp trong quá khứ, nhưng chủ yếu nhất còn phải là do “đức tốt” đời
này của chúng ta và tâm linh an ổn yên tĩnh và hòa bình. Trừ phi chúng ta có
thể rộng tích chứa đức, dừng dứt vọng niệm, công phu gắng nhiều; không như thế
thì lúc lâm chung rất khó được tự tại.
Cuối đời an lành là tâm không có ngăn
ngại, kết quả là sự dẫn dắt của sợ sệt thì cuối đời an lành chẳng dễ dàng! cũng
chẳng biết lúc lâm chung sẽ gặp phải chướng ngại gì. Vì sao cuối đời an lành là
rất quan trọng ư? bỡi vì giả như một người không phải chính xác là lúc thọ mạng
hết, mà là do bệnh nặng, chết treo, họa xe, lửa đốt, chìm nước, thế thì họ có
thể chứa hận trong lòng.
ngại, kết quả là sự dẫn dắt của sợ sệt thì cuối đời an lành chẳng dễ dàng! cũng
chẳng biết lúc lâm chung sẽ gặp phải chướng ngại gì. Vì sao cuối đời an lành là
rất quan trọng ư? bỡi vì giả như một người không phải chính xác là lúc thọ mạng
hết, mà là do bệnh nặng, chết treo, họa xe, lửa đốt, chìm nước, thế thì họ có
thể chứa hận trong lòng.
Lại nữa, lúc chết đột ngột (hoạnh tử),
thân thể chịu nỗi khổ sở rất lớn, trong tâm buồn oán xen nhau, mà còn uất hận
bất bình trong tâm.
thân thể chịu nỗi khổ sở rất lớn, trong tâm buồn oán xen nhau, mà còn uất hận
bất bình trong tâm.
Cuối đời an lành, có ba việc:
1 – An lành nhỏ: Không gặp hoàn cảnh
chết đột ngột ngoài ý, không bệnh mà chết.
chết đột ngột ngoài ý, không bệnh mà chết.
2 – An lành vừa: Cuối đời không những
không có bệnh khổ, mà trong tâm không có nỗi oán và bệnh bên trong, ngước lên
không thẹn với trời, cuối xuống không xấu hổ với đất, an lành vui vẻ mà qua
đời.
không có bệnh khổ, mà trong tâm không có nỗi oán và bệnh bên trong, ngước lên
không thẹn với trời, cuối xuống không xấu hổ với đất, an lành vui vẻ mà qua
đời.
3 – An lành lớn: Chính mình biết trước
giờ chết, mà thân tâm trọn không quái ngại, ra đi rất thoải mái, thậm chí còn
có Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn, sinh về cõi tịnh của Phật và Bồ tát, đây mới là
đời người thành công.
giờ chết, mà thân tâm trọn không quái ngại, ra đi rất thoải mái, thậm chí còn
có Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn, sinh về cõi tịnh của Phật và Bồ tát, đây mới là
đời người thành công.
Chúng ta muốn biết (đời nầy của mình có
thể có rốt cuộc an lành hay không?) có ngay trong việc làm cuộc mộng từ nơi lúc
bình thường của chúng ta, mộng loạn một khi thông suốt, đương nhiên là biễu thị
vọng niệm còn có thể được đều phục. Vọng niệm không điều phục, đương nhiên là
trượng trương cho việc tu dưỡng không đến nơi đến chốn. Tu dưỡng không tốt, làm
sao có thể nắm chắc được cuối đời an lành?
thể có rốt cuộc an lành hay không?) có ngay trong việc làm cuộc mộng từ nơi lúc
bình thường của chúng ta, mộng loạn một khi thông suốt, đương nhiên là biễu thị
vọng niệm còn có thể được đều phục. Vọng niệm không điều phục, đương nhiên là
trượng trương cho việc tu dưỡng không đến nơi đến chốn. Tu dưỡng không tốt, làm
sao có thể nắm chắc được cuối đời an lành?
Bỡi vì làm mộng và cuối đời an lành có
quan hệ mật thiết thế nầy, nên vị cao tăng đời nhà Minh là đại sư Tử Bá bảo
chúng ta rằng: “Nếu muốn thành tựu được mau, sớm có chỗ nắm chắc được cuối
đời an lành hoặc vãng sanh thế giới Cực Lạc, thì mỗi ngày sớm thức dậy, nên
phản tỉnh cảnh mộng đêm qua, giả sử trong đêm qua chúng ta dấy lên một ác mộng
lộn xộn lung tung, sáng nay nên thương tâm chảy nước mắt giống như mất cha mẹ,
thì sau đó phải tự quở trách chính mình, sám hối và phát nguyện khẩn thiết, lại
càng phải khẩn trương và nỗ lực dụng công. Mỗi ngày đều làm thế nầy, công phu
luyện tập tâm trí nhất định tiến bộ rất mau”. Vì để cho chư vị rõ hiểu thế
nào gọi là “mộng lộn xộn lung tung”? Ta cần phải trước tiên nói rõ một số chủng
loại của mộng. Căn cứ lời chép của “Luật Thiện Kiến”, mộng có bốn loại:
quan hệ mật thiết thế nầy, nên vị cao tăng đời nhà Minh là đại sư Tử Bá bảo
chúng ta rằng: “Nếu muốn thành tựu được mau, sớm có chỗ nắm chắc được cuối
đời an lành hoặc vãng sanh thế giới Cực Lạc, thì mỗi ngày sớm thức dậy, nên
phản tỉnh cảnh mộng đêm qua, giả sử trong đêm qua chúng ta dấy lên một ác mộng
lộn xộn lung tung, sáng nay nên thương tâm chảy nước mắt giống như mất cha mẹ,
thì sau đó phải tự quở trách chính mình, sám hối và phát nguyện khẩn thiết, lại
càng phải khẩn trương và nỗ lực dụng công. Mỗi ngày đều làm thế nầy, công phu
luyện tập tâm trí nhất định tiến bộ rất mau”. Vì để cho chư vị rõ hiểu thế
nào gọi là “mộng lộn xộn lung tung”? Ta cần phải trước tiên nói rõ một số chủng
loại của mộng. Căn cứ lời chép của “Luật Thiện Kiến”, mộng có bốn loại:
1 – Mộng do bốn đại không hòa; đây là
vì do các cơ của thân thể không được đều hòa thích ứng mà phát sinh ra. Ví như
lúc mới ngủ mộng thấy núi lở, hoặc bay nhảy trên hư không, hoặc thấy Cọp, chó
Sói, đến rượt đuổi v.v… chẳng phải một. Những việc nầy đều là hư giả mà chẳng
có thực tại.
vì do các cơ của thân thể không được đều hòa thích ứng mà phát sinh ra. Ví như
lúc mới ngủ mộng thấy núi lở, hoặc bay nhảy trên hư không, hoặc thấy Cọp, chó
Sói, đến rượt đuổi v.v… chẳng phải một. Những việc nầy đều là hư giả mà chẳng
có thực tại.
2 – Mộng thấy trước; “Ban ngày có suy
nghĩ, thì đêm đến có mộng” mà mọi người nói, tức là chỉ do loại mộng nầy, vì
trước đã xem thấy những sự việc hoặc hiện tượng nào đó không dứt được, mà sắp
đặt tổ hợp nội dung, được nổi bày lên ở trong cảnh mộng, đây cũng là mộng hư
giả mà không phải thật.
nghĩ, thì đêm đến có mộng” mà mọi người nói, tức là chỉ do loại mộng nầy, vì
trước đã xem thấy những sự việc hoặc hiện tượng nào đó không dứt được, mà sắp
đặt tổ hợp nội dung, được nổi bày lên ở trong cảnh mộng, đây cũng là mộng hư
giả mà không phải thật.
3 – Mộng trời người; trời thần vì người
làm thiện mà thị hiện cảnh mộng cát tường, khiến cho họ tiếp tục làm thiện. Vì
người tạo ác mà thị hiện cảnh mộng sợ sệt và không tốt đẹp, để khuyên và ngăn
trở họ chẳng nên làm ác nữa; đây là loại mộng chơn thật (có ứng nghiệm).
làm thiện mà thị hiện cảnh mộng cát tường, khiến cho họ tiếp tục làm thiện. Vì
người tạo ác mà thị hiện cảnh mộng sợ sệt và không tốt đẹp, để khuyên và ngăn
trở họ chẳng nên làm ác nữa; đây là loại mộng chơn thật (có ứng nghiệm).
4 – Mộng tưởng; mộng nầy là nhân vì
phuớc đức và tội chướng trong quá khứ của người ta cảm hiện ra. Ví như người có
phước đức trong mộng thường gặp sự tình cát tường và làm thiện. Người có tội
chướng, thường gặp sự tình sợ sệt và bất thiện. Mộng thấy chúng ta ở nơi việc
lễ Phật, tụng kinh, trì giới, bố thí, niệm Phật, cũng là thuộc mộng tưởng. Mộng
được sự tình cát tường và làm thiện là chỗ có ích cho việc tu dưỡng đạo đức đối
vớichúng ta.
phuớc đức và tội chướng trong quá khứ của người ta cảm hiện ra. Ví như người có
phước đức trong mộng thường gặp sự tình cát tường và làm thiện. Người có tội
chướng, thường gặp sự tình sợ sệt và bất thiện. Mộng thấy chúng ta ở nơi việc
lễ Phật, tụng kinh, trì giới, bố thí, niệm Phật, cũng là thuộc mộng tưởng. Mộng
được sự tình cát tường và làm thiện là chỗ có ích cho việc tu dưỡng đạo đức đối
vớichúng ta.
Chỗ gọi là “mộng lộn xộn lung tung”, là
chỉ những việc hư giả mà chẳng thật tại, vả lại đối với thềm bực cái ĐỨC của
chúng ta lại không phải là cái mộng có ích.
chỉ những việc hư giả mà chẳng thật tại, vả lại đối với thềm bực cái ĐỨC của
chúng ta lại không phải là cái mộng có ích.
Chư vị rất nên đặc biệt xem kỹ cảnh
mộng! Vì cảm thọ ở trong mộng rất là chơn thật, nó là chỉ tiêu tu dưỡng thềm
bực đạo đức của chúng ta. Đồng thời dấy lên mộng cũng có ba việc: Thiện, ác và
không thiện ác. Mộng được lạy Phật, lễ Phật, niệm Phật, tụng kinh, nghe kinh,
nói pháp, làm việc thiện, cứu người… là thuộc thiện và công đức. Mộng thấy
mình đi làm việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói vọng v.v… những sự tình đó
thuộc ác mộng. Mộng thấy củi, gạo, dầu, muối, dạo chơi công ty bách hóa, đi
chơi công viên v.v… là thuộc loại mộng không thiện ác. Mộng được làm thiện là
có sự trợ giúp cho thềm mức đức hạnh đối với chúng ta, mộng làm ác và việc thế
tục lung tung là biểu thị bất lực trong tu hành của chúng ta, nên cần phải sám
hối và nỗ lực dụng công mới được.
mộng! Vì cảm thọ ở trong mộng rất là chơn thật, nó là chỉ tiêu tu dưỡng thềm
bực đạo đức của chúng ta. Đồng thời dấy lên mộng cũng có ba việc: Thiện, ác và
không thiện ác. Mộng được lạy Phật, lễ Phật, niệm Phật, tụng kinh, nghe kinh,
nói pháp, làm việc thiện, cứu người… là thuộc thiện và công đức. Mộng thấy
mình đi làm việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói vọng v.v… những sự tình đó
thuộc ác mộng. Mộng thấy củi, gạo, dầu, muối, dạo chơi công ty bách hóa, đi
chơi công viên v.v… là thuộc loại mộng không thiện ác. Mộng được làm thiện là
có sự trợ giúp cho thềm mức đức hạnh đối với chúng ta, mộng làm ác và việc thế
tục lung tung là biểu thị bất lực trong tu hành của chúng ta, nên cần phải sám
hối và nỗ lực dụng công mới được.
Trong đây nhân tiện nói rõ thêm một
điểm tức là: Tạo ác nghiệp trong mộng, vì nghiệp tâm suy nhược, nên không thể
quả báo. Có liên quan ở trên sách giới luật cũng nói rằng: “mộng các ác hạnh
như: ăn cắp và tà dâm v.v… không kể là phạm giới”. Vì là hư mà không phải
thật, ở trong mộng mà chúng sanh bị ta xâm phạm thì không có sự tổn thất thực
chất. Huống nữa chúng ta chẳng có ý phạm giới tạo ác, mà là hạt giống và tập
khí trong mộng tâm của ý thức mạnh, nó khống chế chẳng dừng, cho nên mới có thể
làm ra mộng. Gọi là “mộng lộn xộn lung tung” ở trong đó nói đến, tức là có mộng
có liên quan đến sự tạo tác và việc tạp thế tục.
điểm tức là: Tạo ác nghiệp trong mộng, vì nghiệp tâm suy nhược, nên không thể
quả báo. Có liên quan ở trên sách giới luật cũng nói rằng: “mộng các ác hạnh
như: ăn cắp và tà dâm v.v… không kể là phạm giới”. Vì là hư mà không phải
thật, ở trong mộng mà chúng sanh bị ta xâm phạm thì không có sự tổn thất thực
chất. Huống nữa chúng ta chẳng có ý phạm giới tạo ác, mà là hạt giống và tập
khí trong mộng tâm của ý thức mạnh, nó khống chế chẳng dừng, cho nên mới có thể
làm ra mộng. Gọi là “mộng lộn xộn lung tung” ở trong đó nói đến, tức là có mộng
có liên quan đến sự tạo tác và việc tạp thế tục.
Chúng ta là người học Phật tu hành,
không những có thể cuối đời được an lành (vãng sanh thế giới cực lạc), mà có
thể đang ngồi hoặc đang đứng mà chết. Cần nên chí thành tinh tấn, thời gian đến
rồi tự hiểu rõ, nên sắp xếp tốt công việc của mình, chuẩn bị đến thế giới Cực
Lạc.
không những có thể cuối đời được an lành (vãng sanh thế giới cực lạc), mà có
thể đang ngồi hoặc đang đứng mà chết. Cần nên chí thành tinh tấn, thời gian đến
rồi tự hiểu rõ, nên sắp xếp tốt công việc của mình, chuẩn bị đến thế giới Cực
Lạc.
Năm tàn sắp hết, chẳng bao lâu là ngày
ba mươi tháng chạp, là sau cùng của một năm, nếu chưa chuẩn bị tiền bạc cho
thỏa đáng, thì chủ nợ kéo đến, làm sao ngăn chặn được? người ta lúc mạng chung
cũng là ngày ba mươi tháng chạp của một đời, là lúc sau nhất của đời người. Nếu
chưa đem được lương phạn vãng sanh chuẩn bị trước cho thỏa đáng, thì ắt tay
chân quơ cào, ác nghiệp nhiều đời đồng loạt hiện khởi trước mặt, làm sao dẹp
thoát? Lâm chung tuy nương sự niệm giúp của người khác, các việc đều như pháp,
cũng khó được cậy nhờ, ở chính mình cậy nhờ không được (vì lúc bình thường
chẳng niệm Phật, niệm Phật nhiều, trong tâm không có Phật), nhờ nương nhà người
ư? Làm sao có thể nương được, cho nên tự mình lúc bình thường tu hành, thì cần
thật sự niệm Phật chuyên cần, niệm Phật nhiều, trong tâm có Phật, nhất tâm bất
loạn, thì được lâm chung tự tại. Xin khuyên cùng chư vị nhân giả, tóm lại cần
chuẩn bị sớm mới tốt.
ba mươi tháng chạp, là sau cùng của một năm, nếu chưa chuẩn bị tiền bạc cho
thỏa đáng, thì chủ nợ kéo đến, làm sao ngăn chặn được? người ta lúc mạng chung
cũng là ngày ba mươi tháng chạp của một đời, là lúc sau nhất của đời người. Nếu
chưa đem được lương phạn vãng sanh chuẩn bị trước cho thỏa đáng, thì ắt tay
chân quơ cào, ác nghiệp nhiều đời đồng loạt hiện khởi trước mặt, làm sao dẹp
thoát? Lâm chung tuy nương sự niệm giúp của người khác, các việc đều như pháp,
cũng khó được cậy nhờ, ở chính mình cậy nhờ không được (vì lúc bình thường
chẳng niệm Phật, niệm Phật nhiều, trong tâm không có Phật), nhờ nương nhà người
ư? Làm sao có thể nương được, cho nên tự mình lúc bình thường tu hành, thì cần
thật sự niệm Phật chuyên cần, niệm Phật nhiều, trong tâm có Phật, nhất tâm bất
loạn, thì được lâm chung tự tại. Xin khuyên cùng chư vị nhân giả, tóm lại cần
chuẩn bị sớm mới tốt.
NGƯỜI NIỆM PHẬT TỐT NHẤT LÀ CHẲNG VỌNG
CẦU KHAI NGỘ
CẦU KHAI NGỘ
Khai ngộ – thật chẳng phải mỗi người tu
hành đều có thể thu hoạch được. Người niệm Phật không được vọng cầu khai ngộ mà
tăng nhiều thêm một việc ở nơi tâm đầu, thì tăng nhiều thêm một chướng ngại.
hành đều có thể thu hoạch được. Người niệm Phật không được vọng cầu khai ngộ mà
tăng nhiều thêm một việc ở nơi tâm đầu, thì tăng nhiều thêm một chướng ngại.
Khai ngộ chẳng phải là việc nói dễ dàng
như thế, nếu lời dễ dàng như thế thì hàng ngũ Tăng – Ni ở chùa đều đã khai ngộ
cả rồi.
như thế, nếu lời dễ dàng như thế thì hàng ngũ Tăng – Ni ở chùa đều đã khai ngộ
cả rồi.
Người niệm Phật tập thiền tĩnh tọa, thì
tĩnh tọa là “Niệm Phật”, chẳng phải là tham thiền, chỉ quán, cũng chẳng phải là
luyện khí. Người niệm Phật tĩnh tọa (ngồi yên tĩnh), là niệm Phật (mặc niệm),
niệm cho thuần thục danh hiệu Phật, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn thì
tốt, có thể được niệm Phật tam muội càng tốt. Chẳng nên đem vấn đề khai ngộ làm
mục tiêu, coi đó là tâm tình thu hoạch ngoài ý muốn mà tĩnh tọa, ngộ không khai
cũng chẳng thể thất vọng, nếu tâm tình và sự việc yên tĩnh mà còn mong cầu vấn
đề khai ngộ, ngộ khai không được, Phật niệm cũng không xong, đến lúc cả hai đều
rơi vào trống không!
tĩnh tọa là “Niệm Phật”, chẳng phải là tham thiền, chỉ quán, cũng chẳng phải là
luyện khí. Người niệm Phật tĩnh tọa (ngồi yên tĩnh), là niệm Phật (mặc niệm),
niệm cho thuần thục danh hiệu Phật, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn thì
tốt, có thể được niệm Phật tam muội càng tốt. Chẳng nên đem vấn đề khai ngộ làm
mục tiêu, coi đó là tâm tình thu hoạch ngoài ý muốn mà tĩnh tọa, ngộ không khai
cũng chẳng thể thất vọng, nếu tâm tình và sự việc yên tĩnh mà còn mong cầu vấn
đề khai ngộ, ngộ khai không được, Phật niệm cũng không xong, đến lúc cả hai đều
rơi vào trống không!
Muốn khai ngộ, cần phải tự lượng mình
là căn khí bực nào? Có thể khai ngộ hay không? nếu còn cái tâm muốn khai ngộ,
thì trong tâm niệm cũng không thanh tịnh rồi, ngộ làm sao có thể khai?
là căn khí bực nào? Có thể khai ngộ hay không? nếu còn cái tâm muốn khai ngộ,
thì trong tâm niệm cũng không thanh tịnh rồi, ngộ làm sao có thể khai?
Tưởng đến sự khai ngộ, thì khởi lên sắp
xếp một sự nhận thức rất là cơ bản ứng đối vấn đề khai ngộ, như: tĩnh tọa phải
ngồi làm sao? Quá trình điều thân, an tâm, khai ngộ cảnh giới như thế nào? v.v…
đều cần có nhận thức, mới có thể lúc ngồi không xảy ra lầm lạc, hoặc được chút
kiểu lạ hiển hiện, hoặc được chút huệ hiểu biết, linh cảm giống giống, hoặc như
huyễn vọng tưởng, hoặc thấy ánh sáng thấy hình ảnh, hoặc người nói lời ra tức
khắc ngộ được, hoặc bị ma dối gạt, lại gật gù đắc ý cho là ta đã khai ngộ rồi!
xếp một sự nhận thức rất là cơ bản ứng đối vấn đề khai ngộ, như: tĩnh tọa phải
ngồi làm sao? Quá trình điều thân, an tâm, khai ngộ cảnh giới như thế nào? v.v…
đều cần có nhận thức, mới có thể lúc ngồi không xảy ra lầm lạc, hoặc được chút
kiểu lạ hiển hiện, hoặc được chút huệ hiểu biết, linh cảm giống giống, hoặc như
huyễn vọng tưởng, hoặc thấy ánh sáng thấy hình ảnh, hoặc người nói lời ra tức
khắc ngộ được, hoặc bị ma dối gạt, lại gật gù đắc ý cho là ta đã khai ngộ rồi!
Khai ngộ chữ “ngộ” nầy là chỉ cho rất
nhiều người muốn khai ngộ, cho là ngộ, căn bản không có NGỘ! ngay cả bên kia
bức tường cũng nhìn chẳng thấy, khai làm sao ngộ!
nhiều người muốn khai ngộ, cho là ngộ, căn bản không có NGỘ! ngay cả bên kia
bức tường cũng nhìn chẳng thấy, khai làm sao ngộ!
Ta chẳng phải là người đã trải qua khai
được ngộ, căn bản không có tư cách để làm việc “khai ngộ”, chỉ đem chỗ biết sơ
sài nói ra một chút ít mà thôi.
được ngộ, căn bản không có tư cách để làm việc “khai ngộ”, chỉ đem chỗ biết sơ
sài nói ra một chút ít mà thôi.
“Khai ngộ” thật chẳng phải là ngồi miết
mới có thể khai ngộ, đi đứng cũng có thể khai ngộ, nghiên cứu kinh điển hoặc
nghe một câu nói, xem một động tác cũng có thể khai ngộ được, anh là người
thượng thượng căn khí mới có khả năng, cũng chẳng phải mỗi lần ngồi hai ba
tiếng đồng hồ như thế được khai ngộ, đơn giản dễ dàng như thế sao?
mới có thể khai ngộ, đi đứng cũng có thể khai ngộ, nghiên cứu kinh điển hoặc
nghe một câu nói, xem một động tác cũng có thể khai ngộ được, anh là người
thượng thượng căn khí mới có khả năng, cũng chẳng phải mỗi lần ngồi hai ba
tiếng đồng hồ như thế được khai ngộ, đơn giản dễ dàng như thế sao?
Khai ngộ chữ “Ngộ” nầy, dùng miệng để
giảng, dùng văn tự viết đều rất khó mà biểu đạt rõ ràng, nay dùng chữ “mê” để
nói ngược lại mà có thể khá hơn một chút; ví dụ như đối với một sự việc, một
câu nói, hoặc xem hoặc tưởng, xem hoặc tưởng ở trong đó, đi cũng tưởng, đứng
cũng tưởng, ngồi cũng tưởng, tưởng một cách chuyên tâm nhất ý, tưởng…
tưởng… tưởng…, tưởng đến nỗi có người khác đến ở trước mặt cũng chẳng hay
biết, đây gọi là MÊ, người đời gọi là “sinh si đần”, thậm chí người khác kêu
réo anh, anh cũng không hay biết, đây gọi là TRƯỚC MÊ (mắc dính mê), người đời
gọi là “thất thần”, mê đến cực điểm (nhập định), mười ngày hai mươi ngày, bèn
tỉnh lại (xuất định), muôn cảnh tượng vũ trụ nhìn thấy hết, cũng biết cả, nhìn
càng xa, biết càng nhiều, quả vị thì càng cao.
giảng, dùng văn tự viết đều rất khó mà biểu đạt rõ ràng, nay dùng chữ “mê” để
nói ngược lại mà có thể khá hơn một chút; ví dụ như đối với một sự việc, một
câu nói, hoặc xem hoặc tưởng, xem hoặc tưởng ở trong đó, đi cũng tưởng, đứng
cũng tưởng, ngồi cũng tưởng, tưởng một cách chuyên tâm nhất ý, tưởng…
tưởng… tưởng…, tưởng đến nỗi có người khác đến ở trước mặt cũng chẳng hay
biết, đây gọi là MÊ, người đời gọi là “sinh si đần”, thậm chí người khác kêu
réo anh, anh cũng không hay biết, đây gọi là TRƯỚC MÊ (mắc dính mê), người đời
gọi là “thất thần”, mê đến cực điểm (nhập định), mười ngày hai mươi ngày, bèn
tỉnh lại (xuất định), muôn cảnh tượng vũ trụ nhìn thấy hết, cũng biết cả, nhìn
càng xa, biết càng nhiều, quả vị thì càng cao.
NGỘ, có đại – tiểu ngộ. Tiểu ngộ là ra
không khỏi ba cõi, vì sao? Vì ngoài ba cõi nhìn không thấy, cũng không biết! Ví
như muốn đi nước khác, mà ngay cả việc mua vé máy bay cũng không biết, thì làm
cách nào để đi?
không khỏi ba cõi, vì sao? Vì ngoài ba cõi nhìn không thấy, cũng không biết! Ví
như muốn đi nước khác, mà ngay cả việc mua vé máy bay cũng không biết, thì làm
cách nào để đi?
Tĩnh tọa, đầu tiên cần phải điều hòa
thích nghi qua lại, khí mới thuận nhẹ nhàng, không biết có sự hít thở, ăn ít
cũng không đói (một ngày một bữa, hai ngày một bữa), ngủ ít cũng chẳng mỏi mệt,
mới có thể ngồi được lâu (ngồi một hai ngày không đứng dậy). Thân người có ba
cái quí: Tinh – Khí – Thần. Tinh đầy thì khí đủ, khí đủ thì thần thoải mái,
thần thoải mái thì thân tâm nhẹ nhàng, thân tâm nhẹ nhàng thì khí mới thuận,
mới tế nhiệm (tinh tế), mới có thể ngồi được lâu, mới có thể “nhập định”, sau
nhập định giống người chết, như đất, còn có thể sống được trở lại (xuất định),
ngộ được khai rồi, thật là chẳng thể nghĩ bàn.
thích nghi qua lại, khí mới thuận nhẹ nhàng, không biết có sự hít thở, ăn ít
cũng không đói (một ngày một bữa, hai ngày một bữa), ngủ ít cũng chẳng mỏi mệt,
mới có thể ngồi được lâu (ngồi một hai ngày không đứng dậy). Thân người có ba
cái quí: Tinh – Khí – Thần. Tinh đầy thì khí đủ, khí đủ thì thần thoải mái,
thần thoải mái thì thân tâm nhẹ nhàng, thân tâm nhẹ nhàng thì khí mới thuận,
mới tế nhiệm (tinh tế), mới có thể ngồi được lâu, mới có thể “nhập định”, sau
nhập định giống người chết, như đất, còn có thể sống được trở lại (xuất định),
ngộ được khai rồi, thật là chẳng thể nghĩ bàn.
Hành dâm, ăn nhiều, vận động kịch liệt,
công tác nặng nề, có sự trở ngại cho sự thích ứng thân tâm, cần phải chú ý!
công tác nặng nề, có sự trở ngại cho sự thích ứng thân tâm, cần phải chú ý!
Ăn không cần no quá, tùy theo việc gặp
mà an, mới có thể chuyên tâm tĩnh tọa, tập luyện thân tâm. Hàng ngày nghiên cứu
vị ngon, ăn cần cho thỏa sự tham muốn cửa miệng, tâm địa như vậy làm sao thân
tâm có thể điều hòa thích nghi qua lại.
mà an, mới có thể chuyên tâm tĩnh tọa, tập luyện thân tâm. Hàng ngày nghiên cứu
vị ngon, ăn cần cho thỏa sự tham muốn cửa miệng, tâm địa như vậy làm sao thân
tâm có thể điều hòa thích nghi qua lại.
Có những loại thực vật ăn vào khí sẽ
không thuận, cần phải mỗi loại ăn thử mấy ngày, nếu sau khi ăn phát hiện thấy
hiện tượng không thuận khí, thì không nên ăn nữa!
không thuận, cần phải mỗi loại ăn thử mấy ngày, nếu sau khi ăn phát hiện thấy
hiện tượng không thuận khí, thì không nên ăn nữa!
Tĩnh tọa cần phải tập thiền định, thống
nhất tập trung tinh thần trở lại, yên tĩnh cái tâm là “Định”. Niệm Phật cũng là
một phương pháp định, nhất tâm bất loạn tức là “Định”.
nhất tập trung tinh thần trở lại, yên tĩnh cái tâm là “Định”. Niệm Phật cũng là
một phương pháp định, nhất tâm bất loạn tức là “Định”.
Tĩnh tọa cần: An tâm và điều thân.
An tâm: Thì quán không biết huyễn,
tưởng mở nhìn suốt, buông rời chấp trước, bỏ lìa bận tâm, trấn nhiếp tinh thần,
bài trừ nhiễu nhương, tâm bình khí hòa, an lành tự như. Cũng tức là khiến tâm
chuyên chú một chỗ, thống nhất tập trung tinh thần trở lại, chẳng để tâm tán
loạn, tâm niệm không khởi và tự tánh bất động đối với tất cả cảnh giới thiện
ác, ngoài lìa tướng, trong chẳng loạn.
tưởng mở nhìn suốt, buông rời chấp trước, bỏ lìa bận tâm, trấn nhiếp tinh thần,
bài trừ nhiễu nhương, tâm bình khí hòa, an lành tự như. Cũng tức là khiến tâm
chuyên chú một chỗ, thống nhất tập trung tinh thần trở lại, chẳng để tâm tán
loạn, tâm niệm không khởi và tự tánh bất động đối với tất cả cảnh giới thiện
ác, ngoài lìa tướng, trong chẳng loạn.
Điều thân: Là thuận thông thư thái khí
mạch, là bài trừ khí do chất tạp trong cơ thể, đả thông khí mạch toàn thân,
tiêu trừ bệnh chướng, thân thể thoải mái nhẹ nhàng. Điều thân, chẳng phải là
luyện KHÍ điều chỉnh hơi thở. Lúc ban đầu ngồi thân thể có những tình huống
không được thích hợp như đau tê hay ngứa ngáy, đây là quá trình bắt đầu, thể
chất mỗi người không đồng, cảm thọ cũng khác nhau, lâu ngày có thể lần hồi dẫn
đến tự như (như thường). Lúc ban đầu ngồi ngay khi thở ra hít vào (hít thở sâu)
thì anh phải biết, biết thôi, không lý giải nó, nên thuận với tự nhiên, qua một
thời gian, anh biết ngay nơi khí hít hoặc khí thở, thời gian ngồi ít lâu, lại
trải qua một khoảng thời gian khí hít cảm thấy nhẹ thoảng rồi, lại trải qua một
khoảng thời gian lúc ngồi giống như không có hít thở, lúc đó thân cũng được nhẹ
nhàng, lại qua một khoảng thời gian cảm giác đã không có hít thở, lúc nầy thân
anh không nên động. Nếu đã không hít thở rồi, tâm động lên lại biết có hít thở,
lại phải đợi một khoảng thời gian nữa mới cảm giác được không có hít thở, lại
phải trải qua một khoảng thời gian, gân chẳng động, tâm chẳng lăng xăng mà nhập
định. Tĩnh tọa nói cách khác là nhẹ nhàng thoải mái, lại nữa, có người đã ngồi
mười năm, hai mươi năm mà còn mỗi khi ngồi chẳng được ba tiếng đồng hồ thì đứng
dậy, khí còn đình trệ ở nơi hít thở.
mạch, là bài trừ khí do chất tạp trong cơ thể, đả thông khí mạch toàn thân,
tiêu trừ bệnh chướng, thân thể thoải mái nhẹ nhàng. Điều thân, chẳng phải là
luyện KHÍ điều chỉnh hơi thở. Lúc ban đầu ngồi thân thể có những tình huống
không được thích hợp như đau tê hay ngứa ngáy, đây là quá trình bắt đầu, thể
chất mỗi người không đồng, cảm thọ cũng khác nhau, lâu ngày có thể lần hồi dẫn
đến tự như (như thường). Lúc ban đầu ngồi ngay khi thở ra hít vào (hít thở sâu)
thì anh phải biết, biết thôi, không lý giải nó, nên thuận với tự nhiên, qua một
thời gian, anh biết ngay nơi khí hít hoặc khí thở, thời gian ngồi ít lâu, lại
trải qua một khoảng thời gian khí hít cảm thấy nhẹ thoảng rồi, lại trải qua một
khoảng thời gian lúc ngồi giống như không có hít thở, lúc đó thân cũng được nhẹ
nhàng, lại qua một khoảng thời gian cảm giác đã không có hít thở, lúc nầy thân
anh không nên động. Nếu đã không hít thở rồi, tâm động lên lại biết có hít thở,
lại phải đợi một khoảng thời gian nữa mới cảm giác được không có hít thở, lại
phải trải qua một khoảng thời gian, gân chẳng động, tâm chẳng lăng xăng mà nhập
định. Tĩnh tọa nói cách khác là nhẹ nhàng thoải mái, lại nữa, có người đã ngồi
mười năm, hai mươi năm mà còn mỗi khi ngồi chẳng được ba tiếng đồng hồ thì đứng
dậy, khí còn đình trệ ở nơi hít thở.
Lúc ban đầu ngồi tốt nhất là có thầy
giỏi hướng dẫn, hay tìm mua quyển sách “tập tĩnh tọa” để tự tập luyện, giúp
tăng thêm một nửa công việc.
giỏi hướng dẫn, hay tìm mua quyển sách “tập tĩnh tọa” để tự tập luyện, giúp
tăng thêm một nửa công việc.
Khai ngộ, thật ra không phải mỗi người
tu hành đều có thể đạt được. Tư chất thiên phú của con người không đồng, tinh
lực thể chất cũng khác, dùng tâm mà thể hội, chỗ ra công sức có cạn sâu lại là
sự quyết định NGỘ và KHÔNG NGỘ! Như xem sách, có người xem hai mươi phút là xem
xong một quyển sách, không những có thể rõ hiểu mà có thể tụng lại; có người
đến hai tiếng đồng hồ vẫn xem chưa xong, xem mười lần trăm lần cũng không thể
đọc lại được. Có người chạy, cũng bao nhiêu cây số, mà chỉ mất ba mươi phút,
chạy xong như không có việc gì, có người cũng chạy bao nhiêu cây số ấy, mà ba
mươi phút mới chỉ được nửa đường, thế mà mệt đừ thở dốc; Cũng như ăn quá no thì
không tiêu vậy. Tuy là tĩnh tọa như nhau, nhưng do thiên tư bẩm sinh chẳng
đồng, căn lành có cạn có sâu, sự ra công sức không đồng, khai ngộ cũng có trước
– sau, lớn – nhỏ sai biệt, hoặc là không ngộ. Cho nên bất tất vì mình hãy còn
chưa khai ngộ mà buồn sầu thương tâm!
tu hành đều có thể đạt được. Tư chất thiên phú của con người không đồng, tinh
lực thể chất cũng khác, dùng tâm mà thể hội, chỗ ra công sức có cạn sâu lại là
sự quyết định NGỘ và KHÔNG NGỘ! Như xem sách, có người xem hai mươi phút là xem
xong một quyển sách, không những có thể rõ hiểu mà có thể tụng lại; có người
đến hai tiếng đồng hồ vẫn xem chưa xong, xem mười lần trăm lần cũng không thể
đọc lại được. Có người chạy, cũng bao nhiêu cây số, mà chỉ mất ba mươi phút,
chạy xong như không có việc gì, có người cũng chạy bao nhiêu cây số ấy, mà ba
mươi phút mới chỉ được nửa đường, thế mà mệt đừ thở dốc; Cũng như ăn quá no thì
không tiêu vậy. Tuy là tĩnh tọa như nhau, nhưng do thiên tư bẩm sinh chẳng
đồng, căn lành có cạn có sâu, sự ra công sức không đồng, khai ngộ cũng có trước
– sau, lớn – nhỏ sai biệt, hoặc là không ngộ. Cho nên bất tất vì mình hãy còn
chưa khai ngộ mà buồn sầu thương tâm!
Chúng tại gia, vì việc nhà bận rộn,
việc xã hội bận rộn, còn vì bận rộn tĩnh tọa, việc nhiều tâm phiền, chỉ lúc yên
tĩnh tâm mới sơ sơ có chút ít bình ổn, muốn yên tĩnh cũng không yên tĩnh được,
lại chẳng thể nói ĐỊNH, ngộ cách nào khai?
việc xã hội bận rộn, còn vì bận rộn tĩnh tọa, việc nhiều tâm phiền, chỉ lúc yên
tĩnh tâm mới sơ sơ có chút ít bình ổn, muốn yên tĩnh cũng không yên tĩnh được,
lại chẳng thể nói ĐỊNH, ngộ cách nào khai?
Chúng tại gia muốn khai ngộ thì cần
phải chuyên tu! Nếu chẳng chuyên tu, thì việc nhiều tâm phiền, muốn yên tĩnh
thì yên tĩnh không được, làm sao có thể nhập định!
phải chuyên tu! Nếu chẳng chuyên tu, thì việc nhiều tâm phiền, muốn yên tĩnh
thì yên tĩnh không được, làm sao có thể nhập định!
Muốn khai ngộ, thì tranh thủ lúc tuổi
còn trẻ, người tuổi trẻ thì khí huyết tràn đầy, có thể ngồi được lâu. Già rồi,
khí suy huyết kém, xương cốt cứng đờ, tiến bộ có mức bị giới hạn.
còn trẻ, người tuổi trẻ thì khí huyết tràn đầy, có thể ngồi được lâu. Già rồi,
khí suy huyết kém, xương cốt cứng đờ, tiến bộ có mức bị giới hạn.
Nếu tự cho là đã khai ngộ, cần phải ấn
chứng chính ta, chẳng ngại làm việc kiểm tra như sau: Đối với nghĩa chơn thật
chính ta đã rõ ràng không nghi hay chưa? Đối với ranh giới phải – quấy, chánh –
tà hoàn toàn rõ ràng hay không? có thể viên dung giữa không và có hay không?
Phiền não chấp trước thì có giảm ít cho đến không còn hay không? Mỗi việc đưa
ra là tự ta khẳng định! Anh cũng sẽ khai ngộ chơn thật thôi. Nếu muốn hành dâm,
uống rượu, ăn thịt, ham muốn nhiều, lời nói việc làm chẳng thống nhất v.v…
những hành vi phá giới, tức là dính mắc nơi dấu hiệu của ma, cần nên đình chỉ
việc tĩnh tọa, siêng năng hơn lên mà sám hối sửa đổi cho chơn chánh, tránh khỏi
bị sự vây bủa của ma.
chứng chính ta, chẳng ngại làm việc kiểm tra như sau: Đối với nghĩa chơn thật
chính ta đã rõ ràng không nghi hay chưa? Đối với ranh giới phải – quấy, chánh –
tà hoàn toàn rõ ràng hay không? có thể viên dung giữa không và có hay không?
Phiền não chấp trước thì có giảm ít cho đến không còn hay không? Mỗi việc đưa
ra là tự ta khẳng định! Anh cũng sẽ khai ngộ chơn thật thôi. Nếu muốn hành dâm,
uống rượu, ăn thịt, ham muốn nhiều, lời nói việc làm chẳng thống nhất v.v…
những hành vi phá giới, tức là dính mắc nơi dấu hiệu của ma, cần nên đình chỉ
việc tĩnh tọa, siêng năng hơn lên mà sám hối sửa đổi cho chơn chánh, tránh khỏi
bị sự vây bủa của ma.
Lúc ngồi, nếu như thấy hào quang, thấy
Phật và các cảnh tượng, tất cả đều chẳng nên khoe khoang, tự mình vui, để khỏi
bị anh linh bên ngoài khống chế, mà đi vào đường tà; Nên chẳng khinh sợ, chẳng
vui mừng, chẳng dính mắc, chẳng xử lý, chỉ là không tưởng đến, không lý giải,
để khỏi chướng ngại. Lấy việc chẳng lý giải, chẳng khinh sợ, chẳng vui mừng,
chẳng động tâm, anh có thể làm được không? Làm không được thì nên đình chỉ việc
tĩnh tọa! Nếu anh vui mừng những việc đó, nghĩ tưởng đến, thế thì những an linh
bên ngoài (ma) đó sẽ phụ gá trên thân của anh, anh cho là ngộ đã khai, thì tâm
thần của anh bị an linh bên ngoài mê loạn và khống chế, nắm lấy chỗ đó, nó sẽ
khiến anh biếng nhác, phá giới và tạo các ác nghiệp.
Phật và các cảnh tượng, tất cả đều chẳng nên khoe khoang, tự mình vui, để khỏi
bị anh linh bên ngoài khống chế, mà đi vào đường tà; Nên chẳng khinh sợ, chẳng
vui mừng, chẳng dính mắc, chẳng xử lý, chỉ là không tưởng đến, không lý giải,
để khỏi chướng ngại. Lấy việc chẳng lý giải, chẳng khinh sợ, chẳng vui mừng,
chẳng động tâm, anh có thể làm được không? Làm không được thì nên đình chỉ việc
tĩnh tọa! Nếu anh vui mừng những việc đó, nghĩ tưởng đến, thế thì những an linh
bên ngoài (ma) đó sẽ phụ gá trên thân của anh, anh cho là ngộ đã khai, thì tâm
thần của anh bị an linh bên ngoài mê loạn và khống chế, nắm lấy chỗ đó, nó sẽ
khiến anh biếng nhác, phá giới và tạo các ác nghiệp.
SỰ HỮU DỤNG SAU KHI TĨNH TỌA DẬY
A – Ấn chứng bước đầu:
1_ Sau khi phiền não khởi thì dễ
chuyển, nháy mắt tức tiêu biến. 2_ Đối với thói quen sâu sắc thường ngày hãy
còn ham mê, chợt nhiên dứt bỏ mà sửa đổi. 3_ Gặp việc không chui vào chỗ bế
tắc, mà thường nghĩ tưởng từ chỗ siêu việt. 4_ Gặp việc thường quán sát phán
đoán từ trên lý nhân quả, gặp việc tùy duyên nhân đó mà thích ứng, chẳng nhờ
chẳng cầu, tâm được mất bình đạm. 5_ Ngay lúc gặp điều phi lễ hoặc sỉ nhục, đối
xử một cách thư thái, chẳng như trước kia dễ sinh giận mà không vui. 6_ Ít bực
tức, ít so đo, ít tranh chấp, ít lao đao.
chuyển, nháy mắt tức tiêu biến. 2_ Đối với thói quen sâu sắc thường ngày hãy
còn ham mê, chợt nhiên dứt bỏ mà sửa đổi. 3_ Gặp việc không chui vào chỗ bế
tắc, mà thường nghĩ tưởng từ chỗ siêu việt. 4_ Gặp việc thường quán sát phán
đoán từ trên lý nhân quả, gặp việc tùy duyên nhân đó mà thích ứng, chẳng nhờ
chẳng cầu, tâm được mất bình đạm. 5_ Ngay lúc gặp điều phi lễ hoặc sỉ nhục, đối
xử một cách thư thái, chẳng như trước kia dễ sinh giận mà không vui. 6_ Ít bực
tức, ít so đo, ít tranh chấp, ít lao đao.
B – Ấn
chứng tiến lên một bước:
chứng tiến lên một bước:
1_ Đối với những người có quan hệ thân
yêu, chỉ là chiếu cố dẫn dắt, giúp họ tự cường tự lập tự trị, mà chẳng phải cả
ngày bận rộn không dứt, trói buộc không rời, lo đây nghĩ kia, dốc lòng tận sức
thấp thỏm lo âu, cả ngày buông không rời. 2_ Đối với sắc đẹp, vinh hiển tôn
quí, cừu địch giữa đời, ngang tàn bạo ngược, vô lại, tà đạo… những con người
ấy, lúc ứng phó không có tâm thành kiến, dùng tâm bình đẳng bình thường để đối
đãi nhau. 3_ Đối với sự vật hay công việc thường ngày hay thích nhất, thói quen
và nỗi đam mê v.v… có thể biết đó là vô thường, yêu mà chẳng chấp, thì chẳng
bị nó làm lụy, mất cũng chẳng cảm thấy khó chịu, chẳng làm nô lệ cho sự việc
hay vật chất. 4_ Đối với danh lợi, quyền thế, phô trương, sở trường, châu báu
đã có, có thể biết huyễn mà không dính mắc, tùy duyên lấy – bỏ, được chẳng vui,
mất chẳng buồn, vì biết nó là vô thường. 5_ Ở lúc giao tiếp, vui say, sợ sệt,
lo lắng quạnh vắng, có thể dung chứa mà không bị bức bách, nhân sự thích ứng mà
bình thường, hoặc dứt khoát buông rời, mảy may không ngăn ngại. 6_ Đối với hoàn
cảnh không tốt, sự việc chẳng thuận, chỗ ở không thích nghi, mặt mày không
tốt… các cảnh nghịch, có thể phá trừ sự kết buộc của tâm, tùy duyên gặp, nhân
đó mà ứng xử, tùy duyên gặp mà an, chẳng lấy khổ vui của cuộc thế tục mà làm
khổ vui.
yêu, chỉ là chiếu cố dẫn dắt, giúp họ tự cường tự lập tự trị, mà chẳng phải cả
ngày bận rộn không dứt, trói buộc không rời, lo đây nghĩ kia, dốc lòng tận sức
thấp thỏm lo âu, cả ngày buông không rời. 2_ Đối với sắc đẹp, vinh hiển tôn
quí, cừu địch giữa đời, ngang tàn bạo ngược, vô lại, tà đạo… những con người
ấy, lúc ứng phó không có tâm thành kiến, dùng tâm bình đẳng bình thường để đối
đãi nhau. 3_ Đối với sự vật hay công việc thường ngày hay thích nhất, thói quen
và nỗi đam mê v.v… có thể biết đó là vô thường, yêu mà chẳng chấp, thì chẳng
bị nó làm lụy, mất cũng chẳng cảm thấy khó chịu, chẳng làm nô lệ cho sự việc
hay vật chất. 4_ Đối với danh lợi, quyền thế, phô trương, sở trường, châu báu
đã có, có thể biết huyễn mà không dính mắc, tùy duyên lấy – bỏ, được chẳng vui,
mất chẳng buồn, vì biết nó là vô thường. 5_ Ở lúc giao tiếp, vui say, sợ sệt,
lo lắng quạnh vắng, có thể dung chứa mà không bị bức bách, nhân sự thích ứng mà
bình thường, hoặc dứt khoát buông rời, mảy may không ngăn ngại. 6_ Đối với hoàn
cảnh không tốt, sự việc chẳng thuận, chỗ ở không thích nghi, mặt mày không
tốt… các cảnh nghịch, có thể phá trừ sự kết buộc của tâm, tùy duyên gặp, nhân
đó mà ứng xử, tùy duyên gặp mà an, chẳng lấy khổ vui của cuộc thế tục mà làm
khổ vui.
C – Ấn
chứng tiến lên một bước nữa:
chứng tiến lên một bước nữa:
1_ Có thể cải đổi tập khí xấu, như là
xả ly những thói của ta như: Tư riêng, đa nghi, keo kiệt, nôn nóng, thô tháo,
ưa so tính ưa tranh luận, ưa làm phiền, ưa hư vinh, ưa bài xích chê bai kẻ
khác, v.v… chứa những thói quen cố chấp khó lìa, từ câu nệ mà thoát khỏi, mà
hào phóng, mà siêu việt, mà thông suốt tròn đầy, mà tự tại. 2_ Gặp lúc thiên
tai, người bị họa, bệnh ách, khổ nạn… một cách nặng nề, biết tất cả sinh diệt
vô thường, nguồn gốc là không là huyễn, có thể không lo không sợ, đối xử thanh
thảng, tùy duyên mà NHẬM VẬN, tự tại không trở ngại. 3_ Tuy biết phân biệt,
nhưng chẳng trụ ở hai tướng, chẳng nhân nơi so sánh mà sinh ra vọng niệm, chẳng
nhân nơi ghét yêu mà sinh ra phiền não, vào ở nơi “trí vô phân biệt”.
xả ly những thói của ta như: Tư riêng, đa nghi, keo kiệt, nôn nóng, thô tháo,
ưa so tính ưa tranh luận, ưa làm phiền, ưa hư vinh, ưa bài xích chê bai kẻ
khác, v.v… chứa những thói quen cố chấp khó lìa, từ câu nệ mà thoát khỏi, mà
hào phóng, mà siêu việt, mà thông suốt tròn đầy, mà tự tại. 2_ Gặp lúc thiên
tai, người bị họa, bệnh ách, khổ nạn… một cách nặng nề, biết tất cả sinh diệt
vô thường, nguồn gốc là không là huyễn, có thể không lo không sợ, đối xử thanh
thảng, tùy duyên mà NHẬM VẬN, tự tại không trở ngại. 3_ Tuy biết phân biệt,
nhưng chẳng trụ ở hai tướng, chẳng nhân nơi so sánh mà sinh ra vọng niệm, chẳng
nhân nơi ghét yêu mà sinh ra phiền não, vào ở nơi “trí vô phân biệt”.
HỌC PHẬT TU HÀNH CHẲNG NÊN SỢ KHÓ
Thành Phật! Thật là việc rất khó, quyết
cần phải có sự trả giá tương đương, mới có thể đạt đến công phu tương đối. Như
việc đi làm, mỗi ngày từ sáng sớm dậy đi làm, làm thẳng đến chiều tối mới trở
về nhà nghỉ ngơi, cần đổ ra rất nhiều mồ hôi tâm huyết mới có thể lãnh được
lương bỗng đúng tháng, chẳng khổ nhọc sao? Rất là khổ nhọc! Tu hành cần được
công phu ngang bằng, cũng cần bỏ ra thời gian, tinh thần và sức lực tương đối,
như tu hành mà không khó thì chẳng nói đến “tu hành” làm gì. Nếu sợ khó thì
chẳng nên tu hành! Chỉ hơi tin Phật, lại cố cầu phước báo trời người, hưởng lấy
dục lạc thế gian, quên đi rằng: “Vui đến cùng cực lại sinh buồn!”. Đến lúc đó thì
thành ra địa ngục của nhân gian.
cần phải có sự trả giá tương đương, mới có thể đạt đến công phu tương đối. Như
việc đi làm, mỗi ngày từ sáng sớm dậy đi làm, làm thẳng đến chiều tối mới trở
về nhà nghỉ ngơi, cần đổ ra rất nhiều mồ hôi tâm huyết mới có thể lãnh được
lương bỗng đúng tháng, chẳng khổ nhọc sao? Rất là khổ nhọc! Tu hành cần được
công phu ngang bằng, cũng cần bỏ ra thời gian, tinh thần và sức lực tương đối,
như tu hành mà không khó thì chẳng nói đến “tu hành” làm gì. Nếu sợ khó thì
chẳng nên tu hành! Chỉ hơi tin Phật, lại cố cầu phước báo trời người, hưởng lấy
dục lạc thế gian, quên đi rằng: “Vui đến cùng cực lại sinh buồn!”. Đến lúc đó thì
thành ra địa ngục của nhân gian.
Hãy xem cuộc sống của các vị pháp sư,
cuộc sống tự cố gắng quá ư là tích cực, nghiêm túc và khắc khổ, tiết kiệm
nhiều, chắc thật và tự nhiên. Mục đích tìm cầu của họ là làm sao ngang bằng đến
sự cao thượng, thánh khiết và vĩ đại; Ngược lại chúng ta đây lại chạy theo phàm
phu danh lợi, rượu thịt, cảm thấy hổ thẹn quá!
cuộc sống tự cố gắng quá ư là tích cực, nghiêm túc và khắc khổ, tiết kiệm
nhiều, chắc thật và tự nhiên. Mục đích tìm cầu của họ là làm sao ngang bằng đến
sự cao thượng, thánh khiết và vĩ đại; Ngược lại chúng ta đây lại chạy theo phàm
phu danh lợi, rượu thịt, cảm thấy hổ thẹn quá!
ĐUỔI ĐI LO SẦU
“Tâm HỶ LẠC là thuốc hay, cõi lòng buồn
thương sẽ khô gầy hình vóc”. Tin rằng không có người nào hiểu được sự vui vẻ
hay lo buồn, nhưng nó ngược lại như loại bóng râm bao trùm lấy tâm người, gạt
ra không được. Trời từ lời nguyện con người, cố nhiên khiến cho con người vui
mừng, nhưng mà đời người việc không như ý có đến tám chín phần mười, ai lại có
thể may mắn tránh khỏi ư?
thương sẽ khô gầy hình vóc”. Tin rằng không có người nào hiểu được sự vui vẻ
hay lo buồn, nhưng nó ngược lại như loại bóng râm bao trùm lấy tâm người, gạt
ra không được. Trời từ lời nguyện con người, cố nhiên khiến cho con người vui
mừng, nhưng mà đời người việc không như ý có đến tám chín phần mười, ai lại có
thể may mắn tránh khỏi ư?
Nhưng có vài người thường thường đối
với những chuyện vặt vãnh, nhớ rất rõ ràng, cả ngày chẳng vui, giống như là
trên cuộc sống loanh quanh chỉ gặp toàn những người, chuyện vật xem ra không
vui vẻ, giống như là bóng tối cuộc đời bao quanh anh ta, không cách nào tránh
thoát sự đoanh vây của buồn, hận, sầu bi.
với những chuyện vặt vãnh, nhớ rất rõ ràng, cả ngày chẳng vui, giống như là
trên cuộc sống loanh quanh chỉ gặp toàn những người, chuyện vật xem ra không
vui vẻ, giống như là bóng tối cuộc đời bao quanh anh ta, không cách nào tránh
thoát sự đoanh vây của buồn, hận, sầu bi.
Người nếu thường bị việc nhỏ nhặt không
đáng kể làm cho đăm chiêu ủ dột, biểu thị sự u uất, như thế than thở ưu phiền,
mà trong vô hình không biết không rõ sự đã hao tốn bao nhiêu là năng lượng trên
tinh thần, phân định được không?
đáng kể làm cho đăm chiêu ủ dột, biểu thị sự u uất, như thế than thở ưu phiền,
mà trong vô hình không biết không rõ sự đã hao tốn bao nhiêu là năng lượng trên
tinh thần, phân định được không?
Nếu như trong cuộc sống việc quá nhiều,
khiến chúng ta không thỏa mãn, có phải chăng do chúng ta yêu cầu quá nhiều? Sự
oán hận của chúng ta, có phải chăng vì chúng ta khoang dung quá ít? Anh có tấm
lòng thế nào, thì có cuộc sống thế ấy, nếu anh cả ngày tiếng thở lời than, cần
phải biết rằng so với trăm bệnh, lo sầu càng sẽ khiến người khó mà thoát thân,
một ngày chuốc lấy trên thân, khiến người không những dễ dàng đánh mất tuổi
trẻ, vả lại dễ suy tàn đi tâm sống động, làm cho đời người khô gầy thiếu vị,
cho nên anh hiện tại nên đuổi dẹp mau gốc rễ mà trừ bỏ đi lo sầu đầy chật cả
trong tâm; làm mới lại sự thoải mái tràn trề đầy ắp vui vẻ.
khiến chúng ta không thỏa mãn, có phải chăng do chúng ta yêu cầu quá nhiều? Sự
oán hận của chúng ta, có phải chăng vì chúng ta khoang dung quá ít? Anh có tấm
lòng thế nào, thì có cuộc sống thế ấy, nếu anh cả ngày tiếng thở lời than, cần
phải biết rằng so với trăm bệnh, lo sầu càng sẽ khiến người khó mà thoát thân,
một ngày chuốc lấy trên thân, khiến người không những dễ dàng đánh mất tuổi
trẻ, vả lại dễ suy tàn đi tâm sống động, làm cho đời người khô gầy thiếu vị,
cho nên anh hiện tại nên đuổi dẹp mau gốc rễ mà trừ bỏ đi lo sầu đầy chật cả
trong tâm; làm mới lại sự thoải mái tràn trề đầy ắp vui vẻ.
MỘT NỤ CƯỜI GIẢI TỎA NGHÌN SẦU
Một người nếu miệng thường nở nụ cười,
khiến cho cảm giác người ta tất nhiên là một sự hòa khí, vui vẻ trong lòng.
Cười chẳng những chỉ khiến thân tâm anh khỏe mạnh, tự được vui vẻ, trừ được
thất vọng và nôn nóng, cải thiện quan hệ con người, là việc mà mọi người đều
biết, nên không nói lời thừa. Nhưng bàn đến là thời gian bình thường nên cười
nhiều; tóm lại có người thở ngắn than dài đều mau sầu chết người! Nên cười sao
cho dứt được lời than. Kỳ thật, ta cảm thấy ngược lại, càng gặp việc trái ngịch
khốn khó, càng nên cười nhiều. Bỡi vì tác dụng của nụ cười, thật chẳng phải là
biểu lộ sự thoái mái tiêu cực, mà lại là sự thoải mái sáng tạo tích cực, xua
đuổi nổi lo, giải tỏa cuộc sầu. Cười nhiều thường cười, tự nhiên là hòa khí đầy
đủ. Nếu có một người từ sáng đến tối cứ kéo dài thừ nét mặt ra, than ngắn thở
dài, như vậy làm sao không chuốt lấy họa!
khiến cho cảm giác người ta tất nhiên là một sự hòa khí, vui vẻ trong lòng.
Cười chẳng những chỉ khiến thân tâm anh khỏe mạnh, tự được vui vẻ, trừ được
thất vọng và nôn nóng, cải thiện quan hệ con người, là việc mà mọi người đều
biết, nên không nói lời thừa. Nhưng bàn đến là thời gian bình thường nên cười
nhiều; tóm lại có người thở ngắn than dài đều mau sầu chết người! Nên cười sao
cho dứt được lời than. Kỳ thật, ta cảm thấy ngược lại, càng gặp việc trái ngịch
khốn khó, càng nên cười nhiều. Bỡi vì tác dụng của nụ cười, thật chẳng phải là
biểu lộ sự thoái mái tiêu cực, mà lại là sự thoải mái sáng tạo tích cực, xua
đuổi nổi lo, giải tỏa cuộc sầu. Cười nhiều thường cười, tự nhiên là hòa khí đầy
đủ. Nếu có một người từ sáng đến tối cứ kéo dài thừ nét mặt ra, than ngắn thở
dài, như vậy làm sao không chuốt lấy họa!
Cười thật ra chẳng nhu cầu sự quyết
định trước nhân tố hoặc chuẩn bị động tác trên tâm lý gì đâu. Bất cứ người nào,
chỉ cần cơ thịt hai bên quai hàm động xếch lên chút xíu, khiến khóe miệng vểnh
lên, thì đã có nụ cười trên mặt rồi. Nếu chịu bật khí ra tiếng, yết hầu phát ra
âm: Ha… há! thì là phát ra cười to, cũng thuộc về việc tầm thường, cho nên
cười không được do không chịu làm, chẳng phải là không làm được. Cũng có người
hoài nghi rằng: “Nụ cười hiện lên mặt, trong lòng nuốt từng giọt đắng, phỏng có
tác dụng gì?”. Kỳ thật, bồi dưỡng cho nụ cười là có thể “từ ngoài mà vào trong,
ngược dòng mà vào”, biểu hiện trên mặt cười nhiều, cười lâu rồi thì có thể thói
quen thành tự nhiên, đến lúc đó, lại được vui từ tâm sinh ra, chẳng đặc biệt
cầu bên ngoài, nụ cười được phát ra từ trong tâm.
định trước nhân tố hoặc chuẩn bị động tác trên tâm lý gì đâu. Bất cứ người nào,
chỉ cần cơ thịt hai bên quai hàm động xếch lên chút xíu, khiến khóe miệng vểnh
lên, thì đã có nụ cười trên mặt rồi. Nếu chịu bật khí ra tiếng, yết hầu phát ra
âm: Ha… há! thì là phát ra cười to, cũng thuộc về việc tầm thường, cho nên
cười không được do không chịu làm, chẳng phải là không làm được. Cũng có người
hoài nghi rằng: “Nụ cười hiện lên mặt, trong lòng nuốt từng giọt đắng, phỏng có
tác dụng gì?”. Kỳ thật, bồi dưỡng cho nụ cười là có thể “từ ngoài mà vào trong,
ngược dòng mà vào”, biểu hiện trên mặt cười nhiều, cười lâu rồi thì có thể thói
quen thành tự nhiên, đến lúc đó, lại được vui từ tâm sinh ra, chẳng đặc biệt
cầu bên ngoài, nụ cười được phát ra từ trong tâm.
Cười, cũng là lúc ngay tâm đầu chẳng
thấy thoải mái, tức khiến cho nụ cười qua đi những vấn đề ngày cũ, mang theo nụ
cười bao dung để xử lý vấn đề, tóm lại vấn đề xử lý bao bọc sầu khổ đang mang
sau lưng là cần phải nhẹ nhàng có hiệu quả, cười một cái giải nghìn sầu, nếu
chẳng ngại anh thử coi.
thấy thoải mái, tức khiến cho nụ cười qua đi những vấn đề ngày cũ, mang theo nụ
cười bao dung để xử lý vấn đề, tóm lại vấn đề xử lý bao bọc sầu khổ đang mang
sau lưng là cần phải nhẹ nhàng có hiệu quả, cười một cái giải nghìn sầu, nếu
chẳng ngại anh thử coi.
– BA CÁI VUI ĐỜI NGƯỜI:
Sống trên đời nầy, mỗi người đối với
khổ vui đều có tiêu chuẩn bất đồng, việc vui được đưa ra để ví dụ cũng chẳng
phải là một dạng:
khổ vui đều có tiêu chuẩn bất đồng, việc vui được đưa ra để ví dụ cũng chẳng
phải là một dạng:
– Chỉ được chỗ ở thường vô sự.
– Ăn no, mặt ấm.
– Thường niệm: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Ba việc vui nầy: Chỗ ở và công tác
không có người đến quấy rối, công tác gánh vát thoải mái, lúc làm thì làm, lúc
nghỉ ngơi thì nghỉ ngơi, chẳng tham ái gì đến vinh hoa phú quí, không so tính tốt
xấu, được mất, khen chê, sự đời nhìn rõ việc thế tục buông rời, phàm việc
nghịch đến thì thuận thọ, có lòng bao dung, tâm bình khí hoà, tâm an lý được,
vô sự nhàn nhã, nhàn rồi có thể thường niệm Phật, nhàn rồi có thể qua lại đó
đây, tất cả tâm tình thích thú đều là lấy sự bình đạm nhàn nhã làm điểm xuất
phát, vô sự nhàn nhã thảng nhiên, có thể ăn no mặt ấm (tiền bạc sớm biết dự
phòng trước), không tham lam, không tranh chấp, không liều lĩnh, an phận tuỳ
duyên, tâm trong sáng không lo nghĩ, cuộc sống vật chất và tinh thần không lo
lắng thiếu thốn, đầy đủ ở mình, chẳng cầu ở người, người của trời chẳng qua
cũng như đây thôi!
không có người đến quấy rối, công tác gánh vát thoải mái, lúc làm thì làm, lúc
nghỉ ngơi thì nghỉ ngơi, chẳng tham ái gì đến vinh hoa phú quí, không so tính tốt
xấu, được mất, khen chê, sự đời nhìn rõ việc thế tục buông rời, phàm việc
nghịch đến thì thuận thọ, có lòng bao dung, tâm bình khí hoà, tâm an lý được,
vô sự nhàn nhã, nhàn rồi có thể thường niệm Phật, nhàn rồi có thể qua lại đó
đây, tất cả tâm tình thích thú đều là lấy sự bình đạm nhàn nhã làm điểm xuất
phát, vô sự nhàn nhã thảng nhiên, có thể ăn no mặt ấm (tiền bạc sớm biết dự
phòng trước), không tham lam, không tranh chấp, không liều lĩnh, an phận tuỳ
duyên, tâm trong sáng không lo nghĩ, cuộc sống vật chất và tinh thần không lo
lắng thiếu thốn, đầy đủ ở mình, chẳng cầu ở người, người của trời chẳng qua
cũng như đây thôi!
Nghĩ tưởng chín chắn, không tham –
không tranh – không thẹn của bản tâm, mới là cơ sở của tất cả khoái lạc, vì chỉ
có người bình thản phơi phới, thì đến chỗ ở cũng đều là đất vui. Mà người làm
tăng thêm sự rì rầm, việc chạm đến đều là trường sầu, thuận ngịch sầu vui của
cảnh gặp toàn là ở trong ta, sự vui, giận, sáng suốt và mờ ám của tâm người;
vui vô sự, vui điềm tĩnh, là vui cõi trời, việc vui sở hữu đời người; người vừa
tham vừa tranh chấp, vừa cầu, vừa thẹn thì tất nhiên hưởng thọ không được rồi.
không tranh – không thẹn của bản tâm, mới là cơ sở của tất cả khoái lạc, vì chỉ
có người bình thản phơi phới, thì đến chỗ ở cũng đều là đất vui. Mà người làm
tăng thêm sự rì rầm, việc chạm đến đều là trường sầu, thuận ngịch sầu vui của
cảnh gặp toàn là ở trong ta, sự vui, giận, sáng suốt và mờ ám của tâm người;
vui vô sự, vui điềm tĩnh, là vui cõi trời, việc vui sở hữu đời người; người vừa
tham vừa tranh chấp, vừa cầu, vừa thẹn thì tất nhiên hưởng thọ không được rồi.
Đời người thoải mái thật chẳng khó,
chẳng có ngã chấp đối với việc, chẳng so tính đối với người, phàm việc ngịch
đến thì thuận thọ, vả lại chẳng để nơi ý, nhìn rõ buông rời, cố hết sức đơn
giản hoá cách nhìn sự vật gặp được, giảm nhẹ sức ép tâm lý, lại cần hiểu rõ:
“Cười là việc sống vui vẻ, là hình nghi dung mạo thẳng thắn và thật thà”.
chẳng có ngã chấp đối với việc, chẳng so tính đối với người, phàm việc ngịch
đến thì thuận thọ, vả lại chẳng để nơi ý, nhìn rõ buông rời, cố hết sức đơn
giản hoá cách nhìn sự vật gặp được, giảm nhẹ sức ép tâm lý, lại cần hiểu rõ:
“Cười là việc sống vui vẻ, là hình nghi dung mạo thẳng thắn và thật thà”.
MÔ PHẠM CỦA NGƯỜI NIỆM PHẬT
Ngài Quảng Khâm Hoà thượng năm chín
mươi lăm tuổi, ngày mười ba tháng hai, năm Dân quốc thứ bảy mươi lăm, ở tại
chùa Diệu Thông thuộc xã Lục Qui, huyện Cao Hùng, ngồi an lành hoá sanh về nước
Phật; Ngài cũng là bậc đức cao vọng trọng của giới Phật giáo, trú trì “Thừa
Thiên thiền tự” xã Phổ Thành, huyện Đài Bắc. Ngài là một bậc cao tăng lúc bấy
giờ được mọi người sùng ngưỡng, khắp nơi tôn kính, tự động thân cận cúng dường.
Ngài lúc hai mươi tuổi xuất gia ở chùa “Thừa Thiên thiền tự” thuộc thành Tấn
Giang, châu Phúc Kiến Tuyền, nhân vì không biết chữ, chẳng thể tụng kinh nói
pháp, trước tiên ở chùa làm công việc tính cách lao động, nhiều năm sau được
điều phái làm “Thầy hương đăng”, tức là quản lý việc đốt nhan, rót dầu của đại
điện và các công tác dọn dẹp đại điện, từ đây ban ngày công tác, tối lại tu
“Thiền tịnh độ” (ngồi yên tĩnh thầm niệm Phật) ở trước Phật, về sau vào trong
núi sâu tiếp tục tu trì, lúc vào núi gạo và lương thực mang đi hết rồi, đành
phải hái lấy rau quả gần đó để đỡ đói, khổ tu mười hai năm, được thấy tánh
(khai ngộ) mới xuống núi. Tháng sáu, năm Dân quốc thứ ba mươi sáu, ngài đến Đài
Bắc để hoằng pháp, nhân vì chỉ ăn trái cây, được mọi người gọi là “Sư trái
cây”. Ngài không giảng kinh lại không giải biện việc học, Ngài chuyên niệm Phật
để nhiếp chúng, dùng đại ý Phật Pháp đơn giản để khai thị cho tín chúng, thường
khuyên mọi người niệm Phật nhiều; được sự ái mộ, tôn kính, tự động gần gũi của
tín chúng rộng lớn, ngay cả những người học đầy đủ kinh luận cao xa cũng khẩu
phục tâm phục. Dòng người không dứt, cơ hồ hoạt động không ngày nghỉ, đến với
chùa Thừa Thiên Thiền, thuộc xã Thổ thành, huyện Đài Bắc, chính là mô phạm của
người niệm Phật chúng ta! Ngài tu “thiền tịnh độ” được chứng ngộ, chúng ta
chẳng thể sao? Có thể! có thể thực hành (chịu làm) thì có thể được, song xem
thử mọi người có phát được tâm chăng? Chịu tinh tấn hay không mà thôi!
mươi lăm tuổi, ngày mười ba tháng hai, năm Dân quốc thứ bảy mươi lăm, ở tại
chùa Diệu Thông thuộc xã Lục Qui, huyện Cao Hùng, ngồi an lành hoá sanh về nước
Phật; Ngài cũng là bậc đức cao vọng trọng của giới Phật giáo, trú trì “Thừa
Thiên thiền tự” xã Phổ Thành, huyện Đài Bắc. Ngài là một bậc cao tăng lúc bấy
giờ được mọi người sùng ngưỡng, khắp nơi tôn kính, tự động thân cận cúng dường.
Ngài lúc hai mươi tuổi xuất gia ở chùa “Thừa Thiên thiền tự” thuộc thành Tấn
Giang, châu Phúc Kiến Tuyền, nhân vì không biết chữ, chẳng thể tụng kinh nói
pháp, trước tiên ở chùa làm công việc tính cách lao động, nhiều năm sau được
điều phái làm “Thầy hương đăng”, tức là quản lý việc đốt nhan, rót dầu của đại
điện và các công tác dọn dẹp đại điện, từ đây ban ngày công tác, tối lại tu
“Thiền tịnh độ” (ngồi yên tĩnh thầm niệm Phật) ở trước Phật, về sau vào trong
núi sâu tiếp tục tu trì, lúc vào núi gạo và lương thực mang đi hết rồi, đành
phải hái lấy rau quả gần đó để đỡ đói, khổ tu mười hai năm, được thấy tánh
(khai ngộ) mới xuống núi. Tháng sáu, năm Dân quốc thứ ba mươi sáu, ngài đến Đài
Bắc để hoằng pháp, nhân vì chỉ ăn trái cây, được mọi người gọi là “Sư trái
cây”. Ngài không giảng kinh lại không giải biện việc học, Ngài chuyên niệm Phật
để nhiếp chúng, dùng đại ý Phật Pháp đơn giản để khai thị cho tín chúng, thường
khuyên mọi người niệm Phật nhiều; được sự ái mộ, tôn kính, tự động gần gũi của
tín chúng rộng lớn, ngay cả những người học đầy đủ kinh luận cao xa cũng khẩu
phục tâm phục. Dòng người không dứt, cơ hồ hoạt động không ngày nghỉ, đến với
chùa Thừa Thiên Thiền, thuộc xã Thổ thành, huyện Đài Bắc, chính là mô phạm của
người niệm Phật chúng ta! Ngài tu “thiền tịnh độ” được chứng ngộ, chúng ta
chẳng thể sao? Có thể! có thể thực hành (chịu làm) thì có thể được, song xem
thử mọi người có phát được tâm chăng? Chịu tinh tấn hay không mà thôi!
Hoà thượng Quảng Khâm dạy dẫn người học
rằng:
rằng:
“Lúc bình thường đối với bất kỳ việc
gì, đều cần phải “tâm rộng rãi”. Chẳng sai, tâm đã được rộng rãi rồi, tâm sẽ
tuỳ thuận, nhún nhường, điều phục, mềm mỏng hoà nhã, tĩnh lặng, chẳng động; tâm
chẳng động thì ý có thể thông, chẳng cố chấp, chẳng phân biệt, chẳng so đo,
chẳng cưỡng cầu, lượng như biển có thể dung chứa, thuận với duyên ngịch, qua đi
như mây nước, chẳng lưu lại dấu vết, sáng như gương, yên lặng tâm. Vì “tâm rộng
rãi” phàm việc gì cũng nhìn rõ, buông rời, chẳng bị phiền não trói buộc”.
gì, đều cần phải “tâm rộng rãi”. Chẳng sai, tâm đã được rộng rãi rồi, tâm sẽ
tuỳ thuận, nhún nhường, điều phục, mềm mỏng hoà nhã, tĩnh lặng, chẳng động; tâm
chẳng động thì ý có thể thông, chẳng cố chấp, chẳng phân biệt, chẳng so đo,
chẳng cưỡng cầu, lượng như biển có thể dung chứa, thuận với duyên ngịch, qua đi
như mây nước, chẳng lưu lại dấu vết, sáng như gương, yên lặng tâm. Vì “tâm rộng
rãi” phàm việc gì cũng nhìn rõ, buông rời, chẳng bị phiền não trói buộc”.
Có một bài văn nói về Hòa thượng Quảng
Khâm lúc chín mươi lăm tuổi, bắt đầu một tuần trước khi vãng sanh, sớm tối mỗi
ngày đều tự mình phát ra niệm Phật to tiếng, khiến hết thảy mỗi lời niệm đều
khẩn thiết hô to lên A DI ĐÀ PHẬT. Mọi người đều luân lưu niệm to tiếng với
Ngài, niệm đến khi tiếng khàn, ngực đau, khí lực khó chống đỡ; có đệ tử sợ Ngài
gần cả tháng không ăn thể lực khó để duy trì, nên mới thưa với Ngài rằng: “Sư
phụ! Chúng con niệm thầy nghe thôi cũng được!”. Hòa thượng trừng to mắt, dứt
khoát nói rằng: “Các người niệm là việc của các người, các người sinh tử các
người lo!”. Nói rồi, lại to tiếng khẩn thiết tự mình niệm Phật. Từ lời tự thuật
ở trên có thể biết, một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT thật có công đức bất khả tư
nghì! Nếu chẳng vậy, thì một vị Hòa thượng là người đã chứng ngộ được đạo
Thánh, trước lúc lâm chung còn to tiếng niệm Phật cả ngày đêm, nhờ vào sức tu
trì tự thân của Ngài thì có thể ra khỏi ba cõi rồi, sao lại trước lúc lâm chung
sớm tối lớn tiếng niệm Phật!
Khâm lúc chín mươi lăm tuổi, bắt đầu một tuần trước khi vãng sanh, sớm tối mỗi
ngày đều tự mình phát ra niệm Phật to tiếng, khiến hết thảy mỗi lời niệm đều
khẩn thiết hô to lên A DI ĐÀ PHẬT. Mọi người đều luân lưu niệm to tiếng với
Ngài, niệm đến khi tiếng khàn, ngực đau, khí lực khó chống đỡ; có đệ tử sợ Ngài
gần cả tháng không ăn thể lực khó để duy trì, nên mới thưa với Ngài rằng: “Sư
phụ! Chúng con niệm thầy nghe thôi cũng được!”. Hòa thượng trừng to mắt, dứt
khoát nói rằng: “Các người niệm là việc của các người, các người sinh tử các
người lo!”. Nói rồi, lại to tiếng khẩn thiết tự mình niệm Phật. Từ lời tự thuật
ở trên có thể biết, một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT thật có công đức bất khả tư
nghì! Nếu chẳng vậy, thì một vị Hòa thượng là người đã chứng ngộ được đạo
Thánh, trước lúc lâm chung còn to tiếng niệm Phật cả ngày đêm, nhờ vào sức tu
trì tự thân của Ngài thì có thể ra khỏi ba cõi rồi, sao lại trước lúc lâm chung
sớm tối lớn tiếng niệm Phật!
THAM KHẢO KINH ĐIỂN
Nói đến ba tạng kinh điển, là tôn chỉ
mọi nơi đều hướng về, nhưng ai có thời gian để mà nghiên cứu, đành phải trước
tiên kiểm tra xem chuyên môn.
mọi nơi đều hướng về, nhưng ai có thời gian để mà nghiên cứu, đành phải trước
tiên kiểm tra xem chuyên môn.
Kinh có năm kinh về tịnh độ. Kinh “Vô
Lượng Thọ” và “A Di Đà”, hai bộ nầy mức độ (chữ nghĩa) rất ít nên cần tụng.
Kinh “A Di Đà”, mỗi ngày tụng mấy biến, giúp cho việc vãng sanh thế giới Cực
Lạc chẳng phải ít; tiếp tụng “Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh
tịnh độ Đà La Ni” ba mươi biến hoặc một trăm biến, bạt trừ tất cả nghiệp chướng
(vì nghiệp chướng sẽ làm cho anh biếng nhác tán loạn, hủy hoại pháp, phá giới,
tạo ác), khỏi bị nghiệp chướng trói buộc, không thanh tịnh trong việc tu hành.
Như tu hành mà lại còn muốn cuộc sống hiện tại tốt đẹp, sự hứng thú còn rất
nồng nàn đối với thế gian, rất nghĩ tưởng về nó, chuyện không thể tưởng tượng
thì thường nghĩ tưởng, chẳng thể làm lại đi làm, phiền não rất nhiều, tu hành
chẳng được tự tại, tụng đến khi tu hành tự tại rồi, mới ít tụng một chút, mỗi
lần tụng kinh “A Di Đà” thì nên liên tiếp tụng ba biến.
Lượng Thọ” và “A Di Đà”, hai bộ nầy mức độ (chữ nghĩa) rất ít nên cần tụng.
Kinh “A Di Đà”, mỗi ngày tụng mấy biến, giúp cho việc vãng sanh thế giới Cực
Lạc chẳng phải ít; tiếp tụng “Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh
tịnh độ Đà La Ni” ba mươi biến hoặc một trăm biến, bạt trừ tất cả nghiệp chướng
(vì nghiệp chướng sẽ làm cho anh biếng nhác tán loạn, hủy hoại pháp, phá giới,
tạo ác), khỏi bị nghiệp chướng trói buộc, không thanh tịnh trong việc tu hành.
Như tu hành mà lại còn muốn cuộc sống hiện tại tốt đẹp, sự hứng thú còn rất
nồng nàn đối với thế gian, rất nghĩ tưởng về nó, chuyện không thể tưởng tượng
thì thường nghĩ tưởng, chẳng thể làm lại đi làm, phiền não rất nhiều, tu hành
chẳng được tự tại, tụng đến khi tu hành tự tại rồi, mới ít tụng một chút, mỗi
lần tụng kinh “A Di Đà” thì nên liên tiếp tụng ba biến.
– Đà La Ni “Bạt nhất thiết nghiệp
chướng căn bản đắc sinh tịnh độ” – (Trong “Kinh Nhật Tụng” thường có, đây không
dịch chép).
chướng căn bản đắc sinh tịnh độ” – (Trong “Kinh Nhật Tụng” thường có, đây không
dịch chép).
Nếu còn thời gian và khỏe cũng nên tụng
một biến kinh “Vô lượng thọ”, tức có thể rõ hiểu được đại khái pháp môn tịnh
độ.
một biến kinh “Vô lượng thọ”, tức có thể rõ hiểu được đại khái pháp môn tịnh
độ.
A DI ĐÀ PHẬT là thầy của chúng ta, kinh
VÔ LƯỢNG THỌ là bài khóa căn bản của chúng ta. Đọc kỹ một bộ kinh “Vô Lượng
Thọ”, có thể hiểu thông suốt, rõ ràng, chiếu theo kinh “Vô Lượng Thọ” để tu
học, học thành công tức là đạt rồi, trở lại học kinh luận. Đây tức là một cửa
thâm nhập, chỗ gọi là “một kinh thông, tất cả kinh đều thông”, từ trên một bộ
kinh nầy mà được định, khai huệ, đây mới gọi là thông đạt, sau đó anh xem những
kinh điển khác, khi xem sẽ thông đạt cả. Trước khi chưa thông đạt kinh Vô Lượng
Thọ, xem những kinh điển khác chưa thể thông đạt, chỉ có thể nói là ta xem
nhiều bao nhiêu quyển kinh điển mà thôi, chẳng được lợi ích nhiều.
VÔ LƯỢNG THỌ là bài khóa căn bản của chúng ta. Đọc kỹ một bộ kinh “Vô Lượng
Thọ”, có thể hiểu thông suốt, rõ ràng, chiếu theo kinh “Vô Lượng Thọ” để tu
học, học thành công tức là đạt rồi, trở lại học kinh luận. Đây tức là một cửa
thâm nhập, chỗ gọi là “một kinh thông, tất cả kinh đều thông”, từ trên một bộ
kinh nầy mà được định, khai huệ, đây mới gọi là thông đạt, sau đó anh xem những
kinh điển khác, khi xem sẽ thông đạt cả. Trước khi chưa thông đạt kinh Vô Lượng
Thọ, xem những kinh điển khác chưa thể thông đạt, chỉ có thể nói là ta xem
nhiều bao nhiêu quyển kinh điển mà thôi, chẳng được lợi ích nhiều.
Đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, có thể hiểu
được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, chỉ đọc tụng, chẳng nên nghiên cứu, vì khi
nghiên cứu, tâm sẽ lộn xộn.
được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, chỉ đọc tụng, chẳng nên nghiên cứu, vì khi
nghiên cứu, tâm sẽ lộn xộn.
Nếu đọc tụng kinh điển, thì chẳng ngại
thỉnh một bộ “Tịnh độ tam bảo”: “Tịnh độ bảo điển” – (tức Tịnh độ ngũ kinh),
“Tịnh độ Thánh Hiền”, “Tịnh độ văn sao” để đọc tụng, làm tăng thêm tín tâm và
sự thấy nghe.
thỉnh một bộ “Tịnh độ tam bảo”: “Tịnh độ bảo điển” – (tức Tịnh độ ngũ kinh),
“Tịnh độ Thánh Hiền”, “Tịnh độ văn sao” để đọc tụng, làm tăng thêm tín tâm và
sự thấy nghe.
KẾT LUẬN
(Lời cung kính của TÁC GIẢ)
Mọi người! Có tiền cũng được, không tiền cũng được! Cần
sống vui vui vẻ vẻ, tự tại thong dong, tâm cảnh vui vẻ, tiếp nhận tất cả, thì ở
nơi địa ngục cũng như thiên đường!
sống vui vui vẻ vẻ, tự tại thong dong, tâm cảnh vui vẻ, tiếp nhận tất cả, thì ở
nơi địa ngục cũng như thiên đường!
Chư Phật là người tu thành, Chư Phật
thành Phật đã rất là lâu, mà chúng ta còn trong luân hồi sinh tử ở thế giới khổ
đau nầy, chẳng cảm thấy hổ thẹn sao? Đó là chúng ta mê luyến thế giới khổ nầy,
chẳng biết tu hành, hoặc phương pháp tu hành không đúng, hoặc tu hành bất lực,
cho nên đến nay còn ở trong luân hồi sinh tử thế giới khổ nầy, nay có may mắn
được nghe pháp Phật, nếu lại chẳng biết tu hành, thì đành phải ở trong luân hồi
sinh tử thế giới khổ nầy. Nên biết rằng lần hồi “da già tóc hạt”, nhìn thấy
bước chân lẩm cẩm, thì dẫu cho vàng bạc đầy nhà, lại còn phong quang hiển hách,
cũng khó tránh khỏi suy già bệnh tật, dẫu anh có ngàn điều vui vẻ, vô thường
rốt cuộc cũng tới, một khi mất thân người, khổ ơi là khổ!
thành Phật đã rất là lâu, mà chúng ta còn trong luân hồi sinh tử ở thế giới khổ
đau nầy, chẳng cảm thấy hổ thẹn sao? Đó là chúng ta mê luyến thế giới khổ nầy,
chẳng biết tu hành, hoặc phương pháp tu hành không đúng, hoặc tu hành bất lực,
cho nên đến nay còn ở trong luân hồi sinh tử thế giới khổ nầy, nay có may mắn
được nghe pháp Phật, nếu lại chẳng biết tu hành, thì đành phải ở trong luân hồi
sinh tử thế giới khổ nầy. Nên biết rằng lần hồi “da già tóc hạt”, nhìn thấy
bước chân lẩm cẩm, thì dẫu cho vàng bạc đầy nhà, lại còn phong quang hiển hách,
cũng khó tránh khỏi suy già bệnh tật, dẫu anh có ngàn điều vui vẻ, vô thường
rốt cuộc cũng tới, một khi mất thân người, khổ ơi là khổ!
Học Phật tu hành trước hết cần phải làm
cho rõ ràng, tin Phật là tin Phật, học Phật tu hành là học Phật tu hành. Tin
Phật, là hưởng “hồng phúc” (Trọng vọng nơi cuộc sống vật chất, cái vui năm
dục), lúc mệnh chung sinh lên cõi Trời hoặc trở lại sinh vào nhà giàu có. Học
Phật tu hành, là hưởng “thanh phúc” (quí trọng cuộc sống tinh thần), lúc mệnh
chung ra khỏi ba cõi, vãng sanh về thế giới Cực Lạc – thành Phật, lìa khổ được
vui – chơn lạc. Cầu sinh thế giới Cực Lạc mà muốn hưởng được hồng phúc, như
thế! Vãng sanh thế giới Cực Lạc sẽ không có được chỗ chắc chắn! Vì sao? Vì
“tâm” của anh, chỉ dừng lại ở nơi việc đời, trên dục lạc, mà chẳng phải là để
nơi việc học Phật tu hành.
cho rõ ràng, tin Phật là tin Phật, học Phật tu hành là học Phật tu hành. Tin
Phật, là hưởng “hồng phúc” (Trọng vọng nơi cuộc sống vật chất, cái vui năm
dục), lúc mệnh chung sinh lên cõi Trời hoặc trở lại sinh vào nhà giàu có. Học
Phật tu hành, là hưởng “thanh phúc” (quí trọng cuộc sống tinh thần), lúc mệnh
chung ra khỏi ba cõi, vãng sanh về thế giới Cực Lạc – thành Phật, lìa khổ được
vui – chơn lạc. Cầu sinh thế giới Cực Lạc mà muốn hưởng được hồng phúc, như
thế! Vãng sanh thế giới Cực Lạc sẽ không có được chỗ chắc chắn! Vì sao? Vì
“tâm” của anh, chỉ dừng lại ở nơi việc đời, trên dục lạc, mà chẳng phải là để
nơi việc học Phật tu hành.
Nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc,
thì chẳng nên nói là quá bận rộn, không có thời gian để niệm Phật, chẳng niệm
Phật nhiều, trong tâm không có Phật; lúc mệnh chung, bệnh khổ nung nấu, nghiệp
trước chiêu cảm, thần chí hôn mê, tà niệm hiện tiền, điên điên đảo đảo, anh làm
sao có thể khởi tưởng niệm Phật? Có thể tĩnh được tâm để niệm Phật? Có thể chí
thành chuyên nhất niệm Phật? Có người trợ niệm cho anh cũng uổng vậy! Vì anh
chẳng biết trước lúc mệnh chung đến, nên khi có người trợ niệm thì chẳng qua
đời, mà lúc không người trợ niệm thì đã qua đời rồi! Vì sao? Vì anh chẳng được
“chánh niệm” hiện tiền, mà là “tà niệm” hiện tiền vậy.
thì chẳng nên nói là quá bận rộn, không có thời gian để niệm Phật, chẳng niệm
Phật nhiều, trong tâm không có Phật; lúc mệnh chung, bệnh khổ nung nấu, nghiệp
trước chiêu cảm, thần chí hôn mê, tà niệm hiện tiền, điên điên đảo đảo, anh làm
sao có thể khởi tưởng niệm Phật? Có thể tĩnh được tâm để niệm Phật? Có thể chí
thành chuyên nhất niệm Phật? Có người trợ niệm cho anh cũng uổng vậy! Vì anh
chẳng biết trước lúc mệnh chung đến, nên khi có người trợ niệm thì chẳng qua
đời, mà lúc không người trợ niệm thì đã qua đời rồi! Vì sao? Vì anh chẳng được
“chánh niệm” hiện tiền, mà là “tà niệm” hiện tiền vậy.
Học Phật tu hành – Trì danh niệm Phật –
vãng sanh Cực Lạc, cần phải làm cho được việc nắm chắc, không nên làm mà không
nắm chắc, nếu không nắm chắc thì chẳng bằng như việc tin Phật để được an tâm.
vãng sanh Cực Lạc, cần phải làm cho được việc nắm chắc, không nên làm mà không
nắm chắc, nếu không nắm chắc thì chẳng bằng như việc tin Phật để được an tâm.
Học Phật tu hành, nếu dùng trạng thái
của tâm tin Phật để tu, thì chỉ có thể trồng lấy cái chân thiện, được phước báo
trời người; còn việc vãng sanh Cực Lạc thì nên xô dẹp những cái kia đi!
của tâm tin Phật để tu, thì chỉ có thể trồng lấy cái chân thiện, được phước báo
trời người; còn việc vãng sanh Cực Lạc thì nên xô dẹp những cái kia đi!
Học Phật tu hành, nương theo lời dạy
của Phật như Pháp tin thọ phụng hành, có chánh tri kiến chánh xác, nhân sinh
quan chánh hạnh, chẳng mất đi ý nghĩa của lời dạy, chẳng phạm đường cấm, thiểu
dục tri túc, có chỗ gởi gắm trên tinh thần là TIN PHẬT! Có mục tiêu (hy vọng)
là THÀNH PHẬT! Tự nhiên tâm tình thư thả thoải mái, hài hoà, vui vẻ, cuộc sống
được tự tại hơn, sung sướng tinh thần hơn, lúc mệnh chung vãng sanh về thế giới
Cực Lạc.
của Phật như Pháp tin thọ phụng hành, có chánh tri kiến chánh xác, nhân sinh
quan chánh hạnh, chẳng mất đi ý nghĩa của lời dạy, chẳng phạm đường cấm, thiểu
dục tri túc, có chỗ gởi gắm trên tinh thần là TIN PHẬT! Có mục tiêu (hy vọng)
là THÀNH PHẬT! Tự nhiên tâm tình thư thả thoải mái, hài hoà, vui vẻ, cuộc sống
được tự tại hơn, sung sướng tinh thần hơn, lúc mệnh chung vãng sanh về thế giới
Cực Lạc.
Đã rõ ràng được là vì sao cần phải học
Phật? Vì sao cần tu hành? Học Phật trì danh niệm Phật tu hành có chỗ tốt đẹp
gì? Như vậy thì sẽ tu hành được và tu tốt.
Phật? Vì sao cần tu hành? Học Phật trì danh niệm Phật tu hành có chỗ tốt đẹp
gì? Như vậy thì sẽ tu hành được và tu tốt.
Học Phật tu hành ban đầu cần phát tâm
bồ đề, tin sâu (rõ ràng) lý nhân quả, hiểu rõ “thiện có báo thiện, ác có báo
ác”, mới chẳng dám làm các việc ác, chỉ có làm thiện nhiều hơn. Biết rõ thế nào
là ác? Vì sao không nên làm ác! Việc ác tâm không nên tưởng, thân không nên
làm, miệng không nên nói, tức là “Chư ác mạc tác”. Biết rõ thế nào là thiện?
Giữ tâm thiện, làm việc thiện, nói lời thiện, làm người thiện, tức là “Chúng
thiện phụng hành”. Biết rõ thế nào là tự tâm thanh tịnh? Vì sao cần tâm thanh
tịnh! Không vọng tưởng tạp niệm, không phiền não, chẳng chấp trước, việc quá
khứ không truy tìm, việc hiện tại chẳng vịn duyên, việc tương lai chẳng nghĩ
tính, tình đời thì nhìn được rõ, việc đời thì buông bỏ muôn duyên. Biết thế nào
đáng làm, thế nào chẳng nên làm, rõ rõ ràng ràng tức là “tự tịnh kỳ ý”.
bồ đề, tin sâu (rõ ràng) lý nhân quả, hiểu rõ “thiện có báo thiện, ác có báo
ác”, mới chẳng dám làm các việc ác, chỉ có làm thiện nhiều hơn. Biết rõ thế nào
là ác? Vì sao không nên làm ác! Việc ác tâm không nên tưởng, thân không nên
làm, miệng không nên nói, tức là “Chư ác mạc tác”. Biết rõ thế nào là thiện?
Giữ tâm thiện, làm việc thiện, nói lời thiện, làm người thiện, tức là “Chúng
thiện phụng hành”. Biết rõ thế nào là tự tâm thanh tịnh? Vì sao cần tâm thanh
tịnh! Không vọng tưởng tạp niệm, không phiền não, chẳng chấp trước, việc quá
khứ không truy tìm, việc hiện tại chẳng vịn duyên, việc tương lai chẳng nghĩ
tính, tình đời thì nhìn được rõ, việc đời thì buông bỏ muôn duyên. Biết thế nào
đáng làm, thế nào chẳng nên làm, rõ rõ ràng ràng tức là “tự tịnh kỳ ý”.
Một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, chắc
thật chí thành khẩn thiết nhất tâm mà chuyên niệm, niệm nhiều, nuôi thành thói
quen niệm Phật, niệm cho được thành thục (trong tâm có Phật), có thể được nhất
tâm bất loạn càng tốt, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, lúc mạng chung mới có
thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, chánh niệm hiện tiền, tâm chẳng
điên đảo, mà niệm Phật vãng sanh.
thật chí thành khẩn thiết nhất tâm mà chuyên niệm, niệm nhiều, nuôi thành thói
quen niệm Phật, niệm cho được thành thục (trong tâm có Phật), có thể được nhất
tâm bất loạn càng tốt, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, lúc mạng chung mới có
thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, chánh niệm hiện tiền, tâm chẳng
điên đảo, mà niệm Phật vãng sanh.
Trì danh niệm Phật chẳng phải là được
hay không được “nhất tâm bất loạn” mới có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc; mà
chủ yếu là anh “trong tâm có Phật”, lúc mạng chung thần trí trong sáng, tưởng
khởi được câu niệm Phật, biết niệm Phật, biết đến được nơi nào, chánh niệm hiện
tiền, tâm chẳng điên đảo, tức có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc; chỉ sợ anh
trong tâm không có Phật! Lúc mệnh chung thần chí hôn mê, chẳng tưởng được câu
niệm Phật, chẳng biết niệm Phật, tà niệm hiện tiền, điên điên đảo đảo, như thế
mới không thể vãng sanh được thế giới Cực Lạc.
hay không được “nhất tâm bất loạn” mới có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc; mà
chủ yếu là anh “trong tâm có Phật”, lúc mạng chung thần trí trong sáng, tưởng
khởi được câu niệm Phật, biết niệm Phật, biết đến được nơi nào, chánh niệm hiện
tiền, tâm chẳng điên đảo, tức có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc; chỉ sợ anh
trong tâm không có Phật! Lúc mệnh chung thần chí hôn mê, chẳng tưởng được câu
niệm Phật, chẳng biết niệm Phật, tà niệm hiện tiền, điên điên đảo đảo, như thế
mới không thể vãng sanh được thế giới Cực Lạc.
Trì niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
làm “chánh hạnh”, là tu huệ. Chẳng làm các việc ác, vưng làm các việc lành, tự
tịnh ở nơi ý là “trợ hạnh”, là tu phước. Học Phật tu hành thì cần phải tu cả
hai là Phước và Huệ; nếu chỉ tu huệ mà không tu phước, hoặc chỉ tu phước mà
không tu huệ, là không vãng sanh được về thế giới Cực Lạc, nên cần phải tu cả
hai là phước và huệ mới có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Phước và Huệ như
hai chiếc cánh đều nhau của con chim, thiếu một thì không bay lên được. Chỉ có
niềm tin, dù là tin Phật hoặc tin ngoại đạo đi nữa, cũng chỉ có thể sinh cõi
trời hoặc thành tiên, thành thần, mà ra chẳng khỏi ba cõi, hưởng hết phước rồi,
trở lại thọ khổ.
làm “chánh hạnh”, là tu huệ. Chẳng làm các việc ác, vưng làm các việc lành, tự
tịnh ở nơi ý là “trợ hạnh”, là tu phước. Học Phật tu hành thì cần phải tu cả
hai là Phước và Huệ; nếu chỉ tu huệ mà không tu phước, hoặc chỉ tu phước mà
không tu huệ, là không vãng sanh được về thế giới Cực Lạc, nên cần phải tu cả
hai là phước và huệ mới có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Phước và Huệ như
hai chiếc cánh đều nhau của con chim, thiếu một thì không bay lên được. Chỉ có
niềm tin, dù là tin Phật hoặc tin ngoại đạo đi nữa, cũng chỉ có thể sinh cõi
trời hoặc thành tiên, thành thần, mà ra chẳng khỏi ba cõi, hưởng hết phước rồi,
trở lại thọ khổ.
Trì danh niệm Phật cần đầy đủ
TÍN-NGUYỆN-HÀNH, thiếu một chẳng được. Cần có lòng tin chân chánh. Nguyện chân
chánh vãng sanh thế giới Cực Lạc, nếu còn tham luyến thế giới nầy, nói là cuộc
sống hiện tại tốt, thì nguyện đó sẽ không thật thiết tha. Ra sức hành trì chí
thành khẩn thiết, tinh tấn không lười mỏi, chỉ lo cày cấy, chẳng lo thu hoạch,
không gấp gáp cầu lợi, chẳng vọng cầu cảm ứng hoặc quả báo, công phu đến lúc
chín mùi cảm ứng tự nhiên hiện hữu; công phu chưa tới lúc, cầu cũng chẳng thể
được, người lại nhiều thêm một việc chướng ở nơi tâm. Lúc mệnh chung biết trước
giờ chết tức là cảm ứng.
TÍN-NGUYỆN-HÀNH, thiếu một chẳng được. Cần có lòng tin chân chánh. Nguyện chân
chánh vãng sanh thế giới Cực Lạc, nếu còn tham luyến thế giới nầy, nói là cuộc
sống hiện tại tốt, thì nguyện đó sẽ không thật thiết tha. Ra sức hành trì chí
thành khẩn thiết, tinh tấn không lười mỏi, chỉ lo cày cấy, chẳng lo thu hoạch,
không gấp gáp cầu lợi, chẳng vọng cầu cảm ứng hoặc quả báo, công phu đến lúc
chín mùi cảm ứng tự nhiên hiện hữu; công phu chưa tới lúc, cầu cũng chẳng thể
được, người lại nhiều thêm một việc chướng ở nơi tâm. Lúc mệnh chung biết trước
giờ chết tức là cảm ứng.
Trì danh niệm Phật mà lúc lâm chung
được nhất niệm là quan trọng nhất. Nhất niệm mà chánh niệm thì vãng sanh Cực
Lạc, nhất niệm mà tà niệm, thì rơi vào luân hồi. Chúng ta chỉ một câu danh hiệu
Phật, sớm niệm tối niệm, đi niệm ngồi niệm, cho đến trọn ngày trọn năm niệm
niệm chẳng dứt, không lúc nào chẳng nung nấu nhất niệm đến tận cùng mà thôi. Do
nhất niệm nầy, chỗ quan hệ rất là sâu nặng, nó dắt hồn dẫn phách, tạo mạng sinh
thân, chẳng có việc gì chẳng là do đây, niệm thiện thì lên thiên đàng, niệm ác
thì xuống địa ngục, niệm ma lại thành ma, niệm Phật bèn thành Phật. Nếu chẳng
phải là lúc bình thường niệm chuyên niệm nhiều, huân tập nhuần nhuyễn, nuôi
thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật, thì đến lúc lâm chung sớm quên
mất chánh niệm niệm Phật, bèn theo các niệm thiện ác thói quen chín mùi của
nhiều đời mà đi, luân hồi trong sáu đường, đều là một niệm nầy làm chủ, chỉ một
niệm nầy, lại không niệm nào khác, nếu một niệm chuyên chú ở Phật, thì thân tuy
tử vong mà thần thức chẳng phân tán, tức theo một niệm vãng sanh Cực Lạc vậy.
được nhất niệm là quan trọng nhất. Nhất niệm mà chánh niệm thì vãng sanh Cực
Lạc, nhất niệm mà tà niệm, thì rơi vào luân hồi. Chúng ta chỉ một câu danh hiệu
Phật, sớm niệm tối niệm, đi niệm ngồi niệm, cho đến trọn ngày trọn năm niệm
niệm chẳng dứt, không lúc nào chẳng nung nấu nhất niệm đến tận cùng mà thôi. Do
nhất niệm nầy, chỗ quan hệ rất là sâu nặng, nó dắt hồn dẫn phách, tạo mạng sinh
thân, chẳng có việc gì chẳng là do đây, niệm thiện thì lên thiên đàng, niệm ác
thì xuống địa ngục, niệm ma lại thành ma, niệm Phật bèn thành Phật. Nếu chẳng
phải là lúc bình thường niệm chuyên niệm nhiều, huân tập nhuần nhuyễn, nuôi
thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật, thì đến lúc lâm chung sớm quên
mất chánh niệm niệm Phật, bèn theo các niệm thiện ác thói quen chín mùi của
nhiều đời mà đi, luân hồi trong sáu đường, đều là một niệm nầy làm chủ, chỉ một
niệm nầy, lại không niệm nào khác, nếu một niệm chuyên chú ở Phật, thì thân tuy
tử vong mà thần thức chẳng phân tán, tức theo một niệm vãng sanh Cực Lạc vậy.
Trì danh niệm Phật cần dùng tâm cảm ơn,
cảm tạ, vui tươi, tâm cam tình nguyện để tu hành, càng tu càng mạnh mẽ, thì
hành trì mới có thể tâm tình nhẹ nhàng thoải mái, tự tại, vui tươi; mới chẳng
vì hoàn cảnh bất lợi gặp gỡ, hoặc ma oán nghiệp xưa, lúc ép ngặt, mà vừa nghĩ
lại vừa oán giận, tâm chẳng cam, tình chẳng nguyện, lui mất tâm đạo. Nếu dùng
tâm nôn nóng cầu lợi để tu thì giữa đường gãy gánh, dùng tâm nửa tin nửa nghi
để tu thì không thể dùng được. Hoàn toàn nhìn vào trạng thái tâm tình của anh
như thế nào để mà tu.
cảm tạ, vui tươi, tâm cam tình nguyện để tu hành, càng tu càng mạnh mẽ, thì
hành trì mới có thể tâm tình nhẹ nhàng thoải mái, tự tại, vui tươi; mới chẳng
vì hoàn cảnh bất lợi gặp gỡ, hoặc ma oán nghiệp xưa, lúc ép ngặt, mà vừa nghĩ
lại vừa oán giận, tâm chẳng cam, tình chẳng nguyện, lui mất tâm đạo. Nếu dùng
tâm nôn nóng cầu lợi để tu thì giữa đường gãy gánh, dùng tâm nửa tin nửa nghi
để tu thì không thể dùng được. Hoàn toàn nhìn vào trạng thái tâm tình của anh
như thế nào để mà tu.
Một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, chỉ một
niệm cho thuần thục (trong tâm có Phật), thành Phật hãy còn dư sức! Chẳng học
pháp khác, lại có gì tiếc.
niệm cho thuần thục (trong tâm có Phật), thành Phật hãy còn dư sức! Chẳng học
pháp khác, lại có gì tiếc.
Trì danh niệm Phật nếu tín tâm chẳng
đủ, lại còn muốn học những pháp môn khác, hứng thú đối với việc đời còn rất
nồng nàn, dẫu trải qua ngàn đời vạn kiếp cũng chỉ là sanh tử luân hồi thế nầy
thôi.
đủ, lại còn muốn học những pháp môn khác, hứng thú đối với việc đời còn rất
nồng nàn, dẫu trải qua ngàn đời vạn kiếp cũng chỉ là sanh tử luân hồi thế nầy
thôi.
Việc ác một chút xíu cũng đều chẳng nên
làm, việc thiện thì nên làm nhiều hơn, tâm chẳng nghĩ tưởng lung tung, chỉ có
niệm chánh, làm chánh, ý niệm và việc làm không tà vạy; như ăn cơm thì ăn cơm,
ăn xong thì thôi, làm việc thì làm việc, làm xong thì thôi, không trở lại nghĩ
tưởng nó, không đình trệ ở trên ý niệm, chẳng dừng ở trên quan niệm, như chim
bay qua bầu trời không để lại dấu vết.
làm, việc thiện thì nên làm nhiều hơn, tâm chẳng nghĩ tưởng lung tung, chỉ có
niệm chánh, làm chánh, ý niệm và việc làm không tà vạy; như ăn cơm thì ăn cơm,
ăn xong thì thôi, làm việc thì làm việc, làm xong thì thôi, không trở lại nghĩ
tưởng nó, không đình trệ ở trên ý niệm, chẳng dừng ở trên quan niệm, như chim
bay qua bầu trời không để lại dấu vết.
Có tiền cũng được, không tiền cũng
được, nhìn, nghe, gặp được việc tốt cũng được, việc xấu cũng được, đều không
quan tâm so tính, tức là nhìn rõ. Giàu có, sự nghiệp, vợ con… có chúng cũng
bằng với không có chúng, chẳng mong nghĩ, không để trong tâm, tức là buông rời.
Nhìn rõ, buông rời tức là tu hành rồi vậy.
được, nhìn, nghe, gặp được việc tốt cũng được, việc xấu cũng được, đều không
quan tâm so tính, tức là nhìn rõ. Giàu có, sự nghiệp, vợ con… có chúng cũng
bằng với không có chúng, chẳng mong nghĩ, không để trong tâm, tức là buông rời.
Nhìn rõ, buông rời tức là tu hành rồi vậy.
Cuộc sống qua được thì tốt, nếu hằng
ngày cứ mãi bận rộn vì việc đời: Công tác, kết hôn, sinh con, nuôi gia đình,
mua xe, mua nhà, kiếm nhiều tiền, nhiều tiền rồi thì tiếp đến sinh ra nhiều
việc đời bận rộn! Chỉ trọng nơi tiền bạc, vui năm dục hưởng thụ của cảm giác,
gát câu niệm Phật sang bên một cách thoải mái, trong tâm không có Phật, lúc
mạng chung ngay cả một cái chết nhẹ nhàng cũng chẳng được, trở lại oán giận
rằng niệm Phật không linh nghiệm, trách ai vậy!? Cần phải bận rộn vì vấn đề học
Phật tu hành, dùng ánh mắt đạm bạc mà xem tình đời, dùng tâm “tri túc” để lấy
và bỏ muôn vật, chẳng bị trói buộc bởi vật bên ngoài, tâm địa tự mình bình ổn.
Tốt, xấu, được, mất chẳng so tính; khổ, vui, vinh, nhục chẳng để tâm, chịu đựng
sự cô độc vắng lặng, kiên nhẫn sự nóng lạnh gió mưa, thọ nhận cuộc sống bình
thường lạc lẽo. Nếu học Phật tu hành mà quan niệm có chút ít còn hơn không, lề
mề cẩu thả, là lầm đắm một đời, thế thì không biết đời nào kiếp nào mới lại có
thể được nghe Phật Pháp!
ngày cứ mãi bận rộn vì việc đời: Công tác, kết hôn, sinh con, nuôi gia đình,
mua xe, mua nhà, kiếm nhiều tiền, nhiều tiền rồi thì tiếp đến sinh ra nhiều
việc đời bận rộn! Chỉ trọng nơi tiền bạc, vui năm dục hưởng thụ của cảm giác,
gát câu niệm Phật sang bên một cách thoải mái, trong tâm không có Phật, lúc
mạng chung ngay cả một cái chết nhẹ nhàng cũng chẳng được, trở lại oán giận
rằng niệm Phật không linh nghiệm, trách ai vậy!? Cần phải bận rộn vì vấn đề học
Phật tu hành, dùng ánh mắt đạm bạc mà xem tình đời, dùng tâm “tri túc” để lấy
và bỏ muôn vật, chẳng bị trói buộc bởi vật bên ngoài, tâm địa tự mình bình ổn.
Tốt, xấu, được, mất chẳng so tính; khổ, vui, vinh, nhục chẳng để tâm, chịu đựng
sự cô độc vắng lặng, kiên nhẫn sự nóng lạnh gió mưa, thọ nhận cuộc sống bình
thường lạc lẽo. Nếu học Phật tu hành mà quan niệm có chút ít còn hơn không, lề
mề cẩu thả, là lầm đắm một đời, thế thì không biết đời nào kiếp nào mới lại có
thể được nghe Phật Pháp!
Chư vị bạn lành! Nay có may mắn được
nghe Phật Pháp, lại biết phương pháp trì danh niệm Phật vãng sanh thế giới Cực
Lạc tu hành hữu hiệu (chắc chắn), nếu còn bận rộn vì vấn đề truy cầu phú quý
vinh hoa! Tham lam mưu đồ vui năm dục, thì nên biết rằng lần hồi tóc trắng da
nhăn, trông thấy bước đi lẩm cẩm, dẫu như vàng ngọc đầy nhà, lại còn gia thế
hiển hách, cũng khó tránh khỏi già, bệnh tàn suy, mặc cho ngàn điều khoái lạc,
vô thường cuối cùng cũng đến, một khi mất thân người, khổ ơi là khổ! Xem thử
người xưa có mấy ai thể đến lúc chết an lành! Đành phải luân hồi trong sáu
đường đời đời kiếp kiếp, trọn không có thời kỳ ra khỏi.
nghe Phật Pháp, lại biết phương pháp trì danh niệm Phật vãng sanh thế giới Cực
Lạc tu hành hữu hiệu (chắc chắn), nếu còn bận rộn vì vấn đề truy cầu phú quý
vinh hoa! Tham lam mưu đồ vui năm dục, thì nên biết rằng lần hồi tóc trắng da
nhăn, trông thấy bước đi lẩm cẩm, dẫu như vàng ngọc đầy nhà, lại còn gia thế
hiển hách, cũng khó tránh khỏi già, bệnh tàn suy, mặc cho ngàn điều khoái lạc,
vô thường cuối cùng cũng đến, một khi mất thân người, khổ ơi là khổ! Xem thử
người xưa có mấy ai thể đến lúc chết an lành! Đành phải luân hồi trong sáu
đường đời đời kiếp kiếp, trọn không có thời kỳ ra khỏi.
Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghỉ – năm cái rễ của luân hồi, người đời tham yêu, người tu hành cần xả
bỏ, nhìn nó càng lạc lẽo càng tốt, nếu buông không rời, còn dính mắc tham yêu,
đành phải luân hồi trong sáu đường đời đời kiếp kiếp!.
ngủ nghỉ – năm cái rễ của luân hồi, người đời tham yêu, người tu hành cần xả
bỏ, nhìn nó càng lạc lẽo càng tốt, nếu buông không rời, còn dính mắc tham yêu,
đành phải luân hồi trong sáu đường đời đời kiếp kiếp!.
Gìn giữ một câu danh hiệu NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT thì chẳng được xen lộn những cái khác (như các pháp môn: tham thiền,
học mật…). Muốn học thêm nhiều một chút (các pháp khác) để vãng sanh Cực lạc
mới có sự đảm bảo; thế là anh đã sai lầm lớn, đặc biệt sai lầm rồi, tức là anh
không có niệm tin chắc chắn đối với Phật A Di Đà, nên chẳng thể tín thọ.
ĐÀ PHẬT thì chẳng được xen lộn những cái khác (như các pháp môn: tham thiền,
học mật…). Muốn học thêm nhiều một chút (các pháp khác) để vãng sanh Cực lạc
mới có sự đảm bảo; thế là anh đã sai lầm lớn, đặc biệt sai lầm rồi, tức là anh
không có niệm tin chắc chắn đối với Phật A Di Đà, nên chẳng thể tín thọ.
Tu hành là công phu từng chút một, sửa
soạn tốt cho tự mình trong cuộc sống bình thường, chẳng nhờ mượn ở bên ngoài,
tất cả đều nương nơi sự tinh tấn của mình, nương lời dạy như pháp mà tin thọ
phụng hành, thì vãng sanh thế giới Cực Lạc mới có được sự chắc chắn.
soạn tốt cho tự mình trong cuộc sống bình thường, chẳng nhờ mượn ở bên ngoài,
tất cả đều nương nơi sự tinh tấn của mình, nương lời dạy như pháp mà tin thọ
phụng hành, thì vãng sanh thế giới Cực Lạc mới có được sự chắc chắn.
Tu hành, chẳng tu thì thôi, nếu tu thì
cần phải tu cho tốt, cho chuyên nhất, chí thành, khẩn thiết, tu cho chắc thật.
Nếu lơ là biếng nhác, phô bày, nôn nóng, tâm tùy tiện ở việc mà tu, như thế
không phải là phô bày Phật, mà là phô bày chính anh, chẳng thể vãng sanh thế
giới Cực Lạc, không thể không biết.
cần phải tu cho tốt, cho chuyên nhất, chí thành, khẩn thiết, tu cho chắc thật.
Nếu lơ là biếng nhác, phô bày, nôn nóng, tâm tùy tiện ở việc mà tu, như thế
không phải là phô bày Phật, mà là phô bày chính anh, chẳng thể vãng sanh thế
giới Cực Lạc, không thể không biết.
Vãng sanh thế giới Cực Lạc không có bí
quyết sao? Xin thưa là: Có. Tức là hai chữ: THÀNH KÍNH. Thành là chân thành,
không có một mảy may hư giả. Kính là cung kính, cung kính là tác dụng khởi lên
của sự chân thành, nội tâm chân thành biểu hiện ra bên ngoài tức là cung kính.
quyết sao? Xin thưa là: Có. Tức là hai chữ: THÀNH KÍNH. Thành là chân thành,
không có một mảy may hư giả. Kính là cung kính, cung kính là tác dụng khởi lên
của sự chân thành, nội tâm chân thành biểu hiện ra bên ngoài tức là cung kính.
Phép tu hành không ra ngoài bốn chữ:
CHUYÊN, CẦN, NĂNG, HÀNH. Chuyên là tinh nhất chẳng hai, ngoài ra không có một
việc nào. Cần, là tinh tấn không lười biếng, không luống bỏ một thời gian nào.
Năng, là phát tâm, chịu làm, làm một cách cam tâm tình nguyện, chỉ lo ra sức,
không nghĩ thu hoạch, không gấp gáp cầu lợi. Hành, là chí thành khẩn thiết, ra
sức mà làm.
CHUYÊN, CẦN, NĂNG, HÀNH. Chuyên là tinh nhất chẳng hai, ngoài ra không có một
việc nào. Cần, là tinh tấn không lười biếng, không luống bỏ một thời gian nào.
Năng, là phát tâm, chịu làm, làm một cách cam tâm tình nguyện, chỉ lo ra sức,
không nghĩ thu hoạch, không gấp gáp cầu lợi. Hành, là chí thành khẩn thiết, ra
sức mà làm.
Học Phật tu hành có khó chăng? Hãy xem
cách nghĩ, cách nhìn của anh như thế nào? Anh chân tâm tu hành thì không khó;
anh dùng tâm tin Phật để tu, như thế là khó đấy.
cách nghĩ, cách nhìn của anh như thế nào? Anh chân tâm tu hành thì không khó;
anh dùng tâm tin Phật để tu, như thế là khó đấy.
Cổ đức nói rằng: “Học Phật không
khó, mà khó ở sự phát tâm; phát tâm chẳng khó, mà khó ở sự dõng mãnh; dõng mãnh
không khó, mà khó ở sự duy trì lâu”. Lại nói rằng: “Không luận làm bất cứ công
việc gì, lúc ban đầu chưa có gì thì chẳng chịu ra sức siêng năng, cho đến lâu
ngày, tình thế dời đổi, sinh tâm mệt mỏi, hoặc được chút ít lấy làm đủ, hoặc sợ
khó mà dính nơi yên ổn, việc đời như thế, học Phật cũng vậy”.
khó, mà khó ở sự phát tâm; phát tâm chẳng khó, mà khó ở sự dõng mãnh; dõng mãnh
không khó, mà khó ở sự duy trì lâu”. Lại nói rằng: “Không luận làm bất cứ công
việc gì, lúc ban đầu chưa có gì thì chẳng chịu ra sức siêng năng, cho đến lâu
ngày, tình thế dời đổi, sinh tâm mệt mỏi, hoặc được chút ít lấy làm đủ, hoặc sợ
khó mà dính nơi yên ổn, việc đời như thế, học Phật cũng vậy”.
Niệm Phật tu hành, nó liên hệ với cuộc
sống ngày thường, tu huệ tu phước, anh đã dụng công được bao nhiêu, Đức Phật A
Di Đà đều thấy biết hết, Ngài có thể quyết định đến hay không để tiếp dẫn anh!
Anh chẳng cần ôm giữ tâm gặp may.
sống ngày thường, tu huệ tu phước, anh đã dụng công được bao nhiêu, Đức Phật A
Di Đà đều thấy biết hết, Ngài có thể quyết định đến hay không để tiếp dẫn anh!
Anh chẳng cần ôm giữ tâm gặp may.
Vì cầu kế sống, trong cuộc sống không
cách nào buông rời muôn duyên, đây là hiện tượng chẳng chơn của tâm niệm Phật.
Công việc đầu tiên của tôn giáo còn phải hiểu biết tỉnh táo ở nơi tự ngã, cần
phải khiến cho tâm linh của mình từ sự thị phi, so đo, được mất và trong tham –
sân – si phải được tỉnh giác, dùng một câu hiệu Phật thường buộc ở tâm đầu, tâm
linh sẽ dễ dàng tỉnh giác; đạo lý nầy rất là đơn giản, vì tâm linh của con
người lý do là mê hoặc chẳng hiểu biết, tức là vì vọng niệm đã quá nhiều, ngày
ngày nghĩ tưởng lung tung, tâm chẳng tịnh được, hiện tại chúng ta niệm Phật
bằng tâm vọng niệm, không thể lý giải được những ân oán kia; nên bên ngoài giữ
giới Phật, trong thì trì hiệu Phật, lấy “nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm kế tục”,
trước tịnh (hay yên tĩnh) cái tâm lại, thì có thể tìm được tự ngã chân chánh
(chân tâm niệm Phật).
cách nào buông rời muôn duyên, đây là hiện tượng chẳng chơn của tâm niệm Phật.
Công việc đầu tiên của tôn giáo còn phải hiểu biết tỉnh táo ở nơi tự ngã, cần
phải khiến cho tâm linh của mình từ sự thị phi, so đo, được mất và trong tham –
sân – si phải được tỉnh giác, dùng một câu hiệu Phật thường buộc ở tâm đầu, tâm
linh sẽ dễ dàng tỉnh giác; đạo lý nầy rất là đơn giản, vì tâm linh của con
người lý do là mê hoặc chẳng hiểu biết, tức là vì vọng niệm đã quá nhiều, ngày
ngày nghĩ tưởng lung tung, tâm chẳng tịnh được, hiện tại chúng ta niệm Phật
bằng tâm vọng niệm, không thể lý giải được những ân oán kia; nên bên ngoài giữ
giới Phật, trong thì trì hiệu Phật, lấy “nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm kế tục”,
trước tịnh (hay yên tĩnh) cái tâm lại, thì có thể tìm được tự ngã chân chánh
(chân tâm niệm Phật).
Niệm Phật tu hành mà chân tâm thành ý,
thì dẫu có cảm ứng cũng được, không cảm ứng cũng được, chỉ cần đầy đủ: Tín,
nguyện, hành; tuỳ duyên qua ngày, chỉ lo ra sức không nghĩ thu hoạch, sống được
yên ổn tốt đẹp, tự tại, vui vẻ, lúc mệnh chung dự biết được giờ chết, thần chí
trong sáng, chánh niệm hiện tiền, tâm chẳng điên đảo, đang ngồi hoặc đang đứng
mà vãng sanh, tức là có cảm ứng rồi. Chỉ e rằng tín – nguyện – hành của anh
không đầy đủ, ôm lấy duyên qua ngày tháng, lúc mệnh chung chẳng biết thời gian
đến lúc nào, đau khổ vô cùng, thần chí hôn mê, tà niệm hiện tiền, tâm sinh điên
đảo, Đức Phật A Di Đà thì không thể đến tiếp dẫn anh được.
thì dẫu có cảm ứng cũng được, không cảm ứng cũng được, chỉ cần đầy đủ: Tín,
nguyện, hành; tuỳ duyên qua ngày, chỉ lo ra sức không nghĩ thu hoạch, sống được
yên ổn tốt đẹp, tự tại, vui vẻ, lúc mệnh chung dự biết được giờ chết, thần chí
trong sáng, chánh niệm hiện tiền, tâm chẳng điên đảo, đang ngồi hoặc đang đứng
mà vãng sanh, tức là có cảm ứng rồi. Chỉ e rằng tín – nguyện – hành của anh
không đầy đủ, ôm lấy duyên qua ngày tháng, lúc mệnh chung chẳng biết thời gian
đến lúc nào, đau khổ vô cùng, thần chí hôn mê, tà niệm hiện tiền, tâm sinh điên
đảo, Đức Phật A Di Đà thì không thể đến tiếp dẫn anh được.
Trì danh niệm Phật thì chẳng phân nam
nữ già trẻ, giàu có hay nghèo khó, kẻ trí người ngu, mọi người đều có thể tu,
nhà nông hay buôn bán, từ người dạy học cho đến công nhân, viên chức, mỗi việc
làm mỗi nghề nghiệp, đều chẳng làm cho lỡ đi công việc tu trì.
nữ già trẻ, giàu có hay nghèo khó, kẻ trí người ngu, mọi người đều có thể tu,
nhà nông hay buôn bán, từ người dạy học cho đến công nhân, viên chức, mỗi việc
làm mỗi nghề nghiệp, đều chẳng làm cho lỡ đi công việc tu trì.
Niệm Phật tu hành, càng ngày nhẹ nhàng
càng tốt, thói quen tâm bệnh dễ sửa đổi, công phu niệm Phật càng sâu, đơn thân
hoặc không tính toán việc nhà, ngân hàng thì có chút đỉnh tồn khoảng, ăn mặc
chẳng rầu lo, tốt nhất là chuyên tu cho được niệm Phật tam muội (chánh định),
trở lại độ chúng sinh, có được trí tuệ thì mới có thể nói động được người đời
tâm phục khẩu phục, học Phật tu hành phải khởi tu ra sức hành trì.
càng tốt, thói quen tâm bệnh dễ sửa đổi, công phu niệm Phật càng sâu, đơn thân
hoặc không tính toán việc nhà, ngân hàng thì có chút đỉnh tồn khoảng, ăn mặc
chẳng rầu lo, tốt nhất là chuyên tu cho được niệm Phật tam muội (chánh định),
trở lại độ chúng sinh, có được trí tuệ thì mới có thể nói động được người đời
tâm phục khẩu phục, học Phật tu hành phải khởi tu ra sức hành trì.
Trước lúc chưa được trí tuệ(khai ngộ)
chẳng cần biểu hiện thành thạo quá, “đại trí như ngu”, giảm được rất nhiều
phiền não.
chẳng cần biểu hiện thành thạo quá, “đại trí như ngu”, giảm được rất nhiều
phiền não.
Việc tu hành thì người người đều có thể
tu, việc niệm Phật thì người người đều có thể niệm, vãng sanh thế giới Cực Lạc,
phẩm vị cao thấp chẳng đồng, tư chất thiên phú, sự sâu cạn của thiện căn, cố
nhiên là có sự liên quan, chỉ cần mỗi người dụng tâm thể hội và chỗ cạn sâu của
công phu bỏ ra, bèn quyết định sự cao thấp của phẩm vị; cũng vậy người niệm
Phật tu hành vãng sanh thế giới Cực Lạc, chín phẩm hoa sen, vì sao chẳng muốn
thượng phẩm ư? Người thượng phẩm thượng sanh, đến thế giới Cực Lạc, thấy Phật
nghe Pháp; người trung phẩm trung sanh, trải qua nửa tiểu kiếp mới được quả vị
A La Hán; người hạ phẩm hạ sanh, ở trong hoa sen mãn mười hai kiếp, hoa sen mới
nở.
tu, việc niệm Phật thì người người đều có thể niệm, vãng sanh thế giới Cực Lạc,
phẩm vị cao thấp chẳng đồng, tư chất thiên phú, sự sâu cạn của thiện căn, cố
nhiên là có sự liên quan, chỉ cần mỗi người dụng tâm thể hội và chỗ cạn sâu của
công phu bỏ ra, bèn quyết định sự cao thấp của phẩm vị; cũng vậy người niệm
Phật tu hành vãng sanh thế giới Cực Lạc, chín phẩm hoa sen, vì sao chẳng muốn
thượng phẩm ư? Người thượng phẩm thượng sanh, đến thế giới Cực Lạc, thấy Phật
nghe Pháp; người trung phẩm trung sanh, trải qua nửa tiểu kiếp mới được quả vị
A La Hán; người hạ phẩm hạ sanh, ở trong hoa sen mãn mười hai kiếp, hoa sen mới
nở.
Nếu chơn tâm niệm Phật tu hành, thì nên
đọc kỹ sách này; nếu đọc qua rồi mà không đọc lại, thời gian bao nhiêu thì quên
mất, thói quen tâm bệnh lại hiện ra, Phật – cũng chẳng niệm nhiều, như thế việc
vãng sanh thế giới Cực Lạc sẽ dẹp bỏ thôi.
đọc kỹ sách này; nếu đọc qua rồi mà không đọc lại, thời gian bao nhiêu thì quên
mất, thói quen tâm bệnh lại hiện ra, Phật – cũng chẳng niệm nhiều, như thế việc
vãng sanh thế giới Cực Lạc sẽ dẹp bỏ thôi.
– Chỗ nói trong sách này không phải là
lý luận Phật học, mà là học Phật tu hành, phương pháp pháp môn trì danh niệm
Phật. Anh nếu ở trên vấn đề niệm Phật tu hành, tìm lấy một thiện tri thức lớn,
thì chẳng thấy đâu có được lợi ích nhiều bằng quyển sách này, lại cũng khó tìm
cho được một quyển sách đơn giản dễ dàng như quyển này. Sách đã được nhiều ích
lợi, nguyện hành giả có thể đọc kỹ quyển này, chí thành cung kính, nổ lực tu
hành chắc thật, tinh tấn không lười mỏi, việc vãng sanh thế giới Cực Lạc tức có
cơ sở chắc chắn rồi!
lý luận Phật học, mà là học Phật tu hành, phương pháp pháp môn trì danh niệm
Phật. Anh nếu ở trên vấn đề niệm Phật tu hành, tìm lấy một thiện tri thức lớn,
thì chẳng thấy đâu có được lợi ích nhiều bằng quyển sách này, lại cũng khó tìm
cho được một quyển sách đơn giản dễ dàng như quyển này. Sách đã được nhiều ích
lợi, nguyện hành giả có thể đọc kỹ quyển này, chí thành cung kính, nổ lực tu
hành chắc thật, tinh tấn không lười mỏi, việc vãng sanh thế giới Cực Lạc tức có
cơ sở chắc chắn rồi!
– Phật tử là chúng tại gia hạ căn, Phật
Pháp là từ kinh sách Phật xoay chuyển tập trung chép ra, chỗ sai lầm không đúng
sẽ khó mà tránh khỏi, xin thỉnh chư Phật, Bồ Tát, cao tăng, đại đức thấy và
lượng thứ cho!
Pháp là từ kinh sách Phật xoay chuyển tập trung chép ra, chỗ sai lầm không đúng
sẽ khó mà tránh khỏi, xin thỉnh chư Phật, Bồ Tát, cao tăng, đại đức thấy và
lượng thứ cho!
– Xưng niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT vãng
sanh thế giới Cực Lạc.
sanh thế giới Cực Lạc.
– Xưng niệm NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
tiêu tai nạn, được phước báo.
tiêu tai nạn, được phước báo.