9. NĂM GIỚI
Năm giới là giới điều rất cơ bản của
bốn chúng đệ tử Phật. Không luận là xuất gia hay tại gia đều phải tuân thủ.
Người tu hành “ năm giới không giữ, dứt đường nhân thiên”.
bốn chúng đệ tử Phật. Không luận là xuất gia hay tại gia đều phải tuân thủ.
Người tu hành “ năm giới không giữ, dứt đường nhân thiên”.
Năm giới, mười thiện nghiệp là tiêu
chuẩn đạo đức nhân loại, mỗi điều giới luật đều là “chẳng làm các ác” biện
chứng thống nhất “vưng làm các thiện”. Đạo đức Phật giáo là một đường lối rất
chú trọng động niệm và hiệu quả, bất luận người khác nói như thế nào và làm như
thế nào đều là một lối. Ngược lại, như riêng tư, tự lợi, tạp niệm nảy sinh, thì
bất luận người khác nói nhiều, đẩy đưa nhún nhường động tiếng thế nào cũng đều
là giả, đây là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Phật giáo cân lường.
chuẩn đạo đức nhân loại, mỗi điều giới luật đều là “chẳng làm các ác” biện
chứng thống nhất “vưng làm các thiện”. Đạo đức Phật giáo là một đường lối rất
chú trọng động niệm và hiệu quả, bất luận người khác nói như thế nào và làm như
thế nào đều là một lối. Ngược lại, như riêng tư, tự lợi, tạp niệm nảy sinh, thì
bất luận người khác nói nhiều, đẩy đưa nhún nhường động tiếng thế nào cũng đều
là giả, đây là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Phật giáo cân lường.
Năm giới, mười thiện nghiệp của Phật
giáo là cùng với luân lý xã hội và pháp luật Quốc gia gần giống nhau, cho nên
vấn đề lý tánh nhân từ thuần khiết, là tập trung tinh hoa đạo đức xã hội loài
người, mọi người có thể làm được năm giới, mười thiện nghiệp của Phật giáo cũng
có thể đạt đến tư tưởng đẹp, hành vi hay, thế nầy quan hệ người và người cũng
sẽ hoà mục và an khang. Đạo đức Phật giáo, chủ yếu là vưng làm năm giới, mười
thiện nghiệp, khiến cho hoàn thành một con người tốt lương thiện.
giáo là cùng với luân lý xã hội và pháp luật Quốc gia gần giống nhau, cho nên
vấn đề lý tánh nhân từ thuần khiết, là tập trung tinh hoa đạo đức xã hội loài
người, mọi người có thể làm được năm giới, mười thiện nghiệp của Phật giáo cũng
có thể đạt đến tư tưởng đẹp, hành vi hay, thế nầy quan hệ người và người cũng
sẽ hoà mục và an khang. Đạo đức Phật giáo, chủ yếu là vưng làm năm giới, mười
thiện nghiệp, khiến cho hoàn thành một con người tốt lương thiện.
Năm giới là: không sát sinh – trộm cắp
– không tà dâm – không nói vọng – không uống rượu.
– không tà dâm – không nói vọng – không uống rượu.
KHÔNG SÁT SINH
Luận Đại trí Độ nói: “Trong các tội nghiệp, sát nặng
nhất; trong các công đức, không sát thứ nhất”. Động vật bay lên trời, bơi
trong nước, có bản năng sinh tồn của nó, có tự do sinh tồn của nó; Con người
tại sao tự tàn sát nhau? Hoặc vì miệng thèm giết nó để ăn, tạo thành “oan oan
tương báo” thời gian không thể không kết.
nhất; trong các công đức, không sát thứ nhất”. Động vật bay lên trời, bơi
trong nước, có bản năng sinh tồn của nó, có tự do sinh tồn của nó; Con người
tại sao tự tàn sát nhau? Hoặc vì miệng thèm giết nó để ăn, tạo thành “oan oan
tương báo” thời gian không thể không kết.
“Không tranh giành” thì chẳng thể sát
sinh, lấy tâm bình đẳng mà đối đãi với chúng sinh thì chẳnh thể tranh giành;
nếu khởi lên cái niệm ta mạnh hơn người, ta làm hơn người, ta lớn hơn người thì
sát sinh cũng là nhân ở nơi tâm tranh chấp mà tác quái, một khi tranh chấp thì
sẽ mày chết tao sống… chết và bị thương vô số.
sinh, lấy tâm bình đẳng mà đối đãi với chúng sinh thì chẳnh thể tranh giành;
nếu khởi lên cái niệm ta mạnh hơn người, ta làm hơn người, ta lớn hơn người thì
sát sinh cũng là nhân ở nơi tâm tranh chấp mà tác quái, một khi tranh chấp thì
sẽ mày chết tao sống… chết và bị thương vô số.
KHÔNG TRỘM CẮP
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy
rằng: “A Nan! lại nữa thế
giới, sáu đường chúng sinh, tâm không trộm cắp, thì không nuôi lớn sự tương tục
sinh tử. Ông tu Tam Muội vốn ra khỏi trần lao, tâm trộm nếu không trừ thì trần
lao không thể ra. Dù có đa trí và thiền định trong hiện tiền nếu như không dứt
trộm cắp, thì quyết phải rơi vào tà đạo”.
rằng: “A Nan! lại nữa thế
giới, sáu đường chúng sinh, tâm không trộm cắp, thì không nuôi lớn sự tương tục
sinh tử. Ông tu Tam Muội vốn ra khỏi trần lao, tâm trộm nếu không trừ thì trần
lao không thể ra. Dù có đa trí và thiền định trong hiện tiền nếu như không dứt
trộm cắp, thì quyết phải rơi vào tà đạo”.
Của không cho chẳng lấy, là nói chẳng
chuyên chỉ trộm cắp tài vật của người khác, tức là ở nơi tâm hành sự có loại
giống như trộm cắp ấy, cũng gọi là trộm cắp: như lời nói và việc làm dối trá
khác là: Phỉnh dụ mê hoặc người không biết, mong lấy lợi dưỡng, tổn người lợi
mình, cậy thế lấy tiền của, dùng kế mưu của v.v…
chuyên chỉ trộm cắp tài vật của người khác, tức là ở nơi tâm hành sự có loại
giống như trộm cắp ấy, cũng gọi là trộm cắp: như lời nói và việc làm dối trá
khác là: Phỉnh dụ mê hoặc người không biết, mong lấy lợi dưỡng, tổn người lợi
mình, cậy thế lấy tiền của, dùng kế mưu của v.v…
“Không tham” thì không thể trộm cắp, vì
sao phải trộm cắp tiền của người khác? Tức là do vì tham. Nếu người không có
tâm tham, thì kể ra người ta cho anh, anh cũng không cần, cho nên cần phải đem
tâm tham mà trừ bỏ mới không thể trộm cắp.
sao phải trộm cắp tiền của người khác? Tức là do vì tham. Nếu người không có
tâm tham, thì kể ra người ta cho anh, anh cũng không cần, cho nên cần phải đem
tâm tham mà trừ bỏ mới không thể trộm cắp.
KHÔNG TÀ DÂM
Đức Phật chế cho hàng đệ tử tại gia,
nếu không phải là vợ chồng hợp pháp thì tuyệt đối nam nữ không thể hành dâm –
chẳng dâm, là chẳng riêng chỉ hành dâm mà nói, lại còn bao quát niệm dâm khởi
lên trong tâm, lời dâm ở nơi miệng nói. Vì dâm là cội rễ của vạn vật sinh tử.
Người học Phật tu hành thì cần phải đoạn dứt dâm! dâm không đoạn thì Phật đạo
không thành!
nếu không phải là vợ chồng hợp pháp thì tuyệt đối nam nữ không thể hành dâm –
chẳng dâm, là chẳng riêng chỉ hành dâm mà nói, lại còn bao quát niệm dâm khởi
lên trong tâm, lời dâm ở nơi miệng nói. Vì dâm là cội rễ của vạn vật sinh tử.
Người học Phật tu hành thì cần phải đoạn dứt dâm! dâm không đoạn thì Phật đạo
không thành!
“Không cầu” thì chẳng thể có tâm dâm,
tâm dâm dục tức là cầu cái sở hữu, nữ cầu người yêu nam, nam cầu người yêu nữ
đều là cầu khác tính không chỉ rịêng cầu lại còn “truy” cầu; Giả như không cầu
thì dâm thế nào?
tâm dâm dục tức là cầu cái sở hữu, nữ cầu người yêu nam, nam cầu người yêu nữ
đều là cầu khác tính không chỉ rịêng cầu lại còn “truy” cầu; Giả như không cầu
thì dâm thế nào?
Trong kinh Lăng Nghiêm nói “dâm” là
giới đầu; Người tu hành không thể đoạn trừ tâm dâm và việc làm dâm, thì không
cách nào đoạn trừ cội rể sinh tử. Nhân đây không luận người ta tinh tấn tu hành
như thế nào, tuyệt đối không cách nào ra khỏi ba cõi. Dẫu người nầy khéo nói
pháp yếu, có biện tài, hiện tiền thiền định hữu lậu, anh ta vẫn là qua lại với
ma quỷ, không những Tam muội chân thật (định) không thể hiện tiền, ngược lại
lấy trí thiền nuôi giúp tâm dâm khiến dâm tăng trưởng lẫy lừng, rốt rồi khiến
mình rơi vào ma đạo. Kinh nói rằng:
giới đầu; Người tu hành không thể đoạn trừ tâm dâm và việc làm dâm, thì không
cách nào đoạn trừ cội rể sinh tử. Nhân đây không luận người ta tinh tấn tu hành
như thế nào, tuyệt đối không cách nào ra khỏi ba cõi. Dẫu người nầy khéo nói
pháp yếu, có biện tài, hiện tiền thiền định hữu lậu, anh ta vẫn là qua lại với
ma quỷ, không những Tam muội chân thật (định) không thể hiện tiền, ngược lại
lấy trí thiền nuôi giúp tâm dâm khiến dâm tăng trưởng lẫy lừng, rốt rồi khiến
mình rơi vào ma đạo. Kinh nói rằng:
“Cho nên A Nan! nếu không đoạn dâm, tu
hành thiền định, như đem cát đá muốn nấu thành cơm, trải trăm nghìn kiếp, chỉ
là cát nóng. Bởi vì sao vậy? Chẳng phải gốc cơm, mà là cát đá thành vậy. Ông
lấy thân dâm, cầu diệu quả Phật, dù cho được ngộ, đều là rễ dâm, cội rễ thành
dâm luân hồi ba đường quyết chẳng ra khỏi: Như Lai niết bàn, đường nào tu
chứng? Phải khiến thân tâm, cơ dâm đều dứt, tánh dứt cũng không, Bồ đề chư Phật
có thể cầu mong. Lời ta nói đây, gọi là Phật nói, không như đây nói, tức Ba
tuần (Ma vương) nói”.
hành thiền định, như đem cát đá muốn nấu thành cơm, trải trăm nghìn kiếp, chỉ
là cát nóng. Bởi vì sao vậy? Chẳng phải gốc cơm, mà là cát đá thành vậy. Ông
lấy thân dâm, cầu diệu quả Phật, dù cho được ngộ, đều là rễ dâm, cội rễ thành
dâm luân hồi ba đường quyết chẳng ra khỏi: Như Lai niết bàn, đường nào tu
chứng? Phải khiến thân tâm, cơ dâm đều dứt, tánh dứt cũng không, Bồ đề chư Phật
có thể cầu mong. Lời ta nói đây, gọi là Phật nói, không như đây nói, tức Ba
tuần (Ma vương) nói”.
Trên đây là đức Phật đối với người
không như pháp, không như luật mang lấy dâm mà tu hành, vốn mong tu chơn, ngược
lại thành ma nghiệp, sau khi mệnh chung, ắt phải rơi thứ nhứt ma đạo mà Ngài
dạy răn phải sáng suốt xét nét thanh tịnh. Bốn chúng Phật tử muốn cầu thành tựu
đạo nghiệp đối với lời dạy răn của đức Phật, lý phải tin thọ phụng hành, như
vậy mà tu hành.
không như pháp, không như luật mang lấy dâm mà tu hành, vốn mong tu chơn, ngược
lại thành ma nghiệp, sau khi mệnh chung, ắt phải rơi thứ nhứt ma đạo mà Ngài
dạy răn phải sáng suốt xét nét thanh tịnh. Bốn chúng Phật tử muốn cầu thành tựu
đạo nghiệp đối với lời dạy răn của đức Phật, lý phải tin thọ phụng hành, như
vậy mà tu hành.
KHÔNG NÓI VỌNG
Lời nói rỗng vọng là nói mà không có
tin, không xuất phát từ hư vọng vậy. Nếu thấy nói không thấy, không thấy nói
thấy: lấy hư làm thật, lấy thật làm hư: lấy có làm không, lấy không làm có:
Phàm là tâm và miệng không tương ứng nhau, muốn lừa dối với người, đều là như
vậy cả.
tin, không xuất phát từ hư vọng vậy. Nếu thấy nói không thấy, không thấy nói
thấy: lấy hư làm thật, lấy thật làm hư: lấy có làm không, lấy không làm có:
Phàm là tâm và miệng không tương ứng nhau, muốn lừa dối với người, đều là như
vậy cả.
Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói rằng:
“A Nan, như vậy thế giới sáu đường
chúng sanh, tuy thân tâm không có báo của sát – đạo – dâm, ba hành nghiệp đã
mãn, như nếu đại vọng ngữ, tức là “Tam ma đề” không được thanh tịnh, thành thọ
kiến chấp ma, mất đi hạt giống Như Lai”.
chúng sanh, tuy thân tâm không có báo của sát – đạo – dâm, ba hành nghiệp đã
mãn, như nếu đại vọng ngữ, tức là “Tam ma đề” không được thanh tịnh, thành thọ
kiến chấp ma, mất đi hạt giống Như Lai”.
Thế nào gọi là đại vọng ngữ? Là tự mình
chưa đựơc Bồ đề vọng nói tự mình đã được Bồ đề, mình chưa chứng niết bàn vọng
nói đã chứng niết bàn. (chưa được nói là được, chưa chứng nói là chứng), giả
Phật lộn xộn mê hoặc chúng sinh đời sau, hoặc giả được quả vị Bồ tát… đó là
ma ba tuần, là tạo đại vọng ngữ.
chưa đựơc Bồ đề vọng nói tự mình đã được Bồ đề, mình chưa chứng niết bàn vọng
nói đã chứng niết bàn. (chưa được nói là được, chưa chứng nói là chứng), giả
Phật lộn xộn mê hoặc chúng sinh đời sau, hoặc giả được quả vị Bồ tát… đó là
ma ba tuần, là tạo đại vọng ngữ.
“Không tư riêng” thì không thể dấy lên
lời nói vọng. Mọi người nói vọng cũng nhân vì sợ mất đi lợi ích của chính mình,
tâm riêng tư tác quái cho nên nói dối lừa người, muốn khiến người không nhận
biết mình.
lời nói vọng. Mọi người nói vọng cũng nhân vì sợ mất đi lợi ích của chính mình,
tâm riêng tư tác quái cho nên nói dối lừa người, muốn khiến người không nhận
biết mình.
KHÔNG UỐNG RƯỢU
Các loại rượu một ngụm cũng không nên
uống, uống một ngụm thì sẽ có ngụm thứ hai, rồi tiếp ba, bốn… khói cũng không
nên hít, đồ độc cũng không nên ăn dùng.
uống, uống một ngụm thì sẽ có ngụm thứ hai, rồi tiếp ba, bốn… khói cũng không
nên hít, đồ độc cũng không nên ăn dùng.
Uống rượu là một phương thức giao tế
của người hiện đại, nhân uống rượu mà sự việc lầm lạc so ra đều như thế, từ rất
sớm hơn hai nghìn năm trăm năm trước trong kinh điển Phật cũng đã rõ ràng nêu
chỉ chỗ xấu của uống rượu, ngày nay xem ra chỗ nói đó không phải hư rỗng. Uống
rượu xong mà niệm Phật tụng kinh, ngang với không tụng không niệm, không thể
không biết.
của người hiện đại, nhân uống rượu mà sự việc lầm lạc so ra đều như thế, từ rất
sớm hơn hai nghìn năm trăm năm trước trong kinh điển Phật cũng đã rõ ràng nêu
chỉ chỗ xấu của uống rượu, ngày nay xem ra chỗ nói đó không phải hư rỗng. Uống
rượu xong mà niệm Phật tụng kinh, ngang với không tụng không niệm, không thể
không biết.
“Không tư lợi”, thì chẳng thể phạm giới
rượu. Người ta vì sao phải uống rượu? Tức là muốn mê loạn thân tâm mình, làm
cho nó mơ mơ màng màng, làm cho tự mình thành tiên, thành thần, tiêu diêu ở
trên trời. Uống rượu say sẽ chửi người cho rằng là việc muốn làm, lại tăng trưởng
dâm dục, lại muốn dùng rượu để giúp cho huyết khí lưu thông nhanh một chút,
uống rồi quên đi tất cả, như hít vào rồi chẳng phải mạng khác mà một kiểu phiêu
phiêu. Đây đều là tâm tự lợi tác quái, cho nên không uống rượu.
rượu. Người ta vì sao phải uống rượu? Tức là muốn mê loạn thân tâm mình, làm
cho nó mơ mơ màng màng, làm cho tự mình thành tiên, thành thần, tiêu diêu ở
trên trời. Uống rượu say sẽ chửi người cho rằng là việc muốn làm, lại tăng trưởng
dâm dục, lại muốn dùng rượu để giúp cho huyết khí lưu thông nhanh một chút,
uống rồi quên đi tất cả, như hít vào rồi chẳng phải mạng khác mà một kiểu phiêu
phiêu. Đây đều là tâm tự lợi tác quái, cho nên không uống rượu.
Đức Phật nói: “Ba nghiệp thân – miệng – ý làm ác,
chỉ rượu là căn bản”. Uống
rượu say loạn, tâm không chừng mực, dùng phung phí vô độ vậy. Đó là cửa của các
bệnh, gốc của đấu tranh. Cho nên các loại rượu đều không nên uống.
chỉ rượu là căn bản”. Uống
rượu say loạn, tâm không chừng mực, dùng phung phí vô độ vậy. Đó là cửa của các
bệnh, gốc của đấu tranh. Cho nên các loại rượu đều không nên uống.
Đức Phật nói: “Người uống rượu có sáu việc tổn
thất: tài vật dể tổn thất, dễ sinh bệnh, ưa thích đấu tranh, chuốt bày tiếng
xấu, dễ giận dữ táo bạo, càng lúc càng không có trí tuệ”.
thất: tài vật dể tổn thất, dễ sinh bệnh, ưa thích đấu tranh, chuốt bày tiếng
xấu, dễ giận dữ táo bạo, càng lúc càng không có trí tuệ”.
Kinh Ưu Bà Tắc nói rằng: “Nếu lại có người ưa uống rượu,
người đó hiện tại thường mất của, thân tâm nhiều bệnh, thường thích đấu tranh,
tiếng xấu nghe xa, tản mất trí tuệ, bị xấu nhan sắc và sức lực, chỗ làm đáng
trách tất cả, người ta không ưa gặp, không thể tu thiện, đó gọi là báo ác hiện
đời của người uống rượu.”
người đó hiện tại thường mất của, thân tâm nhiều bệnh, thường thích đấu tranh,
tiếng xấu nghe xa, tản mất trí tuệ, bị xấu nhan sắc và sức lực, chỗ làm đáng
trách tất cả, người ta không ưa gặp, không thể tu thiện, đó gọi là báo ác hiện
đời của người uống rượu.”
10. MƯỜI THIỆN NGHIỆP
A. PHẬT NÓI KINH “THẬP THIỆN NGHIỆP”
Tín đồ Phật giáo báo ân hoằng pháp cần
phải từ mười thiện nghiệp bình thường làm lên. Mười thiện là tôn chỉ lớn, hạnh
môn của Phật giáo. Chúng sinh thăng trầm nơi sáu đường, đã thấy sự nhẹ nặng của
thiện ác để mà xét đoán: Thánh hiền trải qua ở tam thừa cũng lấy sự cạn sâu tu
thiện diệt ác làm chổ quyết định. Do đây thấy rằng pháp “mười thiện nghiệp” là
sự cân nhắc thánh phàm cao thấp, kim chỉ nam cho cuộc sống của Phật tử.
phải từ mười thiện nghiệp bình thường làm lên. Mười thiện là tôn chỉ lớn, hạnh
môn của Phật giáo. Chúng sinh thăng trầm nơi sáu đường, đã thấy sự nhẹ nặng của
thiện ác để mà xét đoán: Thánh hiền trải qua ở tam thừa cũng lấy sự cạn sâu tu
thiện diệt ác làm chổ quyết định. Do đây thấy rằng pháp “mười thiện nghiệp” là
sự cân nhắc thánh phàm cao thấp, kim chỉ nam cho cuộc sống của Phật tử.
Đạo mười thiện nghiệp, đã là căn bản
của tất cả thiện pháp, thì bất luận làm người hoặc sinh ở cõi trời, thậm chí
cần quả thánh ba thừa xuất thế, đều phải lấy mười thiện nghiệp làm cơ sở, nhiên
hậu từng bước từng bước tiến lên, thì có thể đạt đến quả Phật tối cao.
của tất cả thiện pháp, thì bất luận làm người hoặc sinh ở cõi trời, thậm chí
cần quả thánh ba thừa xuất thế, đều phải lấy mười thiện nghiệp làm cơ sở, nhiên
hậu từng bước từng bước tiến lên, thì có thể đạt đến quả Phật tối cao.
Gốc làm người ở nơi mười thiện, nguồn
thiện cũng ở nơi mười thiện, và cơ sở của năm thừa cũng ở nơi mười thiện.
thiện cũng ở nơi mười thiện, và cơ sở của năm thừa cũng ở nơi mười thiện.
Chúng ta cần phải làm việc thiện, tốt
nhất có thể hiểu rõ định nghĩa của thiện, như mà đối với chân nghĩa của thiện
không rõ, thì có lúc điểm xuất phát là thiện, nhưng kết quả ngược lại việc làm
ra và thiện trái nhau, thực tại nầy thật là không sửa đổi được.
nhất có thể hiểu rõ định nghĩa của thiện, như mà đối với chân nghĩa của thiện
không rõ, thì có lúc điểm xuất phát là thiện, nhưng kết quả ngược lại việc làm
ra và thiện trái nhau, thực tại nầy thật là không sửa đổi được.
“Thiện” căn cứ sự chỉ bày của Đức Phật
cho chúng ta, định nghĩa đó có thể từ ba phương diện nói ra:
cho chúng ta, định nghĩa đó có thể từ ba phương diện nói ra:
1/ Từ sự động niệm của tâm mà nói:
Sự thuần khiết và không thuần khiết của
hoạt động tâm lý. Hoạt động tâm lý thuần khiết là không có phiền não xen lộn ở
bên trong mà chỉ cùng với thiện tâm: không tham, không sân, không si, tàm và
qúi tương ứng, tức là việc thiện. Ngược lại mà nói, hoạt động tâm lý tạp nhiễm
không thuần khiết, thường cùng với các phiền não: tham, sân, si, mạn, tà kiến,
không tàm, không quí trói buộc nhau, tức là ác; phân biệt thiện – ác, hoàn toàn
là xem sự thanh tịnh hay không thanh tịnh của nội tâm.
hoạt động tâm lý. Hoạt động tâm lý thuần khiết là không có phiền não xen lộn ở
bên trong mà chỉ cùng với thiện tâm: không tham, không sân, không si, tàm và
qúi tương ứng, tức là việc thiện. Ngược lại mà nói, hoạt động tâm lý tạp nhiễm
không thuần khiết, thường cùng với các phiền não: tham, sân, si, mạn, tà kiến,
không tàm, không quí trói buộc nhau, tức là ác; phân biệt thiện – ác, hoàn toàn
là xem sự thanh tịnh hay không thanh tịnh của nội tâm.
2/ Từ sự ảnh hưởng của hành vi mà nói:
Chúng ta biết rằng, giữa người và người
đều có sự tương quan, nhơn sự biểu hiện của bất cứ hành vi nào đều sẽ ảnh hưởng
đến các người khác, từ ảnh hưởng tốt hoặc xấu đó, thì có thể phân biệt thiện
hoặc ác. Cho nên sự thiện ác của hành vi chủ yếu là sự lợi hại của ảnh hưởng xã
hội mà phân biệt.
đều có sự tương quan, nhơn sự biểu hiện của bất cứ hành vi nào đều sẽ ảnh hưởng
đến các người khác, từ ảnh hưởng tốt hoặc xấu đó, thì có thể phân biệt thiện
hoặc ác. Cho nên sự thiện ác của hành vi chủ yếu là sự lợi hại của ảnh hưởng xã
hội mà phân biệt.
3/ Từ sự trước sau của thời gian mà
nói:
nói:
Người đời một số chỉ coi trọng hiện
thực, nắm lấy hiện thực, nhưng Phật pháp giảng rằng: Không những có thời gian
hiện tại mà còn có thời gian vị lai, làm người không thể nhìn ngắn ngủi chỉ có
hiện tại thôi. Nên còn phải nghĩ đến vị lai, như một khi nghĩ đến vị lai, thì
hành vi hoạt động của hiện tại cũng không dám tùy tiện. Hành vi hoạt động của
chúng ta là chẳng những đối với hiện tại, mà vị lai cũng đều có lợi ích. Như
vậy tức là thiện. Giả sử cho rằng chỉ đối với hiện tại có chỗ tốt đẹp, nhưng
đem phương pháp không chính đáng cầu được sự đầy đủ trên cuộc sống hiện tại, mà
đối với sinh mạng sống mới của vị lai không những không có chổ tốt đẹp mà ngược
lại cảm đến sự đau khổ rất lớn, tức là ác.
thực, nắm lấy hiện thực, nhưng Phật pháp giảng rằng: Không những có thời gian
hiện tại mà còn có thời gian vị lai, làm người không thể nhìn ngắn ngủi chỉ có
hiện tại thôi. Nên còn phải nghĩ đến vị lai, như một khi nghĩ đến vị lai, thì
hành vi hoạt động của hiện tại cũng không dám tùy tiện. Hành vi hoạt động của
chúng ta là chẳng những đối với hiện tại, mà vị lai cũng đều có lợi ích. Như
vậy tức là thiện. Giả sử cho rằng chỉ đối với hiện tại có chỗ tốt đẹp, nhưng
đem phương pháp không chính đáng cầu được sự đầy đủ trên cuộc sống hiện tại, mà
đối với sinh mạng sống mới của vị lai không những không có chổ tốt đẹp mà ngược
lại cảm đến sự đau khổ rất lớn, tức là ác.
Nghiệp tức là hành vi, tức là ước nói
động tác của thân tâm, song mỗi một động tác của hành vi thân tâm sau khi qua
đi, không phải qua đi thì nói xong, ắc còn có sự lưu giữ lại năng lực; Phật
pháp nói là “nghiệp lực”. Cho nên chữ “nghiệp” nầy, ở trong Phật pháp là ước
giảng hai phương diện: một là ước nói ở ngay nơi hoạt động, hai là ước nói sau
khi hoạt động chỗ lưu lại lực dụng. Nghiệp dụng lúc động làm, trở thành quá khứ
rất mau; nghiệp lực giữ lại, trải qua trăm nghìn kiếp đều không mất. Đưa ra ví
dụ để nói, như tôi đánh anh một cái, hoặc chửi anh một câu; hoặc đánh hoặc chửi
đều là một món nghiệp dụng, đem năng lực đánh chửi này lưu giữ lại, lại là
nghiệp lực. Nghiệp lực cũng giống như chủng tử (hột giống) mà người ta nói,
chủng tử trước lúc chưa bại hoại, không luận đến lúc nào, chỉ cần có trợ duyên
(đất, nước…), tự nhiên sẽ phát sinh ra mầm; “nghiệp” của chúng ta thu chứa ở
trong đó, gặp được nhân duyên nào đó, tất nhiên cũng sẽ cảm thọ riêng một mạng
sống mới.
động tác của thân tâm, song mỗi một động tác của hành vi thân tâm sau khi qua
đi, không phải qua đi thì nói xong, ắc còn có sự lưu giữ lại năng lực; Phật
pháp nói là “nghiệp lực”. Cho nên chữ “nghiệp” nầy, ở trong Phật pháp là ước
giảng hai phương diện: một là ước nói ở ngay nơi hoạt động, hai là ước nói sau
khi hoạt động chỗ lưu lại lực dụng. Nghiệp dụng lúc động làm, trở thành quá khứ
rất mau; nghiệp lực giữ lại, trải qua trăm nghìn kiếp đều không mất. Đưa ra ví
dụ để nói, như tôi đánh anh một cái, hoặc chửi anh một câu; hoặc đánh hoặc chửi
đều là một món nghiệp dụng, đem năng lực đánh chửi này lưu giữ lại, lại là
nghiệp lực. Nghiệp lực cũng giống như chủng tử (hột giống) mà người ta nói,
chủng tử trước lúc chưa bại hoại, không luận đến lúc nào, chỉ cần có trợ duyên
(đất, nước…), tự nhiên sẽ phát sinh ra mầm; “nghiệp” của chúng ta thu chứa ở
trong đó, gặp được nhân duyên nào đó, tất nhiên cũng sẽ cảm thọ riêng một mạng
sống mới.
Do đây, chúng ta đối với hành vi sở hữu
của mình, đều phải tự mình gánh vác trách nhiệm, không phải bởi vì làm rồi thì
tính rồi, nếu anh tự cho là xong rồi, nghiệp lực có thể không chịu tha thứ cho
anh, đến lúc tương đương, nhất định sẽ tính sổ với anh, quyết không thể dễ dàng
buông tha.
của mình, đều phải tự mình gánh vác trách nhiệm, không phải bởi vì làm rồi thì
tính rồi, nếu anh tự cho là xong rồi, nghiệp lực có thể không chịu tha thứ cho
anh, đến lúc tương đương, nhất định sẽ tính sổ với anh, quyết không thể dễ dàng
buông tha.
Nghiệp, không phải là túc mạng luận,
tuy nhiên đối với hiện tại có chỗ ảnh hưởng, ngược lại không thể chi phối.
Nghiệp, cũng giống là hạt giống (chủng tử), một ngày kia phát mầm thành thục,
thì ắt phải kết quả. Đạo lý của nghiệp rất đơn giản, tức là “phép tắc nhân quả”
mà thôi.
tuy nhiên đối với hiện tại có chỗ ảnh hưởng, ngược lại không thể chi phối.
Nghiệp, cũng giống là hạt giống (chủng tử), một ngày kia phát mầm thành thục,
thì ắt phải kết quả. Đạo lý của nghiệp rất đơn giản, tức là “phép tắc nhân quả”
mà thôi.
Cung kính ghi chép (trích) từ trong
“Kinh Phật nói đạo mười thiện nghiệp”:
“Kinh Phật nói đạo mười thiện nghiệp”:
“Pháp này tức là đạo mười thiện
nghiệp. Thế nào là mười? Nghĩa là có thể trọn xa lìa: sát sinh, trộm cắp, tà
hạnh, nói vọng, hai lưỡi, miệng ác, lời nói chiều uốn, tham dục, sân nhuế, tà
kiến (ngu si).”
nghiệp. Thế nào là mười? Nghĩa là có thể trọn xa lìa: sát sinh, trộm cắp, tà
hạnh, nói vọng, hai lưỡi, miệng ác, lời nói chiều uốn, tham dục, sân nhuế, tà
kiến (ngu si).”
Từ sát sinh đến tà kiến, thông thường
gọi là mười ác, hoặc con đường mười ác nghiệp. Nay đây trên mỗi ác nghiệp, lại
thêm hai chữ vĩnh ly (vĩnh viễn rời xa), tức là vĩnh ly sát sinh… đến tà
kiến, đó tức thành là mười thiện. Cho nên trong đoạn kinh văn này, chúng ta cần
phải biết hai chữ rất trọng yếu đó là “vĩnh ly”. Đương nhiên, vĩnh ly kiểu này
là bậc thánh mới có thể làm được, không phải chúng ta một hạng phàm phu có thể
làm được. Tuy là như vậy, chỉ cần chầm chậm học, thường thường tu, từ nay không
làm việc sát sinh… cho đến tà kiến, tóm lại có làm thì có một ngày “vĩnh ly”.
gọi là mười ác, hoặc con đường mười ác nghiệp. Nay đây trên mỗi ác nghiệp, lại
thêm hai chữ vĩnh ly (vĩnh viễn rời xa), tức là vĩnh ly sát sinh… đến tà
kiến, đó tức thành là mười thiện. Cho nên trong đoạn kinh văn này, chúng ta cần
phải biết hai chữ rất trọng yếu đó là “vĩnh ly”. Đương nhiên, vĩnh ly kiểu này
là bậc thánh mới có thể làm được, không phải chúng ta một hạng phàm phu có thể
làm được. Tuy là như vậy, chỉ cần chầm chậm học, thường thường tu, từ nay không
làm việc sát sinh… cho đến tà kiến, tóm lại có làm thì có một ngày “vĩnh ly”.
B. THẬP THIỆN NGHIỆP
Không sát sinh
– Không trộm cắp
Không tà dâm.
Không nói vọng
_ Không nói hai chiều
Không nói ác
Không nói thêu dệt
– Không tham dục
Không sân nhuế
Không tà kiến (ngu si)
Thế nào gọi là sát sinh? Cắt đứt mạng
sống là sát, có tình gọi là sinh; dứt đi sinh mạng của loài hữu tình gọi là sát
sinh. Phàm là động vật có sinh mạng: bay trên không trung, chạy trên đất, bơi
trong nước, bất luận là lớn hay nhỏ, trên từ chúng ta, dưới từ côn trùng nhỏ
nhít, đều không thể có ý sát hại, hoặc khiến sảy thai, tự sát, cũng là sát
sinh. Bất luận là dùng phương pháp công cụ nào, dù trực hay gián tiếp đến nỗi
khiến cho sinh mạng của loài hữu tình tử vong gọi là sát sinh.
sống là sát, có tình gọi là sinh; dứt đi sinh mạng của loài hữu tình gọi là sát
sinh. Phàm là động vật có sinh mạng: bay trên không trung, chạy trên đất, bơi
trong nước, bất luận là lớn hay nhỏ, trên từ chúng ta, dưới từ côn trùng nhỏ
nhít, đều không thể có ý sát hại, hoặc khiến sảy thai, tự sát, cũng là sát
sinh. Bất luận là dùng phương pháp công cụ nào, dù trực hay gián tiếp đến nỗi
khiến cho sinh mạng của loài hữu tình tử vong gọi là sát sinh.
Thế nào là trộm cắp? Của vật công cộng,
của vật riêng người, không luận là nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, không được xâm
chiếm, chưa trải qua sự đồng ý của họ, không cho mà tự lấy, gọi là trộm cắp.
Vấn đề trộm cắp trên xã hội, có khi trực tiếp, có lúc gián tiếp, có hình thức
hoặc không hình thức. Thí như ăn trộm, ăn cắp, cướp giật là trực tiếp; tham ô
nhận hối lộ, chiếm dụng của công, riêng nuốt tiền của của người khác là gián
tiếp; trói buộc dối gạt lấy, mạo phạm nhờ đỡ công việc là có hình thức; giả
công giúp tư, “nuớc đục thả câu” là không hình thức. Tóm lại, không cho mà tự
lấy, hoặc dùng thủ đoạn không chánh đáng mà đoạt lấy tiền bạc của cải, đều là
trộm cắp.
của vật riêng người, không luận là nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, không được xâm
chiếm, chưa trải qua sự đồng ý của họ, không cho mà tự lấy, gọi là trộm cắp.
Vấn đề trộm cắp trên xã hội, có khi trực tiếp, có lúc gián tiếp, có hình thức
hoặc không hình thức. Thí như ăn trộm, ăn cắp, cướp giật là trực tiếp; tham ô
nhận hối lộ, chiếm dụng của công, riêng nuốt tiền của của người khác là gián
tiếp; trói buộc dối gạt lấy, mạo phạm nhờ đỡ công việc là có hình thức; giả
công giúp tư, “nuớc đục thả câu” là không hình thức. Tóm lại, không cho mà tự
lấy, hoặc dùng thủ đoạn không chánh đáng mà đoạt lấy tiền bạc của cải, đều là
trộm cắp.
Thế nào là tà dâm? Tình nhiễm phóng
đãng, giao cấu ô uế gọi là “hạnh bất tịnh”. Ngoài vợ chồng chính thức ra, có
bất kỳ hành vi dâm uế nào, làm loạn quan hệ nam nữ, phạm hạnh bất tịnh, thì gọi
là tà dâm. Đồng tính cẩu thả giao hợp, tự an ủi cũng thuộc về tà dâm, niệm dâm
trong lòng khởi lên, miệng nói lời dâm cũng là tà dâm.
đãng, giao cấu ô uế gọi là “hạnh bất tịnh”. Ngoài vợ chồng chính thức ra, có
bất kỳ hành vi dâm uế nào, làm loạn quan hệ nam nữ, phạm hạnh bất tịnh, thì gọi
là tà dâm. Đồng tính cẩu thả giao hợp, tự an ủi cũng thuộc về tà dâm, niệm dâm
trong lòng khởi lên, miệng nói lời dâm cũng là tà dâm.
Người tu hành có nam có nữ, thì cần
phải đoạn dâm, sự liên tưởng đều không nên nghĩ đến, vợ chồng chia phòng mà
ngủ. Tu hành như vậy không dứt được dâm, thì phẩm vị vãng sanh cực lạc cũng
không thể cao được.
phải đoạn dâm, sự liên tưởng đều không nên nghĩ đến, vợ chồng chia phòng mà
ngủ. Tu hành như vậy không dứt được dâm, thì phẩm vị vãng sanh cực lạc cũng
không thể cao được.
Không dâm dục, là người tu hành có niệm
đầu không dâm dục, như có mảy mún niệm tưởng dâm dục, thì không thể vượt khỏi
ba cõi, mà vẫn ở trong luân hồi chịu lấy sinh tử. Ý niệm dâm dục này, tức là
cội rễ của sinh tử. Nếu có thể đoạn được nó, bèn ra khỏi ba cõi mới có thể
chứng quả thành Phật.
đầu không dâm dục, như có mảy mún niệm tưởng dâm dục, thì không thể vượt khỏi
ba cõi, mà vẫn ở trong luân hồi chịu lấy sinh tử. Ý niệm dâm dục này, tức là
cội rễ của sinh tử. Nếu có thể đoạn được nó, bèn ra khỏi ba cõi mới có thể
chứng quả thành Phật.
Một bệnh sắc dục cũng đã nêu lên bệnh
chung của người đời. Chẳng riêng gì người trung căn, hạ căn bị sắc mê hoặc, mà
người thượng căn nếu không tự giữ gìn chiến đấu, thiếu cẩn thận ở niệm, thì khó
khỏi bị sự mê hoặc. Thử xem từ xưa đến nay bao nhiêu hào kiệt vượt trội, cố
gắng làm thánh hiền, chỉ do phá không được cửa này, trở lại làm kẻ hạ ngu thấp
hèn, lại còn vĩnh viễn rơi vào đường ác, bởi vì khó thắng số. Người tu hành vốn
là ra khỏi sinh tử, nếu không gắng trừ bệnh này, thì cửa sinh tử khó ra khỏi.
Tức là pháp môn niệm Phật, tuy mang nghiệp vãng sanh, nhưng nếu tật dâm kết
chặt thì là cách xa với Phật, khó ở việc “cảm ứng đạo giao” vậy. Phải cố gắng
trừ sạch tập khí ác nghiệp, mới có thể có phần tự do.
chung của người đời. Chẳng riêng gì người trung căn, hạ căn bị sắc mê hoặc, mà
người thượng căn nếu không tự giữ gìn chiến đấu, thiếu cẩn thận ở niệm, thì khó
khỏi bị sự mê hoặc. Thử xem từ xưa đến nay bao nhiêu hào kiệt vượt trội, cố
gắng làm thánh hiền, chỉ do phá không được cửa này, trở lại làm kẻ hạ ngu thấp
hèn, lại còn vĩnh viễn rơi vào đường ác, bởi vì khó thắng số. Người tu hành vốn
là ra khỏi sinh tử, nếu không gắng trừ bệnh này, thì cửa sinh tử khó ra khỏi.
Tức là pháp môn niệm Phật, tuy mang nghiệp vãng sanh, nhưng nếu tật dâm kết
chặt thì là cách xa với Phật, khó ở việc “cảm ứng đạo giao” vậy. Phải cố gắng
trừ sạch tập khí ác nghiệp, mới có thể có phần tự do.
Người tu hành không nên có tư tưởng
tình ái, càng không thể có hành vi tình ái, đối với bất kỳ người nào không nên
sinh ra tâm tình ái; có tình ái thì rễ khổ không dứt, có tình ái thì sinh tử
không thể mất. Có người nói “Con người là động vật có tình cảm, cho nên có tính
dùng sắc chất”. Bởi do thế này nên cần tu hành.
tình ái, càng không thể có hành vi tình ái, đối với bất kỳ người nào không nên
sinh ra tâm tình ái; có tình ái thì rễ khổ không dứt, có tình ái thì sinh tử
không thể mất. Có người nói “Con người là động vật có tình cảm, cho nên có tính
dùng sắc chất”. Bởi do thế này nên cần tu hành.
Giả như anh có thể buông bỏ một cách
triệt để tất cả sắc dục, như thế thì một cái xong tất cả đều xong. Anh hùng hảo
hán trong thiên hạ cho đến kẻ tu hành, không biết bao nhiêu đều bị cửa sắc đẹp
làm mê. Những vấn đề trên thế gian và phiền não cũng gốc là ở đây.
triệt để tất cả sắc dục, như thế thì một cái xong tất cả đều xong. Anh hùng hảo
hán trong thiên hạ cho đến kẻ tu hành, không biết bao nhiêu đều bị cửa sắc đẹp
làm mê. Những vấn đề trên thế gian và phiền não cũng gốc là ở đây.
Đối với việc sắc tình, chưa thấy thì
không nên nghĩ, thấy thì không nên tưởng, đã thấy thì không được loạn. Nếu xem,
nghe, nghĩ, tưởng, tâm niệm khởi lên, tánh hiền xung động, vượt qua nghĩ tưởng
và xung động, thì lửa dục đốt thân, muốn không phạm giới cũng không thể được.
Cho nên chưa thấy thì không nên nghĩ, thấy rồi, nghe rồi thì không nên tưởng,
càng không được có động tác, nếu tâm niệm khởi lên tức liền quở trách, thì
không muốn vào chỗ si quấy. Nếu sinh lý xung động, thì nghĩ tưởng lúc tức giận
hiện tướng hung ác, lúc bệnh hoạn hiện tướng suy bại, lúc chết hiện tướng khó
nhìn, từng việc quán sát chắc chắn. Như thế chỉ cần cấu uế đờm tửa, lông tóc
răng móng, xương thịt máu mủ, mọi thứ gớm nhờm giống như tử thi, dơ như nhà xí;
ai đối với vật này mà sinh tham ái? Tham ái đã dứt, niệm dục tiêu mất, tâm địa
thanh tịnh; không nên nghĩ tới sắc đẹp của nó, chỉ nghĩ đến chỗ xấu xa của nó,
như vậy tánh dục không thể xung động được.
không nên nghĩ, thấy thì không nên tưởng, đã thấy thì không được loạn. Nếu xem,
nghe, nghĩ, tưởng, tâm niệm khởi lên, tánh hiền xung động, vượt qua nghĩ tưởng
và xung động, thì lửa dục đốt thân, muốn không phạm giới cũng không thể được.
Cho nên chưa thấy thì không nên nghĩ, thấy rồi, nghe rồi thì không nên tưởng,
càng không được có động tác, nếu tâm niệm khởi lên tức liền quở trách, thì
không muốn vào chỗ si quấy. Nếu sinh lý xung động, thì nghĩ tưởng lúc tức giận
hiện tướng hung ác, lúc bệnh hoạn hiện tướng suy bại, lúc chết hiện tướng khó
nhìn, từng việc quán sát chắc chắn. Như thế chỉ cần cấu uế đờm tửa, lông tóc
răng móng, xương thịt máu mủ, mọi thứ gớm nhờm giống như tử thi, dơ như nhà xí;
ai đối với vật này mà sinh tham ái? Tham ái đã dứt, niệm dục tiêu mất, tâm địa
thanh tịnh; không nên nghĩ tới sắc đẹp của nó, chỉ nghĩ đến chỗ xấu xa của nó,
như vậy tánh dục không thể xung động được.
Dâm dục dễ sinh ra sự đố kỵ, chê bai
người khác, chiếm hữu, vướng mắc, ân oán, tranh giành quấy rối… những tranh
chấp và phiền não, ngăn ngừa thì đẩy lùi đi được nhiều phiền phức, vui được yên
ninh. Dâm dục dễ phát sinh quan niệm gia đình, gia quyến; từ đó sinh ra niệm
quan hệ, riêng tư, trói buộc, gánh vác, kết tình, làm phương hại cho việc tu
hành. Ở thế giới này, dục lạc là cội rễ luân hồi của chúng ta nhập thai.
người khác, chiếm hữu, vướng mắc, ân oán, tranh giành quấy rối… những tranh
chấp và phiền não, ngăn ngừa thì đẩy lùi đi được nhiều phiền phức, vui được yên
ninh. Dâm dục dễ phát sinh quan niệm gia đình, gia quyến; từ đó sinh ra niệm
quan hệ, riêng tư, trói buộc, gánh vác, kết tình, làm phương hại cho việc tu
hành. Ở thế giới này, dục lạc là cội rễ luân hồi của chúng ta nhập thai.
Thế nào là lời vọng? Miệng phải mà tâm
trái, dối gạt không thật, điên đảo trắng đen, lộn xộn thị phi, nói chung đều là
lời nói vọng.
trái, dối gạt không thật, điên đảo trắng đen, lộn xộn thị phi, nói chung đều là
lời nói vọng.
Thế nào là lời nói ác? Đem lời thô bạo,
ác độc, tổn thương người, khinh người, làm khốn đốn người, hơn người, lời ô
uế… để chửi mắng nhục mạ người, làm tổn thương lòng người, lời trù yếm rủa
quở, khiến người phát sinh áy náy lo lắng trong lòng, không thoải mái, sanh
giận đều là ác khẩu. Đối với súc sinh cũng không nên chửi nó.
ác độc, tổn thương người, khinh người, làm khốn đốn người, hơn người, lời ô
uế… để chửi mắng nhục mạ người, làm tổn thương lòng người, lời trù yếm rủa
quở, khiến người phát sinh áy náy lo lắng trong lòng, không thoải mái, sanh
giận đều là ác khẩu. Đối với súc sinh cũng không nên chửi nó.
Thế nào gọi là nói lưỡi hai chiều? Tạo
lời bịa đặt sinh sự, xúi dục thị phi, khiêu khích ly gián, ly gián cảm tình
giữa người và người, khiến người kia – đây không hòa, gây chuốt oán; đó gọi là
nói lưỡi hai chiều (đâm bị thóc, thọc bị gạo).
lời bịa đặt sinh sự, xúi dục thị phi, khiêu khích ly gián, ly gián cảm tình
giữa người và người, khiến người kia – đây không hòa, gây chuốt oán; đó gọi là
nói lưỡi hai chiều (đâm bị thóc, thọc bị gạo).
Thế nào gọi là lời nói thêu dệt? Nói
lời dâm đãng tầm thường, nhơ uế không chánh, khêu gợi tình cảm, lời không ra
gì, lời không ý nghĩa, lời ngon tiếng ngọt, cái đáng phê bình ngược lại khen
đẹp, cái việc tốt đẹp lại đem phỉ báng, mỗi nơi một khác không hợp với nghĩa,
những lời như thế đều gọi thêu dệt. Ba bốn người bạn tụ lại một chỗ, cao hứng
bàn luận, vui cười đắc ý rất dễ phạm phải lời thêu dệt, phải nên cẩn thận.
lời dâm đãng tầm thường, nhơ uế không chánh, khêu gợi tình cảm, lời không ra
gì, lời không ý nghĩa, lời ngon tiếng ngọt, cái đáng phê bình ngược lại khen
đẹp, cái việc tốt đẹp lại đem phỉ báng, mỗi nơi một khác không hợp với nghĩa,
những lời như thế đều gọi thêu dệt. Ba bốn người bạn tụ lại một chỗ, cao hứng
bàn luận, vui cười đắc ý rất dễ phạm phải lời thêu dệt, phải nên cẩn thận.
Con người rất dễ bị phạm về nghiệp
miệng. Cho nên đối với chúng sinh có lời làm tổn thương hại người, ngược đãi, ô
uế, thô bạo, ác độc, nói lời dối gạt, nói khoác lắm lời, miệng tâm trái nhau,
đều không nên nói; dẫu bị người cho là kẻ câm, cũng không nên làm tổn hại đến
khẩu nghiệp.
miệng. Cho nên đối với chúng sinh có lời làm tổn thương hại người, ngược đãi, ô
uế, thô bạo, ác độc, nói lời dối gạt, nói khoác lắm lời, miệng tâm trái nhau,
đều không nên nói; dẫu bị người cho là kẻ câm, cũng không nên làm tổn hại đến
khẩu nghiệp.
Thế nào gọi là tham dục? Tham dục còn
gọi là tham ái tham luyến. Chúng ta không chỉ yêu thương thân thể sinh mạng
chính mình, mà còn yêu thương các món tài sản quyền thế, danh dự, người thân
của mình, tham luyến không xả được. Không có muốn cho có, có rồi lại càng muốn
có nhiều càng tốt; tại sao đều muốn có? Tại sao đều không đủ? lòng tham không
bao giờ đủ, đó là tham dục. Vì thoả sự ham muốn chính mình, chỉ cần đạt được
mục đích, bất chấp thủ đoạn, công lý thế nào, nhân tình thế nào quên hết.
gọi là tham ái tham luyến. Chúng ta không chỉ yêu thương thân thể sinh mạng
chính mình, mà còn yêu thương các món tài sản quyền thế, danh dự, người thân
của mình, tham luyến không xả được. Không có muốn cho có, có rồi lại càng muốn
có nhiều càng tốt; tại sao đều muốn có? Tại sao đều không đủ? lòng tham không
bao giờ đủ, đó là tham dục. Vì thoả sự ham muốn chính mình, chỉ cần đạt được
mục đích, bất chấp thủ đoạn, công lý thế nào, nhân tình thế nào quên hết.
Tâm tham khởi lên, ở ngay nơi lúc khởi
tưởng về trước không có nó, không phải là sống tốt đẹp sao, vì sao quyết phải
phí sức tranh cầu? Nghĩ vậy tâm sẽ tiêu mất.
tưởng về trước không có nó, không phải là sống tốt đẹp sao, vì sao quyết phải
phí sức tranh cầu? Nghĩ vậy tâm sẽ tiêu mất.
Thế nào gọi là sân nhuế? Sân nhuế là
phát giận, thịnh nộ, oán hận. Có chút ít không như ý thì phát giận, não phiền
không thoải mái, trong lòng ôm lấy điều không vui, oán đây hận kia. Đối với người,
sự việc, vật, lúc mà gặp mặt tất cả nghịch cảnh không như ý, thì sự giận ở bên
trong phát ra bên ngoài, đó gọi là sân nhuế. Sân nhuế đối với người tu hành có
chướng ngại chẳng nhỏ, có câu rằng: “Một việc ác phá chín việc thiện”.
phát giận, thịnh nộ, oán hận. Có chút ít không như ý thì phát giận, não phiền
không thoải mái, trong lòng ôm lấy điều không vui, oán đây hận kia. Đối với người,
sự việc, vật, lúc mà gặp mặt tất cả nghịch cảnh không như ý, thì sự giận ở bên
trong phát ra bên ngoài, đó gọi là sân nhuế. Sân nhuế đối với người tu hành có
chướng ngại chẳng nhỏ, có câu rằng: “Một việc ác phá chín việc thiện”.
Đang lúc gặp việc không như ý phải biết
lúc cơn giận nổi lên, không nên nói, cũng chẳng ức chế, cũng không nên phát
tiết ở trên thân người khác. Còn nói, giải quyết không xong vấn đề; ức chế thì
sẽ làm tổn thương đến thân thể; phát tiết trên thân người khác thì tìm cái nhỏ mọn
đối với anh, phát tiết trên thân thể họ, tức là anh làm tổn thương đến họ, đối
với mình thì cũng chuốc lấy điều không tốt. Phẫn nộ là chất độc, thân thể cần
phải chuẩn bị kháng cự, trong máu mủ đầy cả chất độc, nếu không được phát tiết
ra ngoài, như thế sẽ chịu khổ, vì sự phẫn nộ đó tồn tại mà chẳng thể giận! Nay
đây xin đưa ra một phưong pháp: Chầm chậm hít dài một hơi, ngước lên trời từ từ
thở ra, như vậy làm vài lần, hoả khí liền tiêu mất; hoặc tìm một chỗ, một tay
nắm cú đánh một cái, hoặc vẽ trên miếng giấy, hoặc vào trong phòng đánh bị
bông, hoặc cái gối… để tiết lần khí giận. Phương pháp tốt nhất là: coi như
gió bên tai, coi như đang biểu diễn ca múa, như nó đang tự chửi mắng nó, không
nên lý sự với nó, không khởi tâm động niệm, khí sẽ không sinh khởi (không giận)
được.
lúc cơn giận nổi lên, không nên nói, cũng chẳng ức chế, cũng không nên phát
tiết ở trên thân người khác. Còn nói, giải quyết không xong vấn đề; ức chế thì
sẽ làm tổn thương đến thân thể; phát tiết trên thân người khác thì tìm cái nhỏ mọn
đối với anh, phát tiết trên thân thể họ, tức là anh làm tổn thương đến họ, đối
với mình thì cũng chuốc lấy điều không tốt. Phẫn nộ là chất độc, thân thể cần
phải chuẩn bị kháng cự, trong máu mủ đầy cả chất độc, nếu không được phát tiết
ra ngoài, như thế sẽ chịu khổ, vì sự phẫn nộ đó tồn tại mà chẳng thể giận! Nay
đây xin đưa ra một phưong pháp: Chầm chậm hít dài một hơi, ngước lên trời từ từ
thở ra, như vậy làm vài lần, hoả khí liền tiêu mất; hoặc tìm một chỗ, một tay
nắm cú đánh một cái, hoặc vẽ trên miếng giấy, hoặc vào trong phòng đánh bị
bông, hoặc cái gối… để tiết lần khí giận. Phương pháp tốt nhất là: coi như
gió bên tai, coi như đang biểu diễn ca múa, như nó đang tự chửi mắng nó, không
nên lý sự với nó, không khởi tâm động niệm, khí sẽ không sinh khởi (không giận)
được.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một niệm tâm sân khởi, trăm ngàn
cửa chướng ngại mở”, “Lửa sân nhuế có thể đốt cháy rừng công đức”. Có thể chẳng sợ sao?
cửa chướng ngại mở”, “Lửa sân nhuế có thể đốt cháy rừng công đức”. Có thể chẳng sợ sao?
Thế nào gọi là tà kiến (ngu si)? Ngu si
không phải là ngu thật, là có một chút thông minh nhỏ; bởi vì tư tưởng lầm lạc
(tà kiến), tất cả kiến giải hoặc tập tánh không hợp lý, dẫn đến sự điên đảo
trên hành vi, không rõ biết phải quấy, mặc tánh vọng làm, không rõ đạo lý,
không tin chánh đạo, không tin nhân quả báo ứng, không tin Phật, Bồ tát, thần
quỷ. Tự cho là phải, cuồng vọng tự đại, trong mắt không có người, kiêu căng
ngạo mạn đó là ngu si.
không phải là ngu thật, là có một chút thông minh nhỏ; bởi vì tư tưởng lầm lạc
(tà kiến), tất cả kiến giải hoặc tập tánh không hợp lý, dẫn đến sự điên đảo
trên hành vi, không rõ biết phải quấy, mặc tánh vọng làm, không rõ đạo lý,
không tin chánh đạo, không tin nhân quả báo ứng, không tin Phật, Bồ tát, thần
quỷ. Tự cho là phải, cuồng vọng tự đại, trong mắt không có người, kiêu căng
ngạo mạn đó là ngu si.
Thập thiện nghiệp – không trái
phạm, mới là thập thiện nghiệp (mười nghiệp thiện); trái phạm rồi thì là thập
ác nghiệp (mười nghiệp ác). Tóm lại, phàm là việc tổn hại chúng sinh thì thân
không nên làm, miệng không nên nói, ý không nên nghĩ.
phạm, mới là thập thiện nghiệp (mười nghiệp thiện); trái phạm rồi thì là thập
ác nghiệp (mười nghiệp ác). Tóm lại, phàm là việc tổn hại chúng sinh thì thân
không nên làm, miệng không nên nói, ý không nên nghĩ.
Sau khi biết đạo lý của mười thiện
nghiệp, thì không nên giống như kiểu trước kia làm việc theo chỗ muốn của tâm,
ưa gì làm nấy; trước khi làm việc hay nói cần phải nên nghĩ là có tổn hại đến
chúng sinh hay không, có vi phạm đến mười thiện nghiệp hay không?
nghiệp, thì không nên giống như kiểu trước kia làm việc theo chỗ muốn của tâm,
ưa gì làm nấy; trước khi làm việc hay nói cần phải nên nghĩ là có tổn hại đến
chúng sinh hay không, có vi phạm đến mười thiện nghiệp hay không?
Người tu hành phải tin Tam Bảo, biết
nhân quả, giữ năm giới, làm mười nghiệp thiện và nhẫn nhục, đây là việc người
tu hành quyết cần phải đầy đủ. Đức Phật do đó dạy bảo cho tín chúng cái việc
hợp tình nhập lý, trừ phi người không muốn làm điều tốt, những việc này làm
tiêu chuẩn phép tắc mới thành sự răn ngừa của con người.
nhân quả, giữ năm giới, làm mười nghiệp thiện và nhẫn nhục, đây là việc người
tu hành quyết cần phải đầy đủ. Đức Phật do đó dạy bảo cho tín chúng cái việc
hợp tình nhập lý, trừ phi người không muốn làm điều tốt, những việc này làm
tiêu chuẩn phép tắc mới thành sự răn ngừa của con người.
Chúng ta làm con người không thể không
nói đến luân lý, đạo đức và lương tâm. Mà mổ xẻ đạo đức hay không cũng là ở
trên sự đoan chánh hay không của hành vi. Người có hành vi đoan chánh thì làm
mười nghiệp thiện, người không có hành vi đoan chánh thì làm mười nghiệp ác.
Một cái hành vi của nhân dân tốt là đoan chánh, huống chi chúng ta là Phật tử,
là người tu hành.
nói đến luân lý, đạo đức và lương tâm. Mà mổ xẻ đạo đức hay không cũng là ở
trên sự đoan chánh hay không của hành vi. Người có hành vi đoan chánh thì làm
mười nghiệp thiện, người không có hành vi đoan chánh thì làm mười nghiệp ác.
Một cái hành vi của nhân dân tốt là đoan chánh, huống chi chúng ta là Phật tử,
là người tu hành.
Xa lìa vĩnh viễn mười nghiệp ác, nhất
định sẽ được công đức rất nhiều.
định sẽ được công đức rất nhiều.
Kinh chép rằng:
“Này Long Vương, nếu lìa SÁT
SINH, tức thành tựu được mười pháp lìa não phiền. Thế nào là mười? 1. Đối với
các chúng sinh khắp ban cho sự không sợ sệt. 2. Vì chúng sinh khởi tâm đại từ.
3. Vĩnh viễn xa lìa tất cả tập khí sân nhuế. 4. Thân thường không bệnh. 5. Thọ
mạng dài lâu. 6. Thường được phi nhân thủ hộ. 7. Không có ác mộng ngủ thức vui
vẻ. 8. Diệt trừ oán kết, các oán tự giải. 9. Không sợ đường ác. 10. Mệnh chung
được sanh lên trời, đó là mười việc.
SINH, tức thành tựu được mười pháp lìa não phiền. Thế nào là mười? 1. Đối với
các chúng sinh khắp ban cho sự không sợ sệt. 2. Vì chúng sinh khởi tâm đại từ.
3. Vĩnh viễn xa lìa tất cả tập khí sân nhuế. 4. Thân thường không bệnh. 5. Thọ
mạng dài lâu. 6. Thường được phi nhân thủ hộ. 7. Không có ác mộng ngủ thức vui
vẻ. 8. Diệt trừ oán kết, các oán tự giải. 9. Không sợ đường ác. 10. Mệnh chung
được sanh lên trời, đó là mười việc.
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa TRỘM
CẮP tức được mười món tín pháp có thể giữ gìn. Thế nào là mười? 1. Tài sản chứa
đầy, vua, giặc, nước, lửa không phải là con yêu, không thể làm tản mất. 2.
Nhiều người yêu thích. 3. Người không khinh rẻ. 4. Mười phương khen ngợi. 5.
Không buồn tổn hại. 6. Tiếng lành đốn khắp. 7. Ở trong chúng không sợ. 8. Tiền
tài, sinh mệnh, hình sắc, sức lực đều an lạc, biện tài đầy đủ, không khuyết
thiếu. 9. Thường ôm lòng bố thí. 10. Mệnh chung được sanh lên trời; đó là
muời.”
CẮP tức được mười món tín pháp có thể giữ gìn. Thế nào là mười? 1. Tài sản chứa
đầy, vua, giặc, nước, lửa không phải là con yêu, không thể làm tản mất. 2.
Nhiều người yêu thích. 3. Người không khinh rẻ. 4. Mười phương khen ngợi. 5.
Không buồn tổn hại. 6. Tiếng lành đốn khắp. 7. Ở trong chúng không sợ. 8. Tiền
tài, sinh mệnh, hình sắc, sức lực đều an lạc, biện tài đầy đủ, không khuyết
thiếu. 9. Thường ôm lòng bố thí. 10. Mệnh chung được sanh lên trời; đó là
muời.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa TÀ
HẠNH, tức được bốn món đức trí đáng ca ngợi. Thế nào là bốn? 1. Các căn điều
hòa và thuận nhau. 2. Vĩnh viễn xa lìa ồn ào. 3. Người đời ngợi khen. 4. Vợ
chẳng lấn quyền. Đó là bốn.”
HẠNH, tức được bốn món đức trí đáng ca ngợi. Thế nào là bốn? 1. Các căn điều
hòa và thuận nhau. 2. Vĩnh viễn xa lìa ồn ào. 3. Người đời ngợi khen. 4. Vợ
chẳng lấn quyền. Đó là bốn.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa NÓI
VỌNG tức được tám pháp chư Thiên khen ngợi. Thế nào là tám? 1. Miệng thường
thanh tịnh thơm mùi hoa Ưu Bát. 2. Làm các điều thế gian tin phục. 3. Phát lời
nói chân thành chứng thật, trời người kính yêu. 4. Thường dùng ái ngữ (lời khả
ái) an ủi chúng sinh. 5. Được vui thù thắng nơi ý, ba nghiệp được thanh tịnh.
6. Lời nói không sai lầm, tâm thường hoan hỉ. 7. Phát lời tôn trọng, trời người
phụng hành. 8. Trí tuệ thù thắng, không có thế lực nào chế phục. Đó là tám.”
VỌNG tức được tám pháp chư Thiên khen ngợi. Thế nào là tám? 1. Miệng thường
thanh tịnh thơm mùi hoa Ưu Bát. 2. Làm các điều thế gian tin phục. 3. Phát lời
nói chân thành chứng thật, trời người kính yêu. 4. Thường dùng ái ngữ (lời khả
ái) an ủi chúng sinh. 5. Được vui thù thắng nơi ý, ba nghiệp được thanh tịnh.
6. Lời nói không sai lầm, tâm thường hoan hỉ. 7. Phát lời tôn trọng, trời người
phụng hành. 8. Trí tuệ thù thắng, không có thế lực nào chế phục. Đó là tám.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu xa
lìa LƯỠI HAI CHIỀU, tức được năm pháp không thể hại. Thế nào là năm? 1. Được
thân bất hoại, không thể hại được. 2. Được quyến thuộc bất hoại, không thể phá
hoại. 3. Được niềm tin bất hoại, thuận với gốc vậy. 4. Được phép hành bất hoại,
sở tu kiên cố vậy. 5. Được thiện tri thức bất hoại, không đảo điên vậy. Đó là
năm.”
lìa LƯỠI HAI CHIỀU, tức được năm pháp không thể hại. Thế nào là năm? 1. Được
thân bất hoại, không thể hại được. 2. Được quyến thuộc bất hoại, không thể phá
hoại. 3. Được niềm tin bất hoại, thuận với gốc vậy. 4. Được phép hành bất hoại,
sở tu kiên cố vậy. 5. Được thiện tri thức bất hoại, không đảo điên vậy. Đó là
năm.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa ÁC
KHẨU, tức được tám món thịnh nghiệp. Thế nào là tám? 1. Nói không trái với
chừng mức. 2. Nói đều là lợi ích. 3. Nói ắt hợp với lý. 4. Nói từ ngữ hay tốt.
5. Lời nói được thừa lệnh. 6. Nói ra thì được tin dùng. 7. Nói ra không cần bàn
cãi. 8. Lời nói đều được yêu thích. Đó là tám.”
KHẨU, tức được tám món thịnh nghiệp. Thế nào là tám? 1. Nói không trái với
chừng mức. 2. Nói đều là lợi ích. 3. Nói ắt hợp với lý. 4. Nói từ ngữ hay tốt.
5. Lời nói được thừa lệnh. 6. Nói ra thì được tin dùng. 7. Nói ra không cần bàn
cãi. 8. Lời nói đều được yêu thích. Đó là tám.”
“Lại nữa này Long vương, nếu lìa
LỜI NÓI THÊU DỆT, tức được thành tựu ba món quyết định. Thế nào là ba? 1. Nhất
định làm cho người trí yêu thích. 2. Nhất định có thể dùng trí như thật để trả
lời. 3. Nhất định có oai đức tối thắng đối với người – trời, không có hư vọng.
Đó là ba.”
LỜI NÓI THÊU DỆT, tức được thành tựu ba món quyết định. Thế nào là ba? 1. Nhất
định làm cho người trí yêu thích. 2. Nhất định có thể dùng trí như thật để trả
lời. 3. Nhất định có oai đức tối thắng đối với người – trời, không có hư vọng.
Đó là ba.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa
THAM DỤC, tức có thể thành tựu năm món tự tại. Thế nào là năm? 1. Ba nghiệp tự
tại, các căn đầy đủ. 2. Tài vật tự tại, tất cả oán tặc không thể cướp đoạt. 3.
Phước đức tự tại, từ tâm ưa muốn, vật đều đầy đủ. 4. Vương vị tự tại, của báu
cũng như vật, đều phụng hiến dâng. 5. Vật có được hơn cả mong cầu hơn cả trăm
lần thù thắng do lúc xưa không lẫn tiếc vậy. Đó là năm.”
THAM DỤC, tức có thể thành tựu năm món tự tại. Thế nào là năm? 1. Ba nghiệp tự
tại, các căn đầy đủ. 2. Tài vật tự tại, tất cả oán tặc không thể cướp đoạt. 3.
Phước đức tự tại, từ tâm ưa muốn, vật đều đầy đủ. 4. Vương vị tự tại, của báu
cũng như vật, đều phụng hiến dâng. 5. Vật có được hơn cả mong cầu hơn cả trăm
lần thù thắng do lúc xưa không lẫn tiếc vậy. Đó là năm.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa
SÂN NHUẾ, tức được tám pháp vui tâm. Thế nào là tám? 1. Không có tâm tổn hại
não phiền. 2. Không có tâm sân nhuế. 3. Không có tâm giành giật. 4. Có tâm nhu hòa
chất trực. 5. Được tâm từ của bậc thánh. 6. Thường làm lợi ích, an được tâm
chúng sanh. 7. Thân tướng đoan nghiêm. 8. Vì bởi hòa nhẫn nên mau sinh cõi phạm
hạnh (thanh tịnh). Đó là tám.”
SÂN NHUẾ, tức được tám pháp vui tâm. Thế nào là tám? 1. Không có tâm tổn hại
não phiền. 2. Không có tâm sân nhuế. 3. Không có tâm giành giật. 4. Có tâm nhu hòa
chất trực. 5. Được tâm từ của bậc thánh. 6. Thường làm lợi ích, an được tâm
chúng sanh. 7. Thân tướng đoan nghiêm. 8. Vì bởi hòa nhẫn nên mau sinh cõi phạm
hạnh (thanh tịnh). Đó là tám.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa
TÀ KIẾN, tức được thành tựu mười pháp công đức. Thế nào là mười? 1. Được ý vui
chân thiện, bạn bè chân thiện. 2. Tin sâu nhân quả, dẫu có hy sinh thân mạng
quyết không làm điều ác. 3. Chỉ quy y Phật mà không phải các trời nào khác. 4.
Trực tâm, chánh kiến, trọn xa lìa tất cả lưới nghi tốt xấu. 5. Thường sinh về
nhân thiện, không quy về các đường ác. 6. Vô lượng phước huệ lần lữa tăng
trưởng thù thắng. 7. Trọn lìa tà đạo, làm nơi Thánh đạo. 8. Không khởi thân
kiến, xả các nghiệp ác. 9. Trụ nơi vô ngại kiến. 10. Không đọa lạc ở các nạn. Đó
là mười.”
TÀ KIẾN, tức được thành tựu mười pháp công đức. Thế nào là mười? 1. Được ý vui
chân thiện, bạn bè chân thiện. 2. Tin sâu nhân quả, dẫu có hy sinh thân mạng
quyết không làm điều ác. 3. Chỉ quy y Phật mà không phải các trời nào khác. 4.
Trực tâm, chánh kiến, trọn xa lìa tất cả lưới nghi tốt xấu. 5. Thường sinh về
nhân thiện, không quy về các đường ác. 6. Vô lượng phước huệ lần lữa tăng
trưởng thù thắng. 7. Trọn lìa tà đạo, làm nơi Thánh đạo. 8. Không khởi thân
kiến, xả các nghiệp ác. 9. Trụ nơi vô ngại kiến. 10. Không đọa lạc ở các nạn. Đó
là mười.”
“Thập thiện nghiệp” nên cùng với “luật
nhân quả” và “sám hối” đồng thời tu hành, sau khi rõ biết luật nhân quả thì
không thể phạm mười thiện nghiệp; nếu phạm mười thiện nghiệp tức phải dùng sám
hối càng giúp cho tâm linh sau khi phạm sai lầm mở được nỗi đau.
nhân quả” và “sám hối” đồng thời tu hành, sau khi rõ biết luật nhân quả thì
không thể phạm mười thiện nghiệp; nếu phạm mười thiện nghiệp tức phải dùng sám
hối càng giúp cho tâm linh sau khi phạm sai lầm mở được nỗi đau.
Giữ miệng, nhiếp ý, thân không phạm,
như vậy hành giả được độ sinh.
như vậy hành giả được độ sinh.
Có thể nương nơi phương pháp mười thiện
nghiệp thực tiễn là sáu pháp “Ba La Mật”, tu được sáu pháp Ba La Mật, mới càng
thù thắng hơn.
nghiệp thực tiễn là sáu pháp “Ba La Mật”, tu được sáu pháp Ba La Mật, mới càng
thù thắng hơn.
11. SÁU PHÁP BA LA MẬT VÀ BỐN PHÉP
NHIẾP
NHIẾP
Ngoài ba học là: Giới – định – huệ,
cộng thêm: bố thí – nhẫn nhục – tinh tấn, hợp thành sáu độ, cũng gọi là sáu độ
Ba La Mật (sáu pháp Ba La Mật).
cộng thêm: bố thí – nhẫn nhục – tinh tấn, hợp thành sáu độ, cũng gọi là sáu độ
Ba La Mật (sáu pháp Ba La Mật).
Chữ Ba La Mật là tiếng Phạn, nghĩa là
“Đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia). Người qua sông cần phải nương nơi thuyền bè mới
vượt qua giữa dòng để tới bờ bên kia; người học Phật ở bờ sinh tử luân hồi,
vượt qua dòng ở giữa là phiền não, đến bờ bên kia tịch tịnh Niết Bàn. Sáu pháp
Ba La Mật thì có thể vượt qua biển khổ sinh tử luân hồi, đến được bờ bên kia
giải thoát: Niết Bàn.
“Đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia). Người qua sông cần phải nương nơi thuyền bè mới
vượt qua giữa dòng để tới bờ bên kia; người học Phật ở bờ sinh tử luân hồi,
vượt qua dòng ở giữa là phiền não, đến bờ bên kia tịch tịnh Niết Bàn. Sáu pháp
Ba La Mật thì có thể vượt qua biển khổ sinh tử luân hồi, đến được bờ bên kia
giải thoát: Niết Bàn.
Hàng Bồ Tát của Đại thừa Phật giáo vì
thành tựu Phật đạo tối hậu, quyết cần phải thực tế bước lên sáu pháp Ba La Mật.
Mỗi một người tu hành học Phật, đều cần phải phát “tâm Bồ Đề”, đầu tiên đều cần
phải tự mình đầy đủ thực tế, tích cực làm cho được hành vi: “tạo phước cho nhân
loại, lợi ích cho chúng sinh”, mới có thể đạt được đầy đủ cho chính mình, chỉ
muốn ngóng trông tìm cầu thì phiền não, thất vọng, đau khổ càng nhiều. Vì cần
đạt được dục vọng chính mình, tự nhiên sẽ bất chấp mọi thủ đoạn đối với bên
ngoài để tham cầu tất cả, do đó, cũng tạo nên nghiệp ác rất là nhiều, dẫn khiến
phiền não, thất vọng, đau khổ tiếp tục đến; tóm quy một câu nói: đều là vì danh
lợi hư huyễn không thật, phiền não thống khổ mang lại, cội gốc sanh tử mang
lại. Song pháp môn “Lục độ Ba La Mật”, chính là Đức Phật vì chúng sinh giải
thoát phiền não thống khổ, khiến con người đạt được cảnh giới lý tưởng an lạc:
Niết Bàn; Đồng thời khiến con người thẳng đến thăng hoa cuộc sống tinh thần;
Pháp môn này tu hành viên mãn sáu món, tự lợi lợi tha, thành công sự nghiệp.
thành tựu Phật đạo tối hậu, quyết cần phải thực tế bước lên sáu pháp Ba La Mật.
Mỗi một người tu hành học Phật, đều cần phải phát “tâm Bồ Đề”, đầu tiên đều cần
phải tự mình đầy đủ thực tế, tích cực làm cho được hành vi: “tạo phước cho nhân
loại, lợi ích cho chúng sinh”, mới có thể đạt được đầy đủ cho chính mình, chỉ
muốn ngóng trông tìm cầu thì phiền não, thất vọng, đau khổ càng nhiều. Vì cần
đạt được dục vọng chính mình, tự nhiên sẽ bất chấp mọi thủ đoạn đối với bên
ngoài để tham cầu tất cả, do đó, cũng tạo nên nghiệp ác rất là nhiều, dẫn khiến
phiền não, thất vọng, đau khổ tiếp tục đến; tóm quy một câu nói: đều là vì danh
lợi hư huyễn không thật, phiền não thống khổ mang lại, cội gốc sanh tử mang
lại. Song pháp môn “Lục độ Ba La Mật”, chính là Đức Phật vì chúng sinh giải
thoát phiền não thống khổ, khiến con người đạt được cảnh giới lý tưởng an lạc:
Niết Bàn; Đồng thời khiến con người thẳng đến thăng hoa cuộc sống tinh thần;
Pháp môn này tu hành viên mãn sáu món, tự lợi lợi tha, thành công sự nghiệp.
Sáu pháp Ba La Mật: Bố thí – trì giới –
nhẫn nhục – tinh tấn – thiền định – trí tuệ.
nhẫn nhục – tinh tấn – thiền định – trí tuệ.
Bố thí có thể giải thoát độ được tâm
“xan tham” của thân tâm. Trì giới có thể giải thoát độ được “tà hạnh” của thân
tâm. Nhẫn nhục có thể giải thoát độ được “sân hận” của thân tâm. Tinh tấn có
thể giải thoát độ được “giải đãi” của thân tâm. Thiền định có thể giải thoát độ
được “tán loạn” của thân tâm. Trí tuệ có thể giải thoát độ được “ngu si” của
thân tâm. Khiến người đạt được cảnh giới giải thoát “thật tướng vô tướng”. Cũng
tức là: 1. Vô ngã tướng; không phải ngã là một cá nhân rất sai lạc và cứng cỏi,
không phải chỉ biết có ngã mà không biết tâm trạng của người khác. 2. Vô nhơn
tướng; trong cuộc sống hằng ngày, không có quan niệm cảm giác điểm đối lập
người và ta. 3. Vô chúng sinh tướng; trong quá trình sinh hoạt, không thọ trở
lại các món ái dục, dục vọng mê mờ, si ám, trói buộc, tạo các món nghiệp ác,
thọ các món khổ, mà cuộc sống an ninh tự tại. 4. Vô thọ giả tướng; không đem
sinh mạng ngắn ngủi tạm bợ hiện thời cho là vĩnh hằng, không đem sinh mạng vô
thường hiện đời cho là thế giới trường cửu. Tìm đến mà phá trừ “ngã chấp, pháp
chấp” của con người, đạt được cảnh giới: từ – bi – hỉ – xả, ngã – pháp cả hai
đều không.
“xan tham” của thân tâm. Trì giới có thể giải thoát độ được “tà hạnh” của thân
tâm. Nhẫn nhục có thể giải thoát độ được “sân hận” của thân tâm. Tinh tấn có
thể giải thoát độ được “giải đãi” của thân tâm. Thiền định có thể giải thoát độ
được “tán loạn” của thân tâm. Trí tuệ có thể giải thoát độ được “ngu si” của
thân tâm. Khiến người đạt được cảnh giới giải thoát “thật tướng vô tướng”. Cũng
tức là: 1. Vô ngã tướng; không phải ngã là một cá nhân rất sai lạc và cứng cỏi,
không phải chỉ biết có ngã mà không biết tâm trạng của người khác. 2. Vô nhơn
tướng; trong cuộc sống hằng ngày, không có quan niệm cảm giác điểm đối lập
người và ta. 3. Vô chúng sinh tướng; trong quá trình sinh hoạt, không thọ trở
lại các món ái dục, dục vọng mê mờ, si ám, trói buộc, tạo các món nghiệp ác,
thọ các món khổ, mà cuộc sống an ninh tự tại. 4. Vô thọ giả tướng; không đem
sinh mạng ngắn ngủi tạm bợ hiện thời cho là vĩnh hằng, không đem sinh mạng vô
thường hiện đời cho là thế giới trường cửu. Tìm đến mà phá trừ “ngã chấp, pháp
chấp” của con người, đạt được cảnh giới: từ – bi – hỉ – xả, ngã – pháp cả hai
đều không.
A. BỐ THÍ (vưng làm các điều thiện)
Trong đại thừa Phật pháp, vì sao bố thí
được kể là đầu của sáu pháp Ba La Mật? Bởi vì bố thí là một hành vi có thể
thăng hoa nhân tính, nó có thể phát sinh năng lực của sự vượt qua (gọi là ĐỘ);
đem sự nhỏ mọn, cố chấp đóng kín, tật đố, bi quan mà vượt qua, đến bờ bên kia
của sự nhiệt thành, thoải mái, rộng rãi, tri túc và giàu có.
được kể là đầu của sáu pháp Ba La Mật? Bởi vì bố thí là một hành vi có thể
thăng hoa nhân tính, nó có thể phát sinh năng lực của sự vượt qua (gọi là ĐỘ);
đem sự nhỏ mọn, cố chấp đóng kín, tật đố, bi quan mà vượt qua, đến bờ bên kia
của sự nhiệt thành, thoải mái, rộng rãi, tri túc và giàu có.
Bố thí tức là phát tâm Bồ Đề, rộng lợi
ích tất cả chúng sinh, giải thoát khổ nạn của chúng sinh, giúp cho chúng sinh
an lạc.
ích tất cả chúng sinh, giải thoát khổ nạn của chúng sinh, giúp cho chúng sinh
an lạc.
Mục đích của bố thí: thương xót chúng
sinh, vì khiến chúng sinh an lạc. Không ở việc mong cầu, không mong báo đáp,
không ở nơi rộng thu lấy tiếng tốt xa bay.
sinh, vì khiến chúng sinh an lạc. Không ở việc mong cầu, không mong báo đáp,
không ở nơi rộng thu lấy tiếng tốt xa bay.
Bố thí (làm thiện) cần phải thành tâm,
không được phân chia đối tượng, oán thân, kia đây, ôm lòng nặng đây nhẹ kia, bố
thí thế này thì không phải là bố thí.
không được phân chia đối tượng, oán thân, kia đây, ôm lòng nặng đây nhẹ kia, bố
thí thế này thì không phải là bố thí.
Bố thí không khó, khó ở chỗ đạt được
cảnh giới “thể của ba luân đều không”. Ba luân đều không là: không có cái “ta”
bố thí; không có “người” thọ của bố thí; cũng không có “vật” được thí.
cảnh giới “thể của ba luân đều không”. Ba luân đều không là: không có cái “ta”
bố thí; không có “người” thọ của bố thí; cũng không có “vật” được thí.
Bố thí tức là “thí xả”, vấn đề thí xả
có nhiều phương diện, và chẳng cuộc hạn ở nơi nắm tiền bạc tài vật mà đưa ra.
Tức là dùng trí huệ, học vấn, hoặc thể lực, năng lực của mình tuỳ thời tuỳ chỗ
đều có thể giúp đỡ cho người cần chịu giúp đỡ.
có nhiều phương diện, và chẳng cuộc hạn ở nơi nắm tiền bạc tài vật mà đưa ra.
Tức là dùng trí huệ, học vấn, hoặc thể lực, năng lực của mình tuỳ thời tuỳ chỗ
đều có thể giúp đỡ cho người cần chịu giúp đỡ.
Bố thí chia ra: tài thí, pháp thí và vô
uý thí.
uý thí.
Bố thí tài (tài thí), đem năng
lực tài sản của mình mà thí cho. Không chỉ là đem ra một ít tiền quyên giúp
chùa chiền hoặc nhà nghèo khó, mà là cần phải ở trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi
niệm mỗi niệm vì người khác, không phải vì tự kỷ.
lực tài sản của mình mà thí cho. Không chỉ là đem ra một ít tiền quyên giúp
chùa chiền hoặc nhà nghèo khó, mà là cần phải ở trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi
niệm mỗi niệm vì người khác, không phải vì tự kỷ.
Bố thí pháp (pháp thí), đem Phật
pháp giáo hoá dẫn dắt chúng sinh, khiến nhân đó mà được độ. Phàm là người khác
muốn biết, muốn học tập, chỉ cần ta biết, ta có thể, thì nhiệt tình dẫn dạy họ.
Không điều kiện, không kể trả công; nếu là có giá thay thế, thu phí dụng… như
thế không phải là bố thí. Cho nên bố thí pháp không nhất định giảng kinh, nói
pháp.
pháp giáo hoá dẫn dắt chúng sinh, khiến nhân đó mà được độ. Phàm là người khác
muốn biết, muốn học tập, chỉ cần ta biết, ta có thể, thì nhiệt tình dẫn dạy họ.
Không điều kiện, không kể trả công; nếu là có giá thay thế, thu phí dụng… như
thế không phải là bố thí. Cho nên bố thí pháp không nhất định giảng kinh, nói
pháp.
Bố thí không sợ sệt (vô uý thí),
cứu độ khổ nạn cho chúng sinh, nên lấy tinh thần an ủi giúp đỡ, khiến họ xa lìa
lo lắng, không sợ không hãi, trừ khỏi sự bất an.
cứu độ khổ nạn cho chúng sinh, nên lấy tinh thần an ủi giúp đỡ, khiến họ xa lìa
lo lắng, không sợ không hãi, trừ khỏi sự bất an.
Lúc thân tâm ở chúng sinh bất an, sợ
sệt, lo âu, có thể giúp họ tiêu trừ được sự lo sợ, bất an của họ.
sệt, lo âu, có thể giúp họ tiêu trừ được sự lo sợ, bất an của họ.
Bố thí là giữ thiện tâm, làm thiện
hạnh. Thế nào là thiện? Tức là tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi, làm việc hợp với
luân lý đạo đức của xã hội, luật pháp của quốc gia, không làm tổn hại đến tất
cả chúng sinh, tâm giữ công chính, vui đối với việc giúp đỡ người, tức là
thiện.
hạnh. Thế nào là thiện? Tức là tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi, làm việc hợp với
luân lý đạo đức của xã hội, luật pháp của quốc gia, không làm tổn hại đến tất
cả chúng sinh, tâm giữ công chính, vui đối với việc giúp đỡ người, tức là
thiện.
Giữ tâm làm thiện cần có tâm lợi ích
chúng sinh, tâm ý cần chân chính thiết thực, lượng sức mà làm, bố thí bởi lòng
từ tốt đẹp. Giả như nói ta không có trí tuệ lại không có năng lực, càng không
có của tiền vật chất, làm sao mà thí? Ở nhà hiếu thuận cha mẹ, bên ngoài tôn
thầy kính lão, hiếu đễ trung tín, kính trên hòa dưới, tâm giữ chân thành, hiền
hậu, lấy sự ôn hòa nhẹ nhàng, nhân từ đáng mến, diện mạo hòa vui, thái độ cởi
mở đãi người tiếp vật, rất ít xem đến thành công của người ta, hoặc làm việc
thiện có thể sanh khởi tâm tuỳ hỉ, khen ngợi người khác, nhà người có việc xấu
cần nên an ủi họ, đối với kẻ mất chí hướng nên nói lời khích lệ, đối với người
buồn đau nói lời an ủi, như ở trên đường bắt gặp vỏ cây giấy vụn… kiểm tra
nó, những việc này chịu khó động tay, kịp thời phục vụ lạc quan, đều có thể
làm, không phải là thí cho bao nhiêu tiền, bao nhiêu vật mới là làm thiện. Chỉ
cần giữ tâm thiện mới là thiện, không phải là làm được bao nhiêu thiện mới là
thiện.
chúng sinh, tâm ý cần chân chính thiết thực, lượng sức mà làm, bố thí bởi lòng
từ tốt đẹp. Giả như nói ta không có trí tuệ lại không có năng lực, càng không
có của tiền vật chất, làm sao mà thí? Ở nhà hiếu thuận cha mẹ, bên ngoài tôn
thầy kính lão, hiếu đễ trung tín, kính trên hòa dưới, tâm giữ chân thành, hiền
hậu, lấy sự ôn hòa nhẹ nhàng, nhân từ đáng mến, diện mạo hòa vui, thái độ cởi
mở đãi người tiếp vật, rất ít xem đến thành công của người ta, hoặc làm việc
thiện có thể sanh khởi tâm tuỳ hỉ, khen ngợi người khác, nhà người có việc xấu
cần nên an ủi họ, đối với kẻ mất chí hướng nên nói lời khích lệ, đối với người
buồn đau nói lời an ủi, như ở trên đường bắt gặp vỏ cây giấy vụn… kiểm tra
nó, những việc này chịu khó động tay, kịp thời phục vụ lạc quan, đều có thể
làm, không phải là thí cho bao nhiêu tiền, bao nhiêu vật mới là làm thiện. Chỉ
cần giữ tâm thiện mới là thiện, không phải là làm được bao nhiêu thiện mới là
thiện.
Chỗ làm được ít trên tiền tài, có thể
mỗi tháng bố thí mười phần trăm chỗ được; chỗ làm được nhiều thì có thể bố thí
nhiều, làm việc cúng dường tam bảo, in (giúp) kinh sách, phóng sinh, cứu giúp
nạn gấp, kẻ nghèo, người bệnh, người cần giúp đỡ.
mỗi tháng bố thí mười phần trăm chỗ được; chỗ làm được nhiều thì có thể bố thí
nhiều, làm việc cúng dường tam bảo, in (giúp) kinh sách, phóng sinh, cứu giúp
nạn gấp, kẻ nghèo, người bệnh, người cần giúp đỡ.
Đối với việc thí xả tài vật (hành
thiện) cho người, đừng còn có một chút tâm hư vinh dứt không được, ôm giữ lấy
tâm kiêu mạn, tự đại, tật đố, phải hoàn toàn phát tâm chân thành, đồng tình từ
nội tâm. Như anh bố thí được một vạn đồng, có người khác chỉ bố thí được một
trăm đồng, như thế anh sẽ cảm thấy chính anh so với người kia, người bố thí một
trăm đồng, anh rất là to lớn. Có tưởng pháp kiểu này sẽ sinh ra tâm lý kiêu mạn
tự đại, việc làm thiện của anh sẽ cùng với sự kiêu mạn xen lộn với nhau rồi.
Ngoài việc bỏ tiền ra rồi, chúng ta phải chăng cũng nên xét nét hiểu động cơ
tâm lý thái độ lúc làm thiện của chúng ta, có phải là chân chính có thể phát
sinh ra công năng của “Ba La Mật” hay không? Hay là khiến cho việc làm thiện
của mình ngược lại mà trở thành một cái duyên nhiễm, bất tịnh, tâm tham danh
cầu công đức của thế tục đó là “nhiễm”, khiến cho người bố thí và người thọ thí
đều không cách nào được đại lợi ích chân thành.
thiện) cho người, đừng còn có một chút tâm hư vinh dứt không được, ôm giữ lấy
tâm kiêu mạn, tự đại, tật đố, phải hoàn toàn phát tâm chân thành, đồng tình từ
nội tâm. Như anh bố thí được một vạn đồng, có người khác chỉ bố thí được một
trăm đồng, như thế anh sẽ cảm thấy chính anh so với người kia, người bố thí một
trăm đồng, anh rất là to lớn. Có tưởng pháp kiểu này sẽ sinh ra tâm lý kiêu mạn
tự đại, việc làm thiện của anh sẽ cùng với sự kiêu mạn xen lộn với nhau rồi.
Ngoài việc bỏ tiền ra rồi, chúng ta phải chăng cũng nên xét nét hiểu động cơ
tâm lý thái độ lúc làm thiện của chúng ta, có phải là chân chính có thể phát
sinh ra công năng của “Ba La Mật” hay không? Hay là khiến cho việc làm thiện
của mình ngược lại mà trở thành một cái duyên nhiễm, bất tịnh, tâm tham danh
cầu công đức của thế tục đó là “nhiễm”, khiến cho người bố thí và người thọ thí
đều không cách nào được đại lợi ích chân thành.
Sau khi bố thí lại sinh tâm hối hận,
hoặc khoe việc làm thiện của mình, đây không phải là bố thí tốt nhất. Sau khi
bố thí hoan hỉ trong lòng, vả lại không đem việc thí xả của mình để mà nhận lấy
đối tượng thí xả, và đồ vật được thí dính mắc trong lòng, đây mới là bố thí
đỉnh cao.
hoặc khoe việc làm thiện của mình, đây không phải là bố thí tốt nhất. Sau khi
bố thí hoan hỉ trong lòng, vả lại không đem việc thí xả của mình để mà nhận lấy
đối tượng thí xả, và đồ vật được thí dính mắc trong lòng, đây mới là bố thí
đỉnh cao.
Chỉ cần lấy sự bố thí của tâm chân
thành, dẫu là mười đồng, cũng hơn là công dức của trăm vạn đồng mà không chân
thành. Bố thí không có tâm chân thành là vì cầu lấy công đức hoặc được danh tốt
rộng rãi, dù cho bố thí mấy mươi vạn đồng cũng chẳng được công đức mấy mươi đồng.
thành, dẫu là mười đồng, cũng hơn là công dức của trăm vạn đồng mà không chân
thành. Bố thí không có tâm chân thành là vì cầu lấy công đức hoặc được danh tốt
rộng rãi, dù cho bố thí mấy mươi vạn đồng cũng chẳng được công đức mấy mươi đồng.
Đại phàm nghĩ thiện làm thiện, người
thường phần nhiều biết làm, muốn làm, nhưng nếu chẳng thể “tịnh không” ngã
kiến, ngã chấp, ngã tham, ngã hận, ngã dục, ngã tư (riêng)… chứa nhóm thành
kiến, thì gặp việc thường tình thấy trước mắt nhất là tâm riêng tư (ngã tư) làm
trọng, nhân đầu mối tình cảm dấy động mà việc làm và chí nguyện trái nhau, nhân
tu dưỡng chẳng đủ mà xử trí không thoả đáng, cái biết và việc làm khó đem mà
phối hợp, chứa nhóm lại thường sanh khốn đốn buồn lo, ham muốn riêng tư thường trở
ngại việc thiện, vọng niệm tăng thêm phiền não, cho nên nhờ “không quán” giúp
cho việc tu dưỡng.
thường phần nhiều biết làm, muốn làm, nhưng nếu chẳng thể “tịnh không” ngã
kiến, ngã chấp, ngã tham, ngã hận, ngã dục, ngã tư (riêng)… chứa nhóm thành
kiến, thì gặp việc thường tình thấy trước mắt nhất là tâm riêng tư (ngã tư) làm
trọng, nhân đầu mối tình cảm dấy động mà việc làm và chí nguyện trái nhau, nhân
tu dưỡng chẳng đủ mà xử trí không thoả đáng, cái biết và việc làm khó đem mà
phối hợp, chứa nhóm lại thường sanh khốn đốn buồn lo, ham muốn riêng tư thường trở
ngại việc thiện, vọng niệm tăng thêm phiền não, cho nên nhờ “không quán” giúp
cho việc tu dưỡng.
Niệm Phật cần tịnh tâm tịnh ý, xử sự
cần phải tịnh tâm, đương nhiên mục đích của bố thí cũng phải cần từ trong tâm
xả mà cầu tịnh tâm, xả được thì tịnh, không thể xả được thì nhiễm. “Chấp trước”
là kẻ địch lớn của sự tu hành. Sau khi bố thí anh nên “tướng lìa tâm lìa”,
không nên ôm giữ trong lòng sự tình đó, tâm mới có thể lìa, đây mới là ‘bố thí
của vô tướng”. Nếu như anh làm việc bố thí nhiều năm, ở trong tâm vẫn còn một
mực chấp trước công đức, như thế thì nên phải cẩn thận kiểm thảo trạng thái của
tâm này.
cần phải tịnh tâm, đương nhiên mục đích của bố thí cũng phải cần từ trong tâm
xả mà cầu tịnh tâm, xả được thì tịnh, không thể xả được thì nhiễm. “Chấp trước”
là kẻ địch lớn của sự tu hành. Sau khi bố thí anh nên “tướng lìa tâm lìa”,
không nên ôm giữ trong lòng sự tình đó, tâm mới có thể lìa, đây mới là ‘bố thí
của vô tướng”. Nếu như anh làm việc bố thí nhiều năm, ở trong tâm vẫn còn một
mực chấp trước công đức, như thế thì nên phải cẩn thận kiểm thảo trạng thái của
tâm này.
Làm thiện, trong trăm việc thiện “Hiếu”
là trước nhất, không hiếu thuận với cha mẹ, không thể nói là làm thiện. Làm
người, con trai hay gái, phải nên phụng dưỡng kính thuận cha mẹ. Hiếu thuận cha
mẹ mà chỉ lấy cơm áo, tiền bạc để lo là chưa đủ đâu. Hầu hạ mẹ cha cần phải
cung kính, phải nhẹ nhàng, một lời nói một việc làm đừng khiến cho cha mẹ phải
thương tâm khó lòng, cần phải làm cho cha mẹ sinh tâm hoan hỉ, việc chính đáng
cha mẹ làm không nên ngỗ nghịch, cha mẹ dè răn không được trái ngược, dắt dẫn
cha mẹ tin Phật, học Phật tu hành mới là báo đáp ơn cha mẹ chân chính.
là trước nhất, không hiếu thuận với cha mẹ, không thể nói là làm thiện. Làm
người, con trai hay gái, phải nên phụng dưỡng kính thuận cha mẹ. Hiếu thuận cha
mẹ mà chỉ lấy cơm áo, tiền bạc để lo là chưa đủ đâu. Hầu hạ mẹ cha cần phải
cung kính, phải nhẹ nhàng, một lời nói một việc làm đừng khiến cho cha mẹ phải
thương tâm khó lòng, cần phải làm cho cha mẹ sinh tâm hoan hỉ, việc chính đáng
cha mẹ làm không nên ngỗ nghịch, cha mẹ dè răn không được trái ngược, dắt dẫn
cha mẹ tin Phật, học Phật tu hành mới là báo đáp ơn cha mẹ chân chính.
Bỏ người nhà cuộc sống gian khổ, không
đoái hoài mà đi làm thiện, chẳng được công đức.
đoái hoài mà đi làm thiện, chẳng được công đức.
Tu thiện như thế chia ra có: Chân thiện
– giả thiện, dương thiện – âm thiện, thị thiện – phi thiện, bán thiện – mãn
thiện, đại thiện – tiểu thiện, nan thiện – dị thiện.
– giả thiện, dương thiện – âm thiện, thị thiện – phi thiện, bán thiện – mãn
thiện, đại thiện – tiểu thiện, nan thiện – dị thiện.
Những món thiện này mỗi cái đều có mỗi
đạo lý, ắt cần phải tiến tới mà giải rõ, chẳng như vậy, làm thiện mà không rõ
lý, thì tự khoe mình làm được việc thiện, làm được công đức gì, như thế biết
rằng không phải làlàm việc thiện, mà kỳ thật tạo hành vi xấu, uổng phí khổ tâm,
không được chút tốt đẹp nào!
đạo lý, ắt cần phải tiến tới mà giải rõ, chẳng như vậy, làm thiện mà không rõ
lý, thì tự khoe mình làm được việc thiện, làm được công đức gì, như thế biết
rằng không phải làlàm việc thiện, mà kỳ thật tạo hành vi xấu, uổng phí khổ tâm,
không được chút tốt đẹp nào!
Thế nào gọi là chơn thiện – giả thiện?
Phàm làm việc có ích đối với người tức
là chơn thiện (thiện chân chánh); chỉ cần làm lợi riêng mình, làm thiện như vậy
tức là giả thiện (thiện giả dối). Làm thiện mà không có sở cầu, thiện mà lợi
người mới là chơn thiện, như thế sợ rằng chửi người đánh người cũng kể là chơn
thiện. Giả như chỉ vì lợi ích chính mình,tức khiến cho anh cung kính người
khác, lễ nhường người khác, dùng của tiền thí cho người khác, giúp đỡ người
khác cũng gọi là giả thiện. Cho nên gọi là loại người cố ý nói tốt, tạm gượng,
dèm xiểm dối lừa đó vậy.
là chơn thiện (thiện chân chánh); chỉ cần làm lợi riêng mình, làm thiện như vậy
tức là giả thiện (thiện giả dối). Làm thiện mà không có sở cầu, thiện mà lợi
người mới là chơn thiện, như thế sợ rằng chửi người đánh người cũng kể là chơn
thiện. Giả như chỉ vì lợi ích chính mình,tức khiến cho anh cung kính người
khác, lễ nhường người khác, dùng của tiền thí cho người khác, giúp đỡ người
khác cũng gọi là giả thiện. Cho nên gọi là loại người cố ý nói tốt, tạm gượng,
dèm xiểm dối lừa đó vậy.
Tu hành trọng yếu nhất là xuất phát từ
sự chân thành mà không có sở cầu, giữ tâm lợi ích xã hội quốc gia, làm cho tất
cả chúng sinh tạo phước, làm thiện không cần báo đáp, không lộ bày dấu vết,
việc thiện như thế là “chơn thiện”; làm việc thiện vì đại chúng xã hội, tất cả
chúng sinh tạo phước mà mình còn muốn sự báo đáp tương đương, hoặc mục đích lợi
ích nào đó, mưu đồ có chỗ được, đây là trong cái thiện có xen lộn với cái ác
(thiện không thuần chất), không phải là chơn thiện. Thiện mà muốn người thấy
biết, không phải là “chơn thiện”, ác mà sợ người biết mới là “đại ác”.
sự chân thành mà không có sở cầu, giữ tâm lợi ích xã hội quốc gia, làm cho tất
cả chúng sinh tạo phước, làm thiện không cần báo đáp, không lộ bày dấu vết,
việc thiện như thế là “chơn thiện”; làm việc thiện vì đại chúng xã hội, tất cả
chúng sinh tạo phước mà mình còn muốn sự báo đáp tương đương, hoặc mục đích lợi
ích nào đó, mưu đồ có chỗ được, đây là trong cái thiện có xen lộn với cái ác
(thiện không thuần chất), không phải là chơn thiện. Thiện mà muốn người thấy
biết, không phải là “chơn thiện”, ác mà sợ người biết mới là “đại ác”.
Thông thường con người là phàm phu mắt
thịt, tục tình và tâm địa của họ không sạch sẽ, tức là vọng tưởng chấp trước
còn rất nhiều, không có huệ nhãn, Phật nhãn, nhìn không rõ sự thật chân tướng.
“Nhận thiện là ác, cho ác là thiện”, thiện ác đảo điên, đây cũng gọi là mê hoặc
điên đảo, người thế này ở thế gian lại rất nhiều. Thế nào là chơn thiện? Chúng
ta cần phải khảo sát cho rõ ràng từ tong tâm địa, mới biết mình hành thiện hay
không. Thiện ác ở tâm địa, chứa thiện nhiều, lập công to đều là tu trên tâm
địa, thuần tuý là lợi cho người giúp cho đời, không có lợi cho mình hay tâm
riêng tư.
thịt, tục tình và tâm địa của họ không sạch sẽ, tức là vọng tưởng chấp trước
còn rất nhiều, không có huệ nhãn, Phật nhãn, nhìn không rõ sự thật chân tướng.
“Nhận thiện là ác, cho ác là thiện”, thiện ác đảo điên, đây cũng gọi là mê hoặc
điên đảo, người thế này ở thế gian lại rất nhiều. Thế nào là chơn thiện? Chúng
ta cần phải khảo sát cho rõ ràng từ tong tâm địa, mới biết mình hành thiện hay
không. Thiện ác ở tâm địa, chứa thiện nhiều, lập công to đều là tu trên tâm
địa, thuần tuý là lợi cho người giúp cho đời, không có lợi cho mình hay tâm
riêng tư.
Thế nào gọi là dương thiện – âm thiện
(Thiện bày ra ở bên ngoài – thiện ẩn ở bên trong)?
(Thiện bày ra ở bên ngoài – thiện ẩn ở bên trong)?
Phàm làm việc thiện mà người ta biết,
thì là dương thiện; làm thiện mà không bị người ta biết thì gọi là âm thiện.
Việc thiện của anh làm mọi người đều biết, người người nhìn thấy khen anh tốt,
thì chỉ có thể rộng thu loại tiếng khen (danh dự), Khen tốt tức là phước, chính
phủ biểu dương (anh là người tốt, làm được rất nhiều việc tốt), quả báo đều báo
rất rõ ràng. Cho nên chư vị nên hiểu rằng, không luận là làm bao nhiêu việc
thiện, bất tất phải để cho người khác biết, thì việc thiện vĩnh viễn chứa ở
trong đó, mà không cầu báo hiện khởi, gọi là “tích đức”. Người khác biết rồi,
thiện sẽ không chứa được, làm bao nhiêu thì báo trả bấy nhiêu, về sau quả thiện
không còn chút nào, ngược lại tạo rất nhiều ác. Hành thiện mà không bị người
khác biết, “âm đức’ trời ắt ban cho đức dày. Do đó dương thiện và âm thiện thì
chỉ chia phân giữa sự sáng suốt và ám độn thôi.
thì là dương thiện; làm thiện mà không bị người ta biết thì gọi là âm thiện.
Việc thiện của anh làm mọi người đều biết, người người nhìn thấy khen anh tốt,
thì chỉ có thể rộng thu loại tiếng khen (danh dự), Khen tốt tức là phước, chính
phủ biểu dương (anh là người tốt, làm được rất nhiều việc tốt), quả báo đều báo
rất rõ ràng. Cho nên chư vị nên hiểu rằng, không luận là làm bao nhiêu việc
thiện, bất tất phải để cho người khác biết, thì việc thiện vĩnh viễn chứa ở
trong đó, mà không cầu báo hiện khởi, gọi là “tích đức”. Người khác biết rồi,
thiện sẽ không chứa được, làm bao nhiêu thì báo trả bấy nhiêu, về sau quả thiện
không còn chút nào, ngược lại tạo rất nhiều ác. Hành thiện mà không bị người
khác biết, “âm đức’ trời ắt ban cho đức dày. Do đó dương thiện và âm thiện thì
chỉ chia phân giữa sự sáng suốt và ám độn thôi.
Thế nào gọi là thị thiện – phi thiện
(thiện phải – thiện quấy trái)?
(thiện phải – thiện quấy trái)?
Đã làm việc thiện tại sao lại có việc
phân ra “thị thiện” và “phi thiện”? Phàm người làm thiện không luận sự hiện
hành mà luận sự dẫn đến cái xấu, không luận nhất thời mà luận dài xa, không
luận một thân mà luận thiên hạ. Trước mặt thấy là thiện, trên thực tế chẳng là
thiện. Đối với một người là thiện, đối với nhất thời là thiện; mà đối với quốc
gia xã hội là phi thiện, đối với đời sau là phi thiện. Cho nên đối với thiện –
ác không thể chỉ xem hiện hành trước mắt, cần phải hiểu được ảnh hưởng đối với
quốc gia xã hội, đối với hậu thế lâu xa về sau, là mặt chính hay là mặt trái.
Hiện hành giống như thiện, kỳ thật kết quả đủ để hại người, thời in tuồng là
thiện mà thật thì phi thiện, kết quả đó có ích cho đại chúng, thì tuy là chẳng
phải thiện mà thật là thiện.
phân ra “thị thiện” và “phi thiện”? Phàm người làm thiện không luận sự hiện
hành mà luận sự dẫn đến cái xấu, không luận nhất thời mà luận dài xa, không
luận một thân mà luận thiên hạ. Trước mặt thấy là thiện, trên thực tế chẳng là
thiện. Đối với một người là thiện, đối với nhất thời là thiện; mà đối với quốc
gia xã hội là phi thiện, đối với đời sau là phi thiện. Cho nên đối với thiện –
ác không thể chỉ xem hiện hành trước mắt, cần phải hiểu được ảnh hưởng đối với
quốc gia xã hội, đối với hậu thế lâu xa về sau, là mặt chính hay là mặt trái.
Hiện hành giống như thiện, kỳ thật kết quả đủ để hại người, thời in tuồng là
thiện mà thật thì phi thiện, kết quả đó có ích cho đại chúng, thì tuy là chẳng
phải thiện mà thật là thiện.
Nêu lên một ví dụ có thể hiểu thông,
như không nên khoan dung tha thứ được, khen ngợi người khác quá đáng, vì giữ
tín nhỏ mà sai lầm đại sự, sủng ái con cái mà dung dưỡng đại hoạn… đều gấp
mong chúng ta lắng tịnh kiểm thảo mà cải tiến.
như không nên khoan dung tha thứ được, khen ngợi người khác quá đáng, vì giữ
tín nhỏ mà sai lầm đại sự, sủng ái con cái mà dung dưỡng đại hoạn… đều gấp
mong chúng ta lắng tịnh kiểm thảo mà cải tiến.
Thế nào gọi là bán thiện – mãn thiện
(thiện một nửa – thiện đầy đủ)?
(thiện một nửa – thiện đầy đủ)?
Bố thí trăm nghìn vạn đồng, nhưng tâm ý
ngược lại không chân thành; Bố thí một hai chục đồng, nhưng tâm ý chân thành;
Lấy đây làm thí dụ, thì là trăm nghìn vạn đồng kia là “bán thiện”, một vài chục
đồng đó là “mãn thiện”. Thí như đem của tiền mà giúp đỡ cho người khác, không
phải ở nơi tiền nhiều hay làm nhiều, mà là thành ý nơi chân tâm, hết lòng hết
sức mà làm, tức là mãn thiện; Nếu bố thí của tiền mà lòng xót xa, thi ân mong
báo đáp, hoặc có mưu đồ, thí tiền mà không quên được, như thế dẫu cho thí trăm
nghìn vạn đồng, cũng chỉ có một nửa thiện mà thôi!
ngược lại không chân thành; Bố thí một hai chục đồng, nhưng tâm ý chân thành;
Lấy đây làm thí dụ, thì là trăm nghìn vạn đồng kia là “bán thiện”, một vài chục
đồng đó là “mãn thiện”. Thí như đem của tiền mà giúp đỡ cho người khác, không
phải ở nơi tiền nhiều hay làm nhiều, mà là thành ý nơi chân tâm, hết lòng hết
sức mà làm, tức là mãn thiện; Nếu bố thí của tiền mà lòng xót xa, thi ân mong
báo đáp, hoặc có mưu đồ, thí tiền mà không quên được, như thế dẫu cho thí trăm
nghìn vạn đồng, cũng chỉ có một nửa thiện mà thôi!
Thế nào gọi là đại thiện – tiểu thiện?
Lập chí làm việc thiện lợi ích cho
chúng sanh, quốc gia xã hội, thì thiện tuy nhỏ mà công đức lớn, nếu chỉ vì lợi
ích cho mình hay gia đình, như thế tuy lớn mà cũng là nhỏ.
chúng sanh, quốc gia xã hội, thì thiện tuy nhỏ mà công đức lớn, nếu chỉ vì lợi
ích cho mình hay gia đình, như thế tuy lớn mà cũng là nhỏ.
Thế nào gọi là nan thiện – dị thiện
(Thiện khó làm – thiện dễ làm)?
(Thiện khó làm – thiện dễ làm)?
Cũng giống như tu thân khắc kỷ, cũng
cần khắc phục từ chỗ khó khắc phục, thì lỗi lầm nhỏ cũng không thể phạm. Như
mười năm tích góp nhịn ăn nhịn tiêu, trả nợ thay cho người khác, cứu sống vợ
con người ta, ở trên nói việc dốc túi giúp nhau, nghĩ tưởng người khác, vì việc
người khác nghĩ tưởng, đây là vấn đề tốt có thể nói là khó xả mà có thể xả,
việc thiện này rất khó làm mà rất đáng quý, mà phước cũng rất là hậu. Người có
tiền tài thế lực, làm việc thiện rất là dễ, dễ mà không chịu làm, tức là thiện
dễ làm mà không làm thì giàu mà bất nhân.
cần khắc phục từ chỗ khó khắc phục, thì lỗi lầm nhỏ cũng không thể phạm. Như
mười năm tích góp nhịn ăn nhịn tiêu, trả nợ thay cho người khác, cứu sống vợ
con người ta, ở trên nói việc dốc túi giúp nhau, nghĩ tưởng người khác, vì việc
người khác nghĩ tưởng, đây là vấn đề tốt có thể nói là khó xả mà có thể xả,
việc thiện này rất khó làm mà rất đáng quý, mà phước cũng rất là hậu. Người có
tiền tài thế lực, làm việc thiện rất là dễ, dễ mà không chịu làm, tức là thiện
dễ làm mà không làm thì giàu mà bất nhân.
Bàn về cái thiện, lấy “chủ nghĩa công
lợi” là điểm xuất phát, làm bất kỳ việc thiện nào, trước tiên xét cái gốc thành
công hiệu quả tác dụng, quả báo và danh lợi…, xác nhận sự thu hoạch được, rồi
mới làm; hạng người này không phải bình thường vô cớ cho anh của tiền, họ nhất
định có mưu đồ rồi.
lợi” là điểm xuất phát, làm bất kỳ việc thiện nào, trước tiên xét cái gốc thành
công hiệu quả tác dụng, quả báo và danh lợi…, xác nhận sự thu hoạch được, rồi
mới làm; hạng người này không phải bình thường vô cớ cho anh của tiền, họ nhất
định có mưu đồ rồi.
Thiện – thương người như mình; do hạng
người này đã phá trừ được “ngã chấp”, cho nên có thể quên mình, mà đạt đến cảnh
giới thương người như mình, nhưng vì họ chưa phá trừ “pháp chấp”, cho nên lúc
làm việc thiện, trong tâm vẫn còn có quan niệm trừu tượng, vì họ mang lấy danh
– tướng, cho nên chưa làm được sự tự tại tuyệt đối.
người này đã phá trừ được “ngã chấp”, cho nên có thể quên mình, mà đạt đến cảnh
giới thương người như mình, nhưng vì họ chưa phá trừ “pháp chấp”, cho nên lúc
làm việc thiện, trong tâm vẫn còn có quan niệm trừu tượng, vì họ mang lấy danh
– tướng, cho nên chưa làm được sự tự tại tuyệt đối.
Thiện – rất hoàn mỹ; làm thiện không
những không cầu đáp trả, mà còn không phân biệt người và ta, thậm chí cũng
không gánh vác bất kỳ một danh – tướng nào. Tâm từ bi của hạng người này là
không có điều kiện mà không có hạn lượng. Vì lúc họ hành thiện, ngay cả một
chút danh tướng mang lấy cũng không có, cho nên rất chân thành, rất tự nhiên,
cũng rất là vui vẻ, đây tức là cả ba vòng cái thể đều KHÔNG (tam luân thể
không).
những không cầu đáp trả, mà còn không phân biệt người và ta, thậm chí cũng
không gánh vác bất kỳ một danh – tướng nào. Tâm từ bi của hạng người này là
không có điều kiện mà không có hạn lượng. Vì lúc họ hành thiện, ngay cả một
chút danh tướng mang lấy cũng không có, cho nên rất chân thành, rất tự nhiên,
cũng rất là vui vẻ, đây tức là cả ba vòng cái thể đều KHÔNG (tam luân thể
không).
Người bước đầu học Phật hành thiện, thì
khó tránh khỏi sẽ có chấp trước, đợi sau khi công phu tu dưỡng thuần thục, thì
có thể vượt qua sự trói buộc và dẫn dắt của danh tướng.
khó tránh khỏi sẽ có chấp trước, đợi sau khi công phu tu dưỡng thuần thục, thì
có thể vượt qua sự trói buộc và dẫn dắt của danh tướng.
Lớn hay nhỏ của thiện nghiệp đều xem
nơi gốc trình độ trong sạch chân thành của tâm con người mà định. Như tâm có
thể chân thành trong sạch đến cực điểm (tức là dừng ở nơi chí thiện), không có
một chút cặn bã, tức là đại thiện. Nếu tâm không trong sạch, dừng ở nơi tính
toán gọi là tiểu thiện. Ví như người giàu có bố thí tiền làm việc thiện, hết
sức xuất ra mấy trăm vạn đồng, nếu có một chút ơn huệ bố thí nào mong được báo
đáp dù là tiếng khen, tâm cầu phước làm công đức đó, nhân thiện cũng không chân
thành thiết tha, như có một người khác, của tiền ít ỏi, chỉ có thể thí vài mươi
đồng, thuần tuý phát ra từ tâm từ bi, không xen lộn mảy may một ý niệm khác,
thiện nghiệp của người này so với người kia, người mà xuất ra mấy trăm vạn
đồng, thì người này lớn hơn nhiều. Nhưng cái tâm rất chân thành thanh tịnh này
nói đến rất khó. Cho nên tâm thiện chơn thiết, một việc làm có thể muôn việc
thiện.
nơi gốc trình độ trong sạch chân thành của tâm con người mà định. Như tâm có
thể chân thành trong sạch đến cực điểm (tức là dừng ở nơi chí thiện), không có
một chút cặn bã, tức là đại thiện. Nếu tâm không trong sạch, dừng ở nơi tính
toán gọi là tiểu thiện. Ví như người giàu có bố thí tiền làm việc thiện, hết
sức xuất ra mấy trăm vạn đồng, nếu có một chút ơn huệ bố thí nào mong được báo
đáp dù là tiếng khen, tâm cầu phước làm công đức đó, nhân thiện cũng không chân
thành thiết tha, như có một người khác, của tiền ít ỏi, chỉ có thể thí vài mươi
đồng, thuần tuý phát ra từ tâm từ bi, không xen lộn mảy may một ý niệm khác,
thiện nghiệp của người này so với người kia, người mà xuất ra mấy trăm vạn
đồng, thì người này lớn hơn nhiều. Nhưng cái tâm rất chân thành thanh tịnh này
nói đến rất khó. Cho nên tâm thiện chơn thiết, một việc làm có thể muôn việc
thiện.
Thiện mà có tướng tức chẳng phải chí
thiện. Cho nên nói rằng người dừng được ở nơi chí thiện, vô niệm vô tướng, mà
từng giờ từng phút vẫn không lìa tâm đại bi, không xen lộn tâm tư kỷ, tức là
“không giữ ở nơi tướng, như như chẳng động” ở trong kinh đã nói.
thiện. Cho nên nói rằng người dừng được ở nơi chí thiện, vô niệm vô tướng, mà
từng giờ từng phút vẫn không lìa tâm đại bi, không xen lộn tâm tư kỷ, tức là
“không giữ ở nơi tướng, như như chẳng động” ở trong kinh đã nói.
Hơn muôn việc hành trì của Đức Phật
dạy, lấy bố thí làm thứ nhất. Thí tức là xả, tức là làm thiện; người hiền minh
ở trong xả sáu căn, ở ngoài xả sáu trần, tất cả đều có thể xả, thông thường con
người đương nhiên làm không được cảnh giới này, thế thì làm thiện không nên
mong muốn làm lợi mình mà phải mong muốnvì lợi người, lợi chúng sinh thì bên
trong có thể bỏ trừ căn tánh hạ liệt so kè riêng tư, bên ngoài có thể giúp
người nạn gấp, thì đem công vốn có đối với việc làm thiện mà tu trì. Tuy nhiên
ban đầu sẽ cảm thấy miễn cưỡng, nhưng lần lần thì sẽ cảm thấy tâm lý yên ổn.
dạy, lấy bố thí làm thứ nhất. Thí tức là xả, tức là làm thiện; người hiền minh
ở trong xả sáu căn, ở ngoài xả sáu trần, tất cả đều có thể xả, thông thường con
người đương nhiên làm không được cảnh giới này, thế thì làm thiện không nên
mong muốn làm lợi mình mà phải mong muốnvì lợi người, lợi chúng sinh thì bên
trong có thể bỏ trừ căn tánh hạ liệt so kè riêng tư, bên ngoài có thể giúp
người nạn gấp, thì đem công vốn có đối với việc làm thiện mà tu trì. Tuy nhiên
ban đầu sẽ cảm thấy miễn cưỡng, nhưng lần lần thì sẽ cảm thấy tâm lý yên ổn.
Nói rõ bố thí là giúp đỡ người khác, thật
ra vì mình, bởi vì anh làm cái gì thì thu hoạch cái ấy. Của tiền anh bố thí
càng nhiều, chính anh cũng càng có thể thăng hoa cuộc sống tinh thần, “chánh
nhân” là làm việc thiện bố thí rồi, do đây chỗ được mới là giàu có chân chánh
(chánh quả); cho nên nói là bố thí có phước hơn thọ dụng, tiến đến mới có thể
hiểu rõ một cách thuận lợi và “trì giới” một cách thực tiễn.
ra vì mình, bởi vì anh làm cái gì thì thu hoạch cái ấy. Của tiền anh bố thí
càng nhiều, chính anh cũng càng có thể thăng hoa cuộc sống tinh thần, “chánh
nhân” là làm việc thiện bố thí rồi, do đây chỗ được mới là giàu có chân chánh
(chánh quả); cho nên nói là bố thí có phước hơn thọ dụng, tiến đến mới có thể
hiểu rõ một cách thuận lợi và “trì giới” một cách thực tiễn.
Cái mà anh giao ra có hình hay vô hình
mà sự thu hoạch nhìn không thấy; anh bố thí rồi một khoảng thời gian, như con
cái trái lời, thì đã ít phiền anh, nhà người cũng lễ độ đối với anh, làm việc
cũng dễ dàng nhiều… Anh nói: tiền của tôi không đủ xài lấy đâu bố thí? Nếu
như anh có thể tiết kiệm một chút, tính nhập để mà xuất, lấy một gia đình mà dự
toán, trừ những phí dụng tất yếu trong sinh hoạt ra, cái gì đang dùng thì dùng,
phải nhón gọn lại thì nhón gọn, không phải là những khoảng phí tổn tất yếu mà
không được dùng, như là không có việc gấp ra ngoài nên đi xe buýt, chẳng nên đi
taxi… Như vậy không những có tiền để bố thí, mà còn dư tiền để cất giữ! Anh
bố thí mấy trăm đồng, số mục tuy nhỏ, nhưng đây là tiền nhịn ăn nhịn dùng, công
đức đó lớn hơn đại phú ông quyên giúp hơn mấy trăm vạn đồng. Thông thường con
người không có khả năng có thể có nhiều tiền để bố thí, nhưng có thể giữ thái độ
xử thế “chớ vì thiện nhỏ mà không làm”, thiện trong một niệm tức là tu hành.
Con người, không có tâm bố thí, tức khiến giàu có trở lại cũng chưa chắc thấy
được khả năng bố thí. Không thể xả được, nắm đưa ra một phần của tiền cho người
khác, vật ngoài thân, đều xả không được cho người, cần bàn gì đến Bồ tát tâm!
mà sự thu hoạch nhìn không thấy; anh bố thí rồi một khoảng thời gian, như con
cái trái lời, thì đã ít phiền anh, nhà người cũng lễ độ đối với anh, làm việc
cũng dễ dàng nhiều… Anh nói: tiền của tôi không đủ xài lấy đâu bố thí? Nếu
như anh có thể tiết kiệm một chút, tính nhập để mà xuất, lấy một gia đình mà dự
toán, trừ những phí dụng tất yếu trong sinh hoạt ra, cái gì đang dùng thì dùng,
phải nhón gọn lại thì nhón gọn, không phải là những khoảng phí tổn tất yếu mà
không được dùng, như là không có việc gấp ra ngoài nên đi xe buýt, chẳng nên đi
taxi… Như vậy không những có tiền để bố thí, mà còn dư tiền để cất giữ! Anh
bố thí mấy trăm đồng, số mục tuy nhỏ, nhưng đây là tiền nhịn ăn nhịn dùng, công
đức đó lớn hơn đại phú ông quyên giúp hơn mấy trăm vạn đồng. Thông thường con
người không có khả năng có thể có nhiều tiền để bố thí, nhưng có thể giữ thái độ
xử thế “chớ vì thiện nhỏ mà không làm”, thiện trong một niệm tức là tu hành.
Con người, không có tâm bố thí, tức khiến giàu có trở lại cũng chưa chắc thấy
được khả năng bố thí. Không thể xả được, nắm đưa ra một phần của tiền cho người
khác, vật ngoài thân, đều xả không được cho người, cần bàn gì đến Bồ tát tâm!
Có người thường nói: “Đợi lúc ta có
tiền mới bố thí làm việc thiện”. Bố thí không hạn cuộc ở nơi cầm tiền đưa ra,
tức là dùng trí tuệ hoặc thể lực của mình, tuỳ thời đều có thể giúp đỡ người
cần giúp đỡ, mà tuỳ duyên bố thí. Bố thí ở nơi tâm thương xót, tâm đồng tình và
tâm cung kính.
tiền mới bố thí làm việc thiện”. Bố thí không hạn cuộc ở nơi cầm tiền đưa ra,
tức là dùng trí tuệ hoặc thể lực của mình, tuỳ thời đều có thể giúp đỡ người
cần giúp đỡ, mà tuỳ duyên bố thí. Bố thí ở nơi tâm thương xót, tâm đồng tình và
tâm cung kính.
Tài thí có thể độ người khốn đốn ách
nạn, không thể độ người thoát ly sinh tử. Pháp thí có thể độ huệ mạng của
người, có thể siêu xuất luân hồi. Lúc bố thí tâm giữ bình đẳng, lúc tài thí nên
giữ tâm cứu độ, không nên giữ tâm thi ân; lúc pháp thí, phải giữ tâm giúp đời,
không nên giữ tâm danh lợi.
nạn, không thể độ người thoát ly sinh tử. Pháp thí có thể độ huệ mạng của
người, có thể siêu xuất luân hồi. Lúc bố thí tâm giữ bình đẳng, lúc tài thí nên
giữ tâm cứu độ, không nên giữ tâm thi ân; lúc pháp thí, phải giữ tâm giúp đời,
không nên giữ tâm danh lợi.
Bố thí cũng tức là giữ tâm tốt, làm
việc tốt, nói lời tốt; phàm không có tâm, lời, việc lợi ích chúng sinh, đều
không giữ, không nói, không làm.
việc tốt, nói lời tốt; phàm không có tâm, lời, việc lợi ích chúng sinh, đều
không giữ, không nói, không làm.
B. TRÌ GIỚI (không làm các việc ác)
Tu hành trọn dứt sinh tử, ngoài vấn đề
trì giới ra chẳng có thể nói lời dứt sinh tử, dứt sinh tử thì phải giữ gìn cấm
giới cửa Phật! Trì giới trước tiên cần phải biết nhân quả, thì mới biết vì sao
cần phải trì giới? Trì giới tức là khiến hành vi không vượt qua quy củ, không
tạo các món ác nghiệp.
trì giới ra chẳng có thể nói lời dứt sinh tử, dứt sinh tử thì phải giữ gìn cấm
giới cửa Phật! Trì giới trước tiên cần phải biết nhân quả, thì mới biết vì sao
cần phải trì giới? Trì giới tức là khiến hành vi không vượt qua quy củ, không
tạo các món ác nghiệp.
Ý nghĩa của giới tức là “dừng ác sinh
thiện”, dừng mà trừ bỏ tội ác của mười ác, năm nghịch, giúp lớn thiện pháp gọi
là nghĩa giới.
thiện”, dừng mà trừ bỏ tội ác của mười ác, năm nghịch, giúp lớn thiện pháp gọi
là nghĩa giới.
Đức Thích Tôn lúc sắp Niết Bàn, ngài A
Nan thưa hỏi Đức Phật lúc còn tại thế, tôn Phật làm thầy, sau khi Phật nhập
diệt lấy gì làm thầy? Đức Phật dạy rằng: “Lấy giới làm thầy”.
Nan thưa hỏi Đức Phật lúc còn tại thế, tôn Phật làm thầy, sau khi Phật nhập
diệt lấy gì làm thầy? Đức Phật dạy rằng: “Lấy giới làm thầy”.
Cho nên chúng ta là đệ tử của Phật,
hành trì giới luật, mới có “đạo sư”, nếu không có giới hạnh, cũng như không có
thầy truyền.
hành trì giới luật, mới có “đạo sư”, nếu không có giới hạnh, cũng như không có
thầy truyền.
Trong luật tạng của Phật giáo, liên
quan đến giới tướng của luật học rất nhiều, tại gia có: ngũ giới, bát quan trai
giới, thập thiện giới… xuất gia có tỳ kheo giới… Tóm lại,đều lấy năm giới
làm căn bản mà trì cho được tịnh thì những cái nhánh cành (chi mạt giới) cũng
dễ hành trì vậy.
quan đến giới tướng của luật học rất nhiều, tại gia có: ngũ giới, bát quan trai
giới, thập thiện giới… xuất gia có tỳ kheo giới… Tóm lại,đều lấy năm giới
làm căn bản mà trì cho được tịnh thì những cái nhánh cành (chi mạt giới) cũng
dễ hành trì vậy.
Công đức của trì giới, thế tục nói
rằng: “Thọ giới dễ, trì giới khó”, xác định là có lý. Nhưng cũng ở nơi thiện
căn của chúng ta mà có cạn – sâu, quan hệ nghị lực của tín tâm có hay không?
Nếu như đệ tử của Phật giới luật nghiêm tịnh, thì ai chẳng kính ngưỡng? Chư
Phật, Bồ Tát hãy còn hộ niệm, huống gì trời, rồng quỷ thần và con người? Luật
Tứ Phần nói “trì giới có mười món công đức”:
rằng: “Thọ giới dễ, trì giới khó”, xác định là có lý. Nhưng cũng ở nơi thiện
căn của chúng ta mà có cạn – sâu, quan hệ nghị lực của tín tâm có hay không?
Nếu như đệ tử của Phật giới luật nghiêm tịnh, thì ai chẳng kính ngưỡng? Chư
Phật, Bồ Tát hãy còn hộ niệm, huống gì trời, rồng quỷ thần và con người? Luật
Tứ Phần nói “trì giới có mười món công đức”:
1. Đầy đủ chí nguyện, có thể giữ
gìn cấm giới, thì thân tâm thanh tịnh, huệ tánh sáng suốt, tất cả trí – danh –
thệ – nguyện, không món nào là chẳng đầy đủ.
gìn cấm giới, thì thân tâm thanh tịnh, huệ tánh sáng suốt, tất cả trí – danh –
thệ – nguyện, không món nào là chẳng đầy đủ.
2. Như Phật mà học, Đức Phật lúc
ban đầu tu hành, lấy giới làm gốc, mà được chứng quả, hay trì giới kiên cố, đó
cũng là học như Phật.
ban đầu tu hành, lấy giới làm gốc, mà được chứng quả, hay trì giới kiên cố, đó
cũng là học như Phật.
3. Trí không huỷ hoại, giới hạnh thanh
tịnh, thân miệng không lỗi, phàm người có trí vui ưa khen ngợi, mà không chê
bai.
tịnh, thân miệng không lỗi, phàm người có trí vui ưa khen ngợi, mà không chê
bai.
4. Thệ nguyện không thối lui, kiên
trì cấm giới, cầu chứng bồ đề, thệ nguyện tinh tấn, được bất thối chuyển.
trì cấm giới, cầu chứng bồ đề, thệ nguyện tinh tấn, được bất thối chuyển.
5. An trụ hạnh chân chính, kiên cố
giữ cấm giới, cầu chứng được Bồ Đề, ba nghiệp thường thanh tịnh, mà ở nơi chánh
hạnh, an trụ không xả bỏ.
giữ cấm giới, cầu chứng được Bồ Đề, ba nghiệp thường thanh tịnh, mà ở nơi chánh
hạnh, an trụ không xả bỏ.
6. Xả bỏ sinh tử, thọ trì cấm
giới, thì không sát, đạo, dâm, vọng các nghiệp, có thể lìa xa sinh tử, trọn
thoát quả khổ luân hồi.
giới, thì không sát, đạo, dâm, vọng các nghiệp, có thể lìa xa sinh tử, trọn
thoát quả khổ luân hồi.
7. Ưa thích Niết Bàn, kiên trì cấm
giới dứt các vọng tưởng, cho nên nhàm chán khổ sinh tử, ưa thích vui của Niết
Bàn.
giới dứt các vọng tưởng, cho nên nhàm chán khổ sinh tử, ưa thích vui của Niết
Bàn.
8. Được tâm không trói buộc, giới
đức được tròn sáng, tâm thể được trong sạch, tất cả nghiệp duyên phiền não thảy
đều giải thoát, không có hoạn trói buộc.
đức được tròn sáng, tâm thể được trong sạch, tất cả nghiệp duyên phiền não thảy
đều giải thoát, không có hoạn trói buộc.
9. Được tam muội thù thắng, trì
giới thanh tịnh, tâm không tán loạn, thì được thành tựu tam muội, định tánh
hiện tiền, siêu các hữu lậu.
giới thanh tịnh, tâm không tán loạn, thì được thành tựu tam muội, định tánh
hiện tiền, siêu các hữu lậu.
10. Không thiếu của cải tín tâm,
trì giữ giới luật, đối với Phật pháp đủ tâm chánh tín, thời có thể sinh ra tất
cả công đức, pháp và tài không hết.
trì giữ giới luật, đối với Phật pháp đủ tâm chánh tín, thời có thể sinh ra tất
cả công đức, pháp và tài không hết.
Phải biết rằng giới của Phật không thọ
thì thôi, thọ thì không nên huỷ phạm, không phạm thì thôi, phạm thì rốt cuộc
đoạ lạc. Cho nên người trì giới không nên vì “danh” mà động, không bị “lợi” dụ,
không vì uy vũ khuất phục, thân này có thể nát, giới này không nên phá, cho nên
gọi là: giữ giới như đỉnh cao núi thái, đứng một mình chót vót mà không thể
động, đây mới là trì giới.
thì thôi, thọ thì không nên huỷ phạm, không phạm thì thôi, phạm thì rốt cuộc
đoạ lạc. Cho nên người trì giới không nên vì “danh” mà động, không bị “lợi” dụ,
không vì uy vũ khuất phục, thân này có thể nát, giới này không nên phá, cho nên
gọi là: giữ giới như đỉnh cao núi thái, đứng một mình chót vót mà không thể
động, đây mới là trì giới.
“Giới”, là một quy luật, cách luật;
trong Phật giáo có giới luật, cũng có thể nương pháp mà làm; trì giới vốn là
phần trọng yếu của tín đồ Phật giáo tu hành, cho nên gọi “giới là gốc của Bồ Đề
vô thượng”. Lúc Đức Phật còn tại thế, ngài dẫn dạy hàng đệ tử rằng: “lấy giới
làm thầy, giới còn thì pháp còn”. Nói rõ tánh trọng yếu và địa vị “giới”. Trì
giới là duyên tăng thượng. Giới như trăng sáng lớn, hay tiêu tối tăm của đêm
dài. Lấy giới làm thầy, nên cần tôn kính giới, cần siêng hộ giới, tôn trọng
chánh pháp, làm các việc thiện.
trong Phật giáo có giới luật, cũng có thể nương pháp mà làm; trì giới vốn là
phần trọng yếu của tín đồ Phật giáo tu hành, cho nên gọi “giới là gốc của Bồ Đề
vô thượng”. Lúc Đức Phật còn tại thế, ngài dẫn dạy hàng đệ tử rằng: “lấy giới
làm thầy, giới còn thì pháp còn”. Nói rõ tánh trọng yếu và địa vị “giới”. Trì
giới là duyên tăng thượng. Giới như trăng sáng lớn, hay tiêu tối tăm của đêm
dài. Lấy giới làm thầy, nên cần tôn kính giới, cần siêng hộ giới, tôn trọng
chánh pháp, làm các việc thiện.
Giới, giúp cho chúng ta tu thành thiện
pháp, phòng ngăn việc quấy, dừng dứt cái ác, là đạo ngăn cấm cho thân tâm,
khiến thân tâm không làm việc tổn hại chúng sinh, cũng tức là nghĩ ác, làm ác
của mỗi kiểu, mỗi loại từng chút đều không nên có, không nên làm.
pháp, phòng ngăn việc quấy, dừng dứt cái ác, là đạo ngăn cấm cho thân tâm,
khiến thân tâm không làm việc tổn hại chúng sinh, cũng tức là nghĩ ác, làm ác
của mỗi kiểu, mỗi loại từng chút đều không nên có, không nên làm.
Cần được tất cả thiện pháp, thì quyết
phải cần trì giới, vì tất cả thiện pháp thanh tịnh chỗ có, đều ắt phải bắt đầu
từ giới luật. Cho nên trì giới chỉ là một thủ đoạn, phương tiện mà thôi, không
phải là mục đích. Song nguyên nhân của trì giới chính là thông qua mình lề lối
trang nghiêm, mới có thể đả phá, bỏ trừ được tất cả tậc chứng của bản thân,
triệt để mở bày giải thoát mê hoặc của tất cả ngoại cảnh, mà đạt đến Niết Bàn.
Giới cũng giống như pháp luật của quốc gia. Quốc gia có pháp luật, mọi người
tuân thủ pháp luật, xã hội mới có thể tốt đẹp, hòa bình, an lạc. Cho nên nói
rằng “giới mà không giới”.
phải cần trì giới, vì tất cả thiện pháp thanh tịnh chỗ có, đều ắt phải bắt đầu
từ giới luật. Cho nên trì giới chỉ là một thủ đoạn, phương tiện mà thôi, không
phải là mục đích. Song nguyên nhân của trì giới chính là thông qua mình lề lối
trang nghiêm, mới có thể đả phá, bỏ trừ được tất cả tậc chứng của bản thân,
triệt để mở bày giải thoát mê hoặc của tất cả ngoại cảnh, mà đạt đến Niết Bàn.
Giới cũng giống như pháp luật của quốc gia. Quốc gia có pháp luật, mọi người
tuân thủ pháp luật, xã hội mới có thể tốt đẹp, hòa bình, an lạc. Cho nên nói
rằng “giới mà không giới”.
Giới là dẫn dạy chúng ta tránh sao để
khỏi phạm lỗi lầm, và cảnh tỉnh chúng ta nếu vượt qua phạm vi giới luật, phải
chịu sự báo ứng của nhân quả. Giới không phải là dùng để trói buộc người tu
hành. Là giống như pháp luật của quốc gia, là muốn chúng ta chẳng nên phạm, nếu
phạm rồi, thì sẽ phải chịu sự khống chế, khiến cho anh phải chịu sự báo ứng của
thân hiện tại.
khỏi phạm lỗi lầm, và cảnh tỉnh chúng ta nếu vượt qua phạm vi giới luật, phải
chịu sự báo ứng của nhân quả. Giới không phải là dùng để trói buộc người tu
hành. Là giống như pháp luật của quốc gia, là muốn chúng ta chẳng nên phạm, nếu
phạm rồi, thì sẽ phải chịu sự khống chế, khiến cho anh phải chịu sự báo ứng của
thân hiện tại.
Giới, không những biểu hiện quy củ mô
phạm của hành vi tình cảm đối với con người mà còn biểu hiện quy củ mô phạm của
sự thật và tư tưởng đối với con người.
phạm của hành vi tình cảm đối với con người mà còn biểu hiện quy củ mô phạm của
sự thật và tư tưởng đối với con người.
Cuộc sống ngày thường của chúng ta tuỳ
tiện một câu nói, một việc làm có thể khiến chúng ta cao hứng, cũng có thể
khiến chúng ta giận dỗi, đều là do người khác nắm giữ chúng ta, ngay cả ưa,
giận, buồn, vui cũng đều không có cách nào đối trị, tu hành làm sao có sự thành
tựu!
tiện một câu nói, một việc làm có thể khiến chúng ta cao hứng, cũng có thể
khiến chúng ta giận dỗi, đều là do người khác nắm giữ chúng ta, ngay cả ưa,
giận, buồn, vui cũng đều không có cách nào đối trị, tu hành làm sao có sự thành
tựu!
Đệ tử Phật cần phải khéo hộ giữ giới
luật, không như vậy thì ở nơi giới pháp tức khiến có sự rò rỉ mà lọt mất, cũng
có thể khiến cho hành giả trở lại nơi biển khổ sinh tử đoạ lạc luân hồi không
thôi, đây là tánh trọng yếu của giới luật, người có tâm học Phật tu hành không
thể không xem trọng giới luật.
luật, không như vậy thì ở nơi giới pháp tức khiến có sự rò rỉ mà lọt mất, cũng
có thể khiến cho hành giả trở lại nơi biển khổ sinh tử đoạ lạc luân hồi không
thôi, đây là tánh trọng yếu của giới luật, người có tâm học Phật tu hành không
thể không xem trọng giới luật.
Giới, là đình chỉ cái ác, thì tại sao
là ác? Phàm là bồng bột ở nơi luân lý xã hội và lương tâm đạo đức, trái phạm
pháp luật quốc gia, tức là ác; tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi làm tổn hại chúng
sinh, tức là ác, trái phạm mười thiện nghiệp tức là ác.
là ác? Phàm là bồng bột ở nơi luân lý xã hội và lương tâm đạo đức, trái phạm
pháp luật quốc gia, tức là ác; tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi làm tổn hại chúng
sinh, tức là ác, trái phạm mười thiện nghiệp tức là ác.
Trì giới lấy sự “nhiếp tâm” làm gốc,
thân và miệng tuy không phạm giới mà tâm buông lung, chẳng gọi là trì giới, ắt
cần phải thu nhiếp tâm ý, thân và miệng cố không phạm, vọng niệm cũng không sinh,
mới gọi là trì giới. Trì giới tức là thủ phép, giữ quy củ, giữ trật tự. Không
chỉ là giữ năm giới, mười nghiệp thiện.
thân và miệng tuy không phạm giới mà tâm buông lung, chẳng gọi là trì giới, ắt
cần phải thu nhiếp tâm ý, thân và miệng cố không phạm, vọng niệm cũng không sinh,
mới gọi là trì giới. Trì giới tức là thủ phép, giữ quy củ, giữ trật tự. Không
chỉ là giữ năm giới, mười nghiệp thiện.
Nhiếp tâm không động như gió ngừng sóng
lặng. Nghe được thấy được cái gì tốt, cái gì xấu đều không mong muốn. Một khi
muốn thì tâm liền động, chẳng thể yên tịnh, không tịnh thì chẳng thể định,
không định thì huệ không phát.
lặng. Nghe được thấy được cái gì tốt, cái gì xấu đều không mong muốn. Một khi
muốn thì tâm liền động, chẳng thể yên tịnh, không tịnh thì chẳng thể định,
không định thì huệ không phát.
Người bước đầu nghe Phật pháp, phần
nhiều sanh tâm sợ sệt, nói rằng: “ái ái da, Phật pháp nghiêm quá! Thế này cũng
phạm giới, thế kia cũng phạm giới!”; cho nên hãi sợ, chẳng chịu thọ giới, chẳng
chịu trì giới. Nếu trong lòng không giữ tâm riêng tư tự lợi, không giữ niệm tâm
tổn hại chúng sinh, có gì mà sợ lắm vậy! Pháp luật quốc gia nhiều như thế, anh
không phạm luật, pháp quan làm gì được anh, anh không phải là sống tự do tự tại
sao? Trì giới, thọ giới, có gì mà sợ lắm vậy? tức là sợ anh không muốn làm
người tốt, nên mới sợ thọ giới! Cách thường nói, sáu đường chúng sinh là đồng
đẳng đối đãi cũng còn tốt, tức là khổ – vui không phải một kiểu; nếu học Phật
mà không trì giới, một khi mất thân người, rơi rớt trong ba đường ác chịu khổ,
thế mới đáng sợ! Trì giới chính là “thuốc kim đơn” cứu pháp thân huệ mạng của
chúng ta. Nếu hiểu rằng sinh tử có số phần đã định, đó là con ma cháu ma. Nếu
không cam tâm đoạ lạc trong ba đường ác, thì nên cẩn thận trì giới! Giới vốn
không dễ trì, vì không chạy theo thế tục, nên phát không được tâm trì giới. Trì
giới cũng giống như rèn sắt, nung rồi nung, đập rồi đập, bỏ những sái vụn (sái
vụn tức là tập khí) thường thường đưa vào lửa, thường thường đập rèn… đâu
phải làm một cái là xong sao? Ngồi dưới tam bảo của Như Lai, đều không ăn thịt,
ngay lúc ban đầu không phải là không muốn ăn đâu! Nhưng tập lâu rồi không ăn
được. Nếu tâm niệm một khi sinh ra tức liền quở trách, như rèn sắt đánh hết những
sái vụn. Tất cả đều là từ từ mà mài luyện, thọ không được miễn cưỡng thọ, trì
không được miễn cưỡng trì, chẳng sợ trì không được mà chỉ sợ không phát tâm.
Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, đưa chung ra không phải e dè chúng ta phạm
giới, nhưng các thần hộ giới, họ thì không dung cho người phạm giới. Phạm nhiều
không bằng phạm ít, phạm ít không bằng chẳng phạm. Chư Phật, Bồ Tát từ bi với
chúng ta, tự chúng ta không từ bi với mình.
nhiều sanh tâm sợ sệt, nói rằng: “ái ái da, Phật pháp nghiêm quá! Thế này cũng
phạm giới, thế kia cũng phạm giới!”; cho nên hãi sợ, chẳng chịu thọ giới, chẳng
chịu trì giới. Nếu trong lòng không giữ tâm riêng tư tự lợi, không giữ niệm tâm
tổn hại chúng sinh, có gì mà sợ lắm vậy! Pháp luật quốc gia nhiều như thế, anh
không phạm luật, pháp quan làm gì được anh, anh không phải là sống tự do tự tại
sao? Trì giới, thọ giới, có gì mà sợ lắm vậy? tức là sợ anh không muốn làm
người tốt, nên mới sợ thọ giới! Cách thường nói, sáu đường chúng sinh là đồng
đẳng đối đãi cũng còn tốt, tức là khổ – vui không phải một kiểu; nếu học Phật
mà không trì giới, một khi mất thân người, rơi rớt trong ba đường ác chịu khổ,
thế mới đáng sợ! Trì giới chính là “thuốc kim đơn” cứu pháp thân huệ mạng của
chúng ta. Nếu hiểu rằng sinh tử có số phần đã định, đó là con ma cháu ma. Nếu
không cam tâm đoạ lạc trong ba đường ác, thì nên cẩn thận trì giới! Giới vốn
không dễ trì, vì không chạy theo thế tục, nên phát không được tâm trì giới. Trì
giới cũng giống như rèn sắt, nung rồi nung, đập rồi đập, bỏ những sái vụn (sái
vụn tức là tập khí) thường thường đưa vào lửa, thường thường đập rèn… đâu
phải làm một cái là xong sao? Ngồi dưới tam bảo của Như Lai, đều không ăn thịt,
ngay lúc ban đầu không phải là không muốn ăn đâu! Nhưng tập lâu rồi không ăn
được. Nếu tâm niệm một khi sinh ra tức liền quở trách, như rèn sắt đánh hết những
sái vụn. Tất cả đều là từ từ mà mài luyện, thọ không được miễn cưỡng thọ, trì
không được miễn cưỡng trì, chẳng sợ trì không được mà chỉ sợ không phát tâm.
Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, đưa chung ra không phải e dè chúng ta phạm
giới, nhưng các thần hộ giới, họ thì không dung cho người phạm giới. Phạm nhiều
không bằng phạm ít, phạm ít không bằng chẳng phạm. Chư Phật, Bồ Tát từ bi với
chúng ta, tự chúng ta không từ bi với mình.
“Thọ được giới”, thì cần phải nhận rõ
vấn đề “trì giới”. So như anh không sát sinh, anh muốn là không thọ giới, anh
không sát sinh thì là không tạo lỗi xấu, đành vậy, nhưng anh cũng chẳng tạo
công đức gì khác, anh lại không cứu người, anh có công đức gì? Những việc anh
thọ năm giới, anh không sát sinh, anh cũng có công đức trì giới. Ngược lại mà
nhìn, nếu là người không thọ giới, giết người rồi tức là một tội báo, anh thiếu
người ta một mạng, tương lai sẽ phải trả người ta một mạng. Anh giết con vật mà
ăn, tương lai người ta sẽ đem anh ra giết thịt để mà ăn, đây là bình đẳng; nhưng
không có tội phá giới. Nếu là thọ giới rồi, sau khi anh bắt vịt để giết thịt ăn
rồi, đời sau anh bị biến thành vịt bị người ta giết ăn, ở đây anh còn thêm một
tội phá giới. Tội phá giới thì càng lớn nhiều, cho nên trì giới tức là thế này,
anh trì được ổn định, công đức rất là lớn.
vấn đề “trì giới”. So như anh không sát sinh, anh muốn là không thọ giới, anh
không sát sinh thì là không tạo lỗi xấu, đành vậy, nhưng anh cũng chẳng tạo
công đức gì khác, anh lại không cứu người, anh có công đức gì? Những việc anh
thọ năm giới, anh không sát sinh, anh cũng có công đức trì giới. Ngược lại mà
nhìn, nếu là người không thọ giới, giết người rồi tức là một tội báo, anh thiếu
người ta một mạng, tương lai sẽ phải trả người ta một mạng. Anh giết con vật mà
ăn, tương lai người ta sẽ đem anh ra giết thịt để mà ăn, đây là bình đẳng; nhưng
không có tội phá giới. Nếu là thọ giới rồi, sau khi anh bắt vịt để giết thịt ăn
rồi, đời sau anh bị biến thành vịt bị người ta giết ăn, ở đây anh còn thêm một
tội phá giới. Tội phá giới thì càng lớn nhiều, cho nên trì giới tức là thế này,
anh trì được ổn định, công đức rất là lớn.
Trong vấn đề phạm giới, điều rất tệ hại
là phỉ báng pháp. Ví dụ như Phật pháp là giả, vấn đề huỷ báng này chúng ta
chẳng nên, nhưng chúng ta vẫn cứ huỷ báng. Anh nói theo người khác, nói kinh
điển nào là giả, hiểu rõ người nào là thiện tri thức, có người chê bai người
khác, anh theo nơi cái nghe phụ hoạ nói người khác là thiếu công đức; đây đều
thuộc về vấn đề huỷ báng. Khoe khoang không khác gì là tăng thêm sự huỷ báng,
giữ trong lòng không nói ra là giảm ít sự huỷ báng, tội của sự huỷ báng rất là
nặng.
là phỉ báng pháp. Ví dụ như Phật pháp là giả, vấn đề huỷ báng này chúng ta
chẳng nên, nhưng chúng ta vẫn cứ huỷ báng. Anh nói theo người khác, nói kinh
điển nào là giả, hiểu rõ người nào là thiện tri thức, có người chê bai người
khác, anh theo nơi cái nghe phụ hoạ nói người khác là thiếu công đức; đây đều
thuộc về vấn đề huỷ báng. Khoe khoang không khác gì là tăng thêm sự huỷ báng,
giữ trong lòng không nói ra là giảm ít sự huỷ báng, tội của sự huỷ báng rất là
nặng.
Đối với giới, người thọ giới rồi nếu
làm việc xấu thì thảm hại hơn nhiều so với người chẳng thọ giới. Cho nên chúng
ta thọ giới rồi không thể không hiểu rõ về giới. Cần giữ gìn không phạm. Giới
bị phá rồi, anh cũng như vật bị lủng lọt. Như cái bát bị lủng, đổ nước vào một
hồi sẽ chảy mất hết. Cho nên “kiên trì giới luật”mấy chữ này phải ráng ghi nhớ
lấy trong lòng.
làm việc xấu thì thảm hại hơn nhiều so với người chẳng thọ giới. Cho nên chúng
ta thọ giới rồi không thể không hiểu rõ về giới. Cần giữ gìn không phạm. Giới
bị phá rồi, anh cũng như vật bị lủng lọt. Như cái bát bị lủng, đổ nước vào một
hồi sẽ chảy mất hết. Cho nên “kiên trì giới luật”mấy chữ này phải ráng ghi nhớ
lấy trong lòng.
Không giữ cấm giới, thì chẳng thể giữ
tâm, không tu trí tuệ, buông lung ý niệm, chỉ cầu danh tốt, không thuận lời dạy
đạo, chẳng chịu siêng năng ưa chuộng nghĩa độ đời.
tâm, không tu trí tuệ, buông lung ý niệm, chỉ cầu danh tốt, không thuận lời dạy
đạo, chẳng chịu siêng năng ưa chuộng nghĩa độ đời.
Nhưng mà giới luật của Phật giáo rất
nhiều, như là Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới… rất cơ bản là năm giới, chúng
tại gia trì năm giới mười thiện nghiệp.
nhiều, như là Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới… rất cơ bản là năm giới, chúng
tại gia trì năm giới mười thiện nghiệp.
Trì giới quyết cần phải không thời
khắc, tuỳ thời tuỳ chỗ đều nên phải sinh khởi chánh niệm (niệm chánh đáng),
quyết cần phải dứt khoát đủ niệm đầu và lý tưởng chân chánh, nên lấy đại từ và
đại bi làm nguyên tắc, do đó ở trong tình huống xấu ác niệm không theo đó mà
sinh khởi, tự nhiên có thể ngăn dừng ý nghiệp; đã không có ý nghiệp, tức không
có thân nghiệp và khẩu nghiệp, ba nghiệp tức được thanh tịnh.
khắc, tuỳ thời tuỳ chỗ đều nên phải sinh khởi chánh niệm (niệm chánh đáng),
quyết cần phải dứt khoát đủ niệm đầu và lý tưởng chân chánh, nên lấy đại từ và
đại bi làm nguyên tắc, do đó ở trong tình huống xấu ác niệm không theo đó mà
sinh khởi, tự nhiên có thể ngăn dừng ý nghiệp; đã không có ý nghiệp, tức không
có thân nghiệp và khẩu nghiệp, ba nghiệp tức được thanh tịnh.
C. NHẪN NHỤC
Nhẫn là tâm có thể nhẫn, nhục là cảnh
được nhẫn. Tức là nhẫn nại tất cả khổ đau, chịu được sự khinh khi lăng mạ,
không tranh đấu với người khác. Thường tình rất là khó nhẫn, chẳng gì bằng bị
hiếp đáp nhục nhã, nhục mà nếu có thể nhẫn, thì nhẫn với cái khác so ra cũng dễ
làm được. Đối với sự nhục mạ gia hại của người khác, không sinh tâm sân hận,
gọi là nhẫn nhục. Nhẫn nhục cũng là nhẫn nại, không luận làm công việc gì, đều
cần có lòng nhẫn nại.
được nhẫn. Tức là nhẫn nại tất cả khổ đau, chịu được sự khinh khi lăng mạ,
không tranh đấu với người khác. Thường tình rất là khó nhẫn, chẳng gì bằng bị
hiếp đáp nhục nhã, nhục mà nếu có thể nhẫn, thì nhẫn với cái khác so ra cũng dễ
làm được. Đối với sự nhục mạ gia hại của người khác, không sinh tâm sân hận,
gọi là nhẫn nhục. Nhẫn nhục cũng là nhẫn nại, không luận làm công việc gì, đều
cần có lòng nhẫn nại.
Nhẫn nhục: đối với việc lợi dưỡng, suy
tàn, chê bai, khen ngợi, xứng ý, quở trách, khổ não, vui vẻ – tám việc ấy đều
để ra bên ngoài, đối việc trái ngược tâm tư, đều an tâm nhẫn chịu, tức gặp
người chửi mình, đánh mình, thậm chí giết mình, nên giữ lấy sự báo ơn ở nơi tâm
Bồ Tát, xem những việc này, dùng để tiêu trừ nghiệp chướng đời trước của ta,
giúp nhân duyên cho ta thành Phật, lại nữa Bồ Tátcũng chẳng phải giả trau chuốt
diện mạo bên ngoài, bướng bỉnh chịu lấy sự ăn thiếu thốn, để rộng chứa danh
nhẫn có thể so sánh.
tàn, chê bai, khen ngợi, xứng ý, quở trách, khổ não, vui vẻ – tám việc ấy đều
để ra bên ngoài, đối việc trái ngược tâm tư, đều an tâm nhẫn chịu, tức gặp
người chửi mình, đánh mình, thậm chí giết mình, nên giữ lấy sự báo ơn ở nơi tâm
Bồ Tát, xem những việc này, dùng để tiêu trừ nghiệp chướng đời trước của ta,
giúp nhân duyên cho ta thành Phật, lại nữa Bồ Tátcũng chẳng phải giả trau chuốt
diện mạo bên ngoài, bướng bỉnh chịu lấy sự ăn thiếu thốn, để rộng chứa danh
nhẫn có thể so sánh.
Pháp môn nhẫn nhục, từ cạn đến sâu có
năm việc không đồng:
năm việc không đồng:
1. Sanh nhẫn:
Tức là mỗi khi bị nỗi nhục đến, không
cách chạy trốn, không cách chống cự, chỉ nên kiên cường một lòng nhẫn nại với nó,
nhưng tâm lý cảm thấy khó thọ nhận, đau khổ mười phần, cho nên gọi là sanh
nhẫn.
cách chạy trốn, không cách chống cự, chỉ nên kiên cường một lòng nhẫn nại với nó,
nhưng tâm lý cảm thấy khó thọ nhận, đau khổ mười phần, cho nên gọi là sanh
nhẫn.
2. Lực nhẫn:
Chúng ta đối với nỗi nhục khi nó đến,
không để cho người khác bàn bạc, dùng sức khả năng rất lớn, lui một bước,
nhường ba phần, đem nó đè ép xuống, một lòng xưng niệm danh hiệu Phật, nhờ sức
từ của danh hiệu Phật, đem tâm phẫn hận mà an định, cũng giống như đè bình hồ
lô trên mặt nước, chẳng thể buông tay, một khi buông ra thì hồ lô lập tức nổi
trở lại, nên gọi là lực nhẫn.
không để cho người khác bàn bạc, dùng sức khả năng rất lớn, lui một bước,
nhường ba phần, đem nó đè ép xuống, một lòng xưng niệm danh hiệu Phật, nhờ sức
từ của danh hiệu Phật, đem tâm phẫn hận mà an định, cũng giống như đè bình hồ
lô trên mặt nước, chẳng thể buông tay, một khi buông ra thì hồ lô lập tức nổi
trở lại, nên gọi là lực nhẫn.
Hai việc nhẫn trên đây gọi là sự nhẫn
3. Duyên nhẫn:
Ngay lúc nỗi nhục hiện ra, chúng ta
dùng trí tuệ một mực “hồi quang phản chiếu” (chiếu rọi lại tự thân tâm mình),
tu phép quán nhân duyên. Chín chắn mà nghiên cứu vì sao vô cớ lại chịu nhục, bị
đòn, bị chửi mắng, trong đó nhất định có những nguyên nhân. Bị ngừơi hiếp đáp
làm nhục đều là nhân duyên đời trước mà quả ác bây giờ cảm chiêu lấy, nên đời
này theo nghiệp mà thọ báo. Là cho ý tưởng thọ báo trở thành ý tưởng trả nợ, tự
nhiên lấy nỗi nhục khó có thể nhẫn thọ, ngược lại là thọ một cách thuận tiện,
tâm tình thoải mái, không sinh sân hận, cho nên gọi là duyên nhẫn.
dùng trí tuệ một mực “hồi quang phản chiếu” (chiếu rọi lại tự thân tâm mình),
tu phép quán nhân duyên. Chín chắn mà nghiên cứu vì sao vô cớ lại chịu nhục, bị
đòn, bị chửi mắng, trong đó nhất định có những nguyên nhân. Bị ngừơi hiếp đáp
làm nhục đều là nhân duyên đời trước mà quả ác bây giờ cảm chiêu lấy, nên đời
này theo nghiệp mà thọ báo. Là cho ý tưởng thọ báo trở thành ý tưởng trả nợ, tự
nhiên lấy nỗi nhục khó có thể nhẫn thọ, ngược lại là thọ một cách thuận tiện,
tâm tình thoải mái, không sinh sân hận, cho nên gọi là duyên nhẫn.
Người xưa nói rằng: “có tâm bao dung
thì đức mới lớn, không tham muốn thì khí mới trùm”.
thì đức mới lớn, không tham muốn thì khí mới trùm”.
4. Quán nhẫn:
Mỗi khi ngay lúc nỗi nhục phát sinh,
thì dùng trí tuệ “không quán” ra để mà chiếu rọi quan sát, rõ được tâm, thân,
thế giới, tất cả các pháp, xưa nay “vô ngã” để được (không có cái gì ta có thể
được). “Ngã” là không, thì trong đó còn có ngã nào bị hiếp đáp nhục nhã ư?cho
đến cảnh giới bị nhục? Đây tức là “tướng ngã” có khả năng KHÔNG và “nỗi nhục”
được KHÔNG, cả hai cái hoàn toàn là KHÔNG, cho nên “tướng nhục” ở khoảng giữa,
đương nhiên cũng là trọn không thể có được. Cũng vậy, tâm sân hận của muôn việc
ác đó tự nhiện sẽ không thể phát sinh. Cho nên gọi là quán nhẫn.
thì dùng trí tuệ “không quán” ra để mà chiếu rọi quan sát, rõ được tâm, thân,
thế giới, tất cả các pháp, xưa nay “vô ngã” để được (không có cái gì ta có thể
được). “Ngã” là không, thì trong đó còn có ngã nào bị hiếp đáp nhục nhã ư?cho
đến cảnh giới bị nhục? Đây tức là “tướng ngã” có khả năng KHÔNG và “nỗi nhục”
được KHÔNG, cả hai cái hoàn toàn là KHÔNG, cho nên “tướng nhục” ở khoảng giữa,
đương nhiên cũng là trọn không thể có được. Cũng vậy, tâm sân hận của muôn việc
ác đó tự nhiện sẽ không thể phát sinh. Cho nên gọi là quán nhẫn.
5. Từ nhẫn:
Bồ tát mỗi khi gặp nỗi nhục đến, không
những không sinh tâm sân hận, mà ngược lại phát tâm từ bi, thương xót nghĩ
tưởng người này thực tại ngu si đáng thương, vô lý chuốc lấy ồn ào, vọng sinh
nhánh nhóc. Hiện tại đánh chửi, làm nhục ta, ta có thể nhẫn thọ, như không có
việc đó, chẳng thể báo trả lại. Nếu đối với người khác mặc ý huỷ nhục, nhất
định phải chịu đến lúc đáp trả lại, chửi nhau, đánh nhau, đây kỳ thật cũng tức
là mượn miệng người khác chửi mình, mượn tay người khác đánh mình. Càng nghiêm
trọng thậm chí phát triển đến thương tật tàn phếnhân mạng, chịu lấy sự phán xét
của pháp luật, tương lai khó trốn khỏi sự báo ứng của nhân quả, do đó khởi “vô
duyên đại từ” phát xuất “đồng thể đại bi”, tuỳ nghi phương tiện giáo hóa, khiến
cho người khác hiểu rõ qua lại, biết lỗi phải sửa đổi, dứt ác tu thiện, cho nên
gọi là từ nhẫn.
những không sinh tâm sân hận, mà ngược lại phát tâm từ bi, thương xót nghĩ
tưởng người này thực tại ngu si đáng thương, vô lý chuốc lấy ồn ào, vọng sinh
nhánh nhóc. Hiện tại đánh chửi, làm nhục ta, ta có thể nhẫn thọ, như không có
việc đó, chẳng thể báo trả lại. Nếu đối với người khác mặc ý huỷ nhục, nhất
định phải chịu đến lúc đáp trả lại, chửi nhau, đánh nhau, đây kỳ thật cũng tức
là mượn miệng người khác chửi mình, mượn tay người khác đánh mình. Càng nghiêm
trọng thậm chí phát triển đến thương tật tàn phếnhân mạng, chịu lấy sự phán xét
của pháp luật, tương lai khó trốn khỏi sự báo ứng của nhân quả, do đó khởi “vô
duyên đại từ” phát xuất “đồng thể đại bi”, tuỳ nghi phương tiện giáo hóa, khiến
cho người khác hiểu rõ qua lại, biết lỗi phải sửa đổi, dứt ác tu thiện, cho nên
gọi là từ nhẫn.
Ba món nhẫn này gọi là lý nhẫn.
Nhẫn nhục không những là nhẫn cái nhục
của người khác đem đến cho mình, đồng thời càng phải nhẫn cảnh chính mình gặp
gỡ. Nếu ở trong nghịch cảnh khốn cùng bệnh khổ, nhẫn khiến cho niệm suy đồi,
thấp hèn không sinh; ở trong thuận cảnh giàu sang, nhẫn khiến cho niệm kiêu
căng, mê đắm không khởi; ở trong thường cảnh không thuận không nghịch, muôn
pháp sinh diệt, nhẫn khiến cho niệm dời theo sự di dịch không sinh, chịu sự
hiếp đáp nhục nhã không sinh sân hận, gặp sự khen ngợi không sinh hoan hỉ.
của người khác đem đến cho mình, đồng thời càng phải nhẫn cảnh chính mình gặp
gỡ. Nếu ở trong nghịch cảnh khốn cùng bệnh khổ, nhẫn khiến cho niệm suy đồi,
thấp hèn không sinh; ở trong thuận cảnh giàu sang, nhẫn khiến cho niệm kiêu
căng, mê đắm không khởi; ở trong thường cảnh không thuận không nghịch, muôn
pháp sinh diệt, nhẫn khiến cho niệm dời theo sự di dịch không sinh, chịu sự
hiếp đáp nhục nhã không sinh sân hận, gặp sự khen ngợi không sinh hoan hỉ.
Nhẫn nhục không chỉ là nhẫn sụ hiếp đáp
nhục nhã, giết hại, hai cảnh thuận nghịch trên tâm lý, mà cần phải nhẫn đói
khát, lạnh, nóng, thương đau, các khổ trên sinhlý. Nhẫn nhục là chiến đấu cùng
với phiền não của nội tâm, phiền não từng lúc máy độngở nơi tâm của ta và
người, nếu một lòng không chịu nhẫn, tức phiền não sẽ chiếm cứ vị trí trên tâm
của người ta.
nhục nhã, giết hại, hai cảnh thuận nghịch trên tâm lý, mà cần phải nhẫn đói
khát, lạnh, nóng, thương đau, các khổ trên sinhlý. Nhẫn nhục là chiến đấu cùng
với phiền não của nội tâm, phiền não từng lúc máy độngở nơi tâm của ta và
người, nếu một lòng không chịu nhẫn, tức phiền não sẽ chiếm cứ vị trí trên tâm
của người ta.
Nhẫn nhục chủ yếu bao hàm: 1. Tâm nhẫn
nhục phi thường. 2. Nghị lực kiên cường. 3. Xa lìa phẫn nộ. 4. Xa lìa tất cả
xung động. 5. Lúc chịu nhục có thể vượt khởi tâm khoan dung tha thứ.
nhục phi thường. 2. Nghị lực kiên cường. 3. Xa lìa phẫn nộ. 4. Xa lìa tất cả
xung động. 5. Lúc chịu nhục có thể vượt khởi tâm khoan dung tha thứ.
Đây là năm món nội tâm nhẫn nhục, mới
là nhẫn nhục chân chánh. Quyết cần phải phát khởi tâm từ bi từ nội tâm, khoan
thứ tất cả, nếu như việc khởi tâm sân hận thì khổ não khó mà kham chịu.
là nhẫn nhục chân chánh. Quyết cần phải phát khởi tâm từ bi từ nội tâm, khoan
thứ tất cả, nếu như việc khởi tâm sân hận thì khổ não khó mà kham chịu.
Nhẫn nhục là một loại biến chiến tranh
thành giao hảo, biến hung ác thành tốt hòa, tiến đến hiện bày đại từ đại bi,
đồng thời cũng là pháp môn chủ yếu”trên cầu phật đạo, dưới giáo hóa chúng
sinh”.
thành giao hảo, biến hung ác thành tốt hòa, tiến đến hiện bày đại từ đại bi,
đồng thời cũng là pháp môn chủ yếu”trên cầu phật đạo, dưới giáo hóa chúng
sinh”.
Nhẫn nhục là: nhẫn cái khí, nhẫn cái
khổ và nhẫn cái vui.
khổ và nhẫn cái vui.
“Nhẫn cái khí”, là nói ngay người khác
hiếp đáp nhục mạ, làm tổn thương, chẳng khởi tâm oán hận, phẫn khí. Không đi kể
lể, không khởi tâm trả báo, chẳng cùng đối phương thường hay gặp biết, là muốn
lui một bước, bất kể người khác đối với ta như thế nào, đều cần phải nhẫn cho
được, tức là chẳng nên phát nóng giận, thêm nữa dùng tâm từ bi để nhìn và tiếp
đãi đối phương, vui vẻ hít vào mà tiêu mất khí nóng; Như người đời: bôi nhọ,
khinh khi, làm nhục, chê cười, dối gạt, khinh tiện, ghét… các việc đối với
ta, phải có cách gì? Nhẫn nhịn, chịu đựng, tránh né, cung kính, không lý sự đối
với họ; đây gọi là cái nghịch đến mà thuận thọ nhận, không nên châm chọc với
nhau, mới là nhẫn khí.
hiếp đáp nhục mạ, làm tổn thương, chẳng khởi tâm oán hận, phẫn khí. Không đi kể
lể, không khởi tâm trả báo, chẳng cùng đối phương thường hay gặp biết, là muốn
lui một bước, bất kể người khác đối với ta như thế nào, đều cần phải nhẫn cho
được, tức là chẳng nên phát nóng giận, thêm nữa dùng tâm từ bi để nhìn và tiếp
đãi đối phương, vui vẻ hít vào mà tiêu mất khí nóng; Như người đời: bôi nhọ,
khinh khi, làm nhục, chê cười, dối gạt, khinh tiện, ghét… các việc đối với
ta, phải có cách gì? Nhẫn nhịn, chịu đựng, tránh né, cung kính, không lý sự đối
với họ; đây gọi là cái nghịch đến mà thuận thọ nhận, không nên châm chọc với
nhau, mới là nhẫn khí.
Người đời hiếp đáp nhục mạ ta, chê bai
ta, là tự mình còn có khuyết điểm,nên phản tĩnh tất cả việc làm của mình, nếu
có khuyết điểm thì dốc sức sửa đổi để tiến bộ. Lúc chịu nhục còn cảm được vận
may, cảm tạ người ta xét nghiệm ta, khiến ta có cơ hội tu “nhẫn nhục”, cảm tạ
họ cho ta tiêu được tai ách. Anh nhẫn rồi, việc không còn, được thái bình. Nếu
nói ta cũng nhẫn không được khẩu khí này, như thế ta làm sao? Cần phải có cái
tư tưởng như thế này: họ chửi ta – còn tốt không đánh ta, họ đánh ta – thật là
vận may họ không giết ta, ngón tay bị đâm một cây gai – còn may mắn không đâm
trong tròng mắt, thì chẳng thể buồn bã hay giận dữ được. Nếu gặp lúc giận, thì
phải nhẫn, biến nhẫn thành tha thứ, tha thứ rồi tha thứ! Cần chuyển xoay tư
tưởng đến chỗ tốt đẹp, nếu chuyển đến chỗ xấu xa, thế thì thảm lắm, khổ não
nhẫy đầy!
ta, là tự mình còn có khuyết điểm,nên phản tĩnh tất cả việc làm của mình, nếu
có khuyết điểm thì dốc sức sửa đổi để tiến bộ. Lúc chịu nhục còn cảm được vận
may, cảm tạ người ta xét nghiệm ta, khiến ta có cơ hội tu “nhẫn nhục”, cảm tạ
họ cho ta tiêu được tai ách. Anh nhẫn rồi, việc không còn, được thái bình. Nếu
nói ta cũng nhẫn không được khẩu khí này, như thế ta làm sao? Cần phải có cái
tư tưởng như thế này: họ chửi ta – còn tốt không đánh ta, họ đánh ta – thật là
vận may họ không giết ta, ngón tay bị đâm một cây gai – còn may mắn không đâm
trong tròng mắt, thì chẳng thể buồn bã hay giận dữ được. Nếu gặp lúc giận, thì
phải nhẫn, biến nhẫn thành tha thứ, tha thứ rồi tha thứ! Cần chuyển xoay tư
tưởng đến chỗ tốt đẹp, nếu chuyển đến chỗ xấu xa, thế thì thảm lắm, khổ não
nhẫy đầy!
Nhẫn khí, không phải là nhẫn thọ, càng
không phải là đem cái khí căm phẫn, buồn phiền ở trong tâm mà đè nén ức chế
chính mình; mà là đối cảnh (chẳng hiểu được) có cảnh, đây mới gọi là nhẫn khí,
như người khác chửi ta, mà không hiểu họ đang chửi ta, mà họ đang chửi chính
mình, hoặc là đang biểu diễn ca múa.
không phải là đem cái khí căm phẫn, buồn phiền ở trong tâm mà đè nén ức chế
chính mình; mà là đối cảnh (chẳng hiểu được) có cảnh, đây mới gọi là nhẫn khí,
như người khác chửi ta, mà không hiểu họ đang chửi ta, mà họ đang chửi chính
mình, hoặc là đang biểu diễn ca múa.
“Nhẫn cái khổ”, là nhẫn áo mặc, đồ ăn,
ở, đi, lạnh, nóng, đói, khát, bệnh, đau… các điều khổ. Ăn được no, mặc được
ấm, ở có nhà, đây không kể là khổ. Ăn, chủ yếu là bụng không đói, miệng không
khát, có thể duy trì được thân thể khỏe mạnh, có sức sống, có khí lực. Ăn vật
ngon dở là xem đối với sức khỏe của thân thể được lợi ích lớn hoặc nhỏ để phân
biệt đó là ngon hay dở, không phải là phân cao thấp ở trên giá trị và cách
thức, nghĩa là giá tiền cao là tốt mà giá tiền thấp là không tốt. Áo, đồ nhãn
hiệu, đồ mặc đẹp dùng để đi lại, mà y phục phổ thông cũng là đồ mặc; áo chủ yếu
là để chống lạnh che thân. Ở, nhà to hoa lệ gọi là chỗ ở, mà nhà nhỏ bình
thường, nhà lá cũng là chỗ ở; ở chủ yếu là ngăn gió che mưa, không rọi mặt
trời, tối đến ngủ được.
ở, đi, lạnh, nóng, đói, khát, bệnh, đau… các điều khổ. Ăn được no, mặc được
ấm, ở có nhà, đây không kể là khổ. Ăn, chủ yếu là bụng không đói, miệng không
khát, có thể duy trì được thân thể khỏe mạnh, có sức sống, có khí lực. Ăn vật
ngon dở là xem đối với sức khỏe của thân thể được lợi ích lớn hoặc nhỏ để phân
biệt đó là ngon hay dở, không phải là phân cao thấp ở trên giá trị và cách
thức, nghĩa là giá tiền cao là tốt mà giá tiền thấp là không tốt. Áo, đồ nhãn
hiệu, đồ mặc đẹp dùng để đi lại, mà y phục phổ thông cũng là đồ mặc; áo chủ yếu
là để chống lạnh che thân. Ở, nhà to hoa lệ gọi là chỗ ở, mà nhà nhỏ bình
thường, nhà lá cũng là chỗ ở; ở chủ yếu là ngăn gió che mưa, không rọi mặt
trời, tối đến ngủ được.
Người học Phật tu hành ở trên cuộc sống
vật chất là làm sạch nỗi khổ, tuy nhiên có tiền, có địa vị trên xã hội, có danh
vọng, cũng không thể giống như ngoại đạo làm ra vẻ của chốn phồn hoa như thế,
bày biện giàu có, chạy theo mốt, chất đầy cửa, ưa sĩ diện. Ăn, không cầu sơn
hào hải vị, miệng muốn hưởng thụ. Áo mặc, không cần áo lụa hàng bông hoa. Ở,
không cầu lầu cao nhà lớn.
vật chất là làm sạch nỗi khổ, tuy nhiên có tiền, có địa vị trên xã hội, có danh
vọng, cũng không thể giống như ngoại đạo làm ra vẻ của chốn phồn hoa như thế,
bày biện giàu có, chạy theo mốt, chất đầy cửa, ưa sĩ diện. Ăn, không cầu sơn
hào hải vị, miệng muốn hưởng thụ. Áo mặc, không cần áo lụa hàng bông hoa. Ở,
không cầu lầu cao nhà lớn.
“Nhẫn cái vui”, là ngăn trừ tất cả vật
phục sứctrên thân và hưởng lạc trên cảm quan, như không hút thuốc, không uống
rượu, ít giao tế qua lại, chẳng ca múa xướng vui, chẳng bước chân tới chỗ
trường hát, cờ bạc, ngay cả ti vi cũng ít xem, để tâm khỏi bị tán loạn không
chuyên nhứt, ngăn ngại việc tu hành. Có tâm dục lạc, tâm cũng không dễ gì yên
tĩnh, tâm không yên tĩnh làm sao có thể định. Cuộc sống bình thường không cầu
buông thả và khoái lạc, thì cũng không ưu não và cũng không sợ sệt.
phục sứctrên thân và hưởng lạc trên cảm quan, như không hút thuốc, không uống
rượu, ít giao tế qua lại, chẳng ca múa xướng vui, chẳng bước chân tới chỗ
trường hát, cờ bạc, ngay cả ti vi cũng ít xem, để tâm khỏi bị tán loạn không
chuyên nhứt, ngăn ngại việc tu hành. Có tâm dục lạc, tâm cũng không dễ gì yên
tĩnh, tâm không yên tĩnh làm sao có thể định. Cuộc sống bình thường không cầu
buông thả và khoái lạc, thì cũng không ưu não và cũng không sợ sệt.
Nhẫn nhục, nhân vì tập khí nên nhất
thời khó nhẫn nại, chỉ cần hạ quyết tâm, có nghị lực, có tâm thường xuyên, thì
có thể làm được thôi.
thời khó nhẫn nại, chỉ cần hạ quyết tâm, có nghị lực, có tâm thường xuyên, thì
có thể làm được thôi.
D. TINH TẤN
Tinh tấn, không xen tạp, gọi là TINH,
không thối lui gọi là TẤN. Ý của tinh tấn là: tinh là tinh thần, chỉ tâm không
xen tạp cái ác. Tấn là không thối lui, không giãi đãi, không buông lung, là ý
nói sự nỗ lực, đủ có ý chí kiên cố, chỉ có sự cố gắng tiến tới trước không dứt,
không có tâm lùi về sau, nghịch lý và ý chí có thuỷ có chung.
không thối lui gọi là TẤN. Ý của tinh tấn là: tinh là tinh thần, chỉ tâm không
xen tạp cái ác. Tấn là không thối lui, không giãi đãi, không buông lung, là ý
nói sự nỗ lực, đủ có ý chí kiên cố, chỉ có sự cố gắng tiến tới trước không dứt,
không có tâm lùi về sau, nghịch lý và ý chí có thuỷ có chung.
Tinh tấn; phàm người tu hành Phật đạo,
như nông phu làm ruộng, không nên sợ cần khổ, mới có thể có thu hoạch; lại như
người buôn kinh doanh sự nghiệp, không được gián đoạn, mới có thể được lợi.
Nông phu nếu sợ khổ thì ruộng kia sẽ bị hoang phế, người buôn nếu bị bể việc
thì làm sao có thể mong doanh nghiệp được lợi, đạo lý trong đây mọi người đều
biết. Tu học đạo, nông phu làm ruộng và người buôn bán, là một kiểu đạo lý, nên
chẳng được làm biếng, không được gián đoạn. Ở ngay trong vô lượng pháp môn,
điều phải nên là “thâm nhập một cửa”, mới có thể thành tựu. Nếu muốn các cửa
đều học, là tuyệt đối không thể thành tựu được. Các cửa đều học, đó là việc sau
khi “một cửa” thành tựu, một cửu thành tựu rồi, thì vô lượng pháp môn khác một
khi xem, một khi nghe lập tức đều thông đạt hết.
như nông phu làm ruộng, không nên sợ cần khổ, mới có thể có thu hoạch; lại như
người buôn kinh doanh sự nghiệp, không được gián đoạn, mới có thể được lợi.
Nông phu nếu sợ khổ thì ruộng kia sẽ bị hoang phế, người buôn nếu bị bể việc
thì làm sao có thể mong doanh nghiệp được lợi, đạo lý trong đây mọi người đều
biết. Tu học đạo, nông phu làm ruộng và người buôn bán, là một kiểu đạo lý, nên
chẳng được làm biếng, không được gián đoạn. Ở ngay trong vô lượng pháp môn,
điều phải nên là “thâm nhập một cửa”, mới có thể thành tựu. Nếu muốn các cửa
đều học, là tuyệt đối không thể thành tựu được. Các cửa đều học, đó là việc sau
khi “một cửa” thành tựu, một cửu thành tựu rồi, thì vô lượng pháp môn khác một
khi xem, một khi nghe lập tức đều thông đạt hết.
Tinh tấn có thể đối trị ma chướng giãi
đãi (lười biếng), phá phiền não ác, trừ các phép ác, não phiền, bức bách.
đãi (lười biếng), phá phiền não ác, trừ các phép ác, não phiền, bức bách.
Người tinh tấn ở trong vấn đề dứt ác tu
thiện mạnh mẽ cố gắng, vì thể tánh đối trị biếng lười, hoàn thành đầy đủ việc
thiện để làm chỗ dùng của nghiệp.
thiện mạnh mẽ cố gắng, vì thể tánh đối trị biếng lười, hoàn thành đầy đủ việc
thiện để làm chỗ dùng của nghiệp.
Cho nên “đoạn ác tu thiện”, trước tiên
chỉ cần đoạn trừ tất cả pháp ác, siêng tu tất cả pháp thiện, mới có thể đạt đến
chỗ gọi là “tinh tấn”, dõng mãnh mạnh mẽ. Đó chỉ là dứt các pháp ác đã có, mà
trong tu thiện quyết cần phải trực tiếp dứt trừ, ý chí kiên cường đã tinh càng
muốn tinh thêm, không ngừng gắng tiến về phía trước, vì không sợ khó, không sợ
khổ, và quyết xả tinh thần lớn mạnh có thể xả, mới có thể đối trị được giãi
đãi, và làm cho tròn đầy một cách tích cực tất cả việc thiện thế gian và xuất
thế gian. Chỗ gọi rằng: “hoàn thành đầy đủ việc thiện” là chỉ cho trong quá
trình tu hành, cần phải tích cực nơi việc thiện để khắp độ chúng sinh.
chỉ cần đoạn trừ tất cả pháp ác, siêng tu tất cả pháp thiện, mới có thể đạt đến
chỗ gọi là “tinh tấn”, dõng mãnh mạnh mẽ. Đó chỉ là dứt các pháp ác đã có, mà
trong tu thiện quyết cần phải trực tiếp dứt trừ, ý chí kiên cường đã tinh càng
muốn tinh thêm, không ngừng gắng tiến về phía trước, vì không sợ khó, không sợ
khổ, và quyết xả tinh thần lớn mạnh có thể xả, mới có thể đối trị được giãi
đãi, và làm cho tròn đầy một cách tích cực tất cả việc thiện thế gian và xuất
thế gian. Chỗ gọi rằng: “hoàn thành đầy đủ việc thiện” là chỉ cho trong quá
trình tu hành, cần phải tích cực nơi việc thiện để khắp độ chúng sinh.
Tu tập Phật pháp, không có thể lúc làm
lúc nghỉ, hôm qua như vậy, nay lại là như vậy, tu hàng ngày – tu hàng năm – tu
trọn đời, không nên quá gấp, không phải một năm hay muời năm thì có thể tu
xong, quá gấp dễ sinh mỏi mệt nhọc nhằn, làm thương tổn sức khỏe, cũng không
nên quá kéo dài, nhiệt tình chỉ có năm phút, ngày nay không tu còn có ngày mai,
năm này không tu còn có sang năm, kéo dài quá, dễ khiến thân tâm biếng lười
buông lung, trong tất cả nên phải thích ứng. Tinh tấn như giọt nước chảy lâu
làm xuyên đá núi.
lúc nghỉ, hôm qua như vậy, nay lại là như vậy, tu hàng ngày – tu hàng năm – tu
trọn đời, không nên quá gấp, không phải một năm hay muời năm thì có thể tu
xong, quá gấp dễ sinh mỏi mệt nhọc nhằn, làm thương tổn sức khỏe, cũng không
nên quá kéo dài, nhiệt tình chỉ có năm phút, ngày nay không tu còn có ngày mai,
năm này không tu còn có sang năm, kéo dài quá, dễ khiến thân tâm biếng lười
buông lung, trong tất cả nên phải thích ứng. Tinh tấn như giọt nước chảy lâu
làm xuyên đá núi.
E. THIỀN ĐỊNH
Thiền định độ cho sự tán loạn: chúng
sinh thì tâm tính tán loạn, vọng tưởng lăng xăng, tâm như vượn, ý như ngựa,
luôn nghĩ đến sự ruổi dong, từng sát na dừng niệm, sinh niệm, niệm niệm không
dừng, nên tu thiền định để thoát thân tán loạn.
sinh thì tâm tính tán loạn, vọng tưởng lăng xăng, tâm như vượn, ý như ngựa,
luôn nghĩ đến sự ruổi dong, từng sát na dừng niệm, sinh niệm, niệm niệm không
dừng, nên tu thiền định để thoát thân tán loạn.
Thiền định tức là đem tâm này an trụ,
không buông thả nó tản ra, nghĩ đông nghĩ tây tạp loạn không rõ ràng.
không buông thả nó tản ra, nghĩ đông nghĩ tây tạp loạn không rõ ràng.
Thế nào gọi là thiền? Tức là nhất tâm
xét vật là thiền. Thế nào gọi là định? Tức là tĩnh lặng tư duy một cảnh là
định. Ý nghĩa và mục đích chân chánh của thiền định là ở trong “tịnh lự” (tĩnh
lặng tư duy) tập trung tinh thần, thống nhất tư tưởng, trừ bỏ tất cả vọng tưởng
tạp niệm, tình tự không xung động, cảnh tịch tình không, thoát ly thế giới
huyễn tưởng chủ quan, mà nhập vào thế giới an bình tĩnh lặng chân chánh.
xét vật là thiền. Thế nào gọi là định? Tức là tĩnh lặng tư duy một cảnh là
định. Ý nghĩa và mục đích chân chánh của thiền định là ở trong “tịnh lự” (tĩnh
lặng tư duy) tập trung tinh thần, thống nhất tư tưởng, trừ bỏ tất cả vọng tưởng
tạp niệm, tình tự không xung động, cảnh tịch tình không, thoát ly thế giới
huyễn tưởng chủ quan, mà nhập vào thế giới an bình tĩnh lặng chân chánh.
Thiền định, mục đích chủ yếu là “nhiếp
các tâm loạn”; do vì con người ở nơi cõi dục, chỗ chỗ tâm loạn nhẹ thổi, có lúc
như lông chim hồng bay lên, đều là dong ruổi phân tán không dừng, chẳng thấu rõ
sự chế ngự của thiền, chẳng dễ gì được định, chỉ có thấu suốt thiền định, mới
có thể triệt để rửa hết và tiêu diệt ma chướng tán loạn trong tâm, ma được trừ
bỏ, trí huệ tự nhiên tăng trưởng. Chỉ có thấu suốt thiền định – tịnh lực, mới
có thể giải thoát phiền não căn bản của sinh tử, cũng tức là nói “thiền dịnh có
thể thống nhất tinh thần – dừng, lặng, yên, định, sau tiến đến mà thay đổi,
chuyển tĩnh lặng để đoạn trừ các chướng mê hoặc: tham, sân, si, mạn, nghi của
nhân loại”. Cản trở phiền não xâm lấn, không bị trở lại cái mê, cái hoặc của
ngoại cảnh, không theo cảnh mà khởi sinh diệt.
các tâm loạn”; do vì con người ở nơi cõi dục, chỗ chỗ tâm loạn nhẹ thổi, có lúc
như lông chim hồng bay lên, đều là dong ruổi phân tán không dừng, chẳng thấu rõ
sự chế ngự của thiền, chẳng dễ gì được định, chỉ có thấu suốt thiền định, mới
có thể triệt để rửa hết và tiêu diệt ma chướng tán loạn trong tâm, ma được trừ
bỏ, trí huệ tự nhiên tăng trưởng. Chỉ có thấu suốt thiền định – tịnh lực, mới
có thể giải thoát phiền não căn bản của sinh tử, cũng tức là nói “thiền dịnh có
thể thống nhất tinh thần – dừng, lặng, yên, định, sau tiến đến mà thay đổi,
chuyển tĩnh lặng để đoạn trừ các chướng mê hoặc: tham, sân, si, mạn, nghi của
nhân loại”. Cản trở phiền não xâm lấn, không bị trở lại cái mê, cái hoặc của
ngoại cảnh, không theo cảnh mà khởi sinh diệt.
Thiền định tức là lìa tất cả
tướng ở bên ngoài, tâm tánh bên trong không loạn. Nếu chấp trước tướng của
ngoại cảnh, tâm tánh bên trong cũng sẽ hỗn loạn. Có thể lìa được tất cả các
tướng ở bên ngoài, tâm tánh ở bên trong cũng có thể bất động.
tướng ở bên ngoài, tâm tánh bên trong không loạn. Nếu chấp trước tướng của
ngoại cảnh, tâm tánh bên trong cũng sẽ hỗn loạn. Có thể lìa được tất cả các
tướng ở bên ngoài, tâm tánh ở bên trong cũng có thể bất động.
Tâm niệm đối với tất cả cảnh giới thiện
ác không khởi, tịnh không phải là chỉ giống đầu đá, người gỗ không hay không
biết khi đối mặt với ngoại cảnh, mà là niệm không chấp trước. Gặp duyên đối
cảnh, lý vả đáng có chỗ phản ứng vẫn vậy có chỗ phản ứng. Ví như lái xe trên
đường, gặp đèn đỏ thì dừng, đèn xanh thì đi, tâm không trở ngại, tức là “ứng
với không chỗ trụ mà sinh tâm đó”. Nhưng phải thiết tha mà nhớ rằng: ứng với
không chỗ trụ mà “không” sinh tâm đó, như thế càng hay.
ác không khởi, tịnh không phải là chỉ giống đầu đá, người gỗ không hay không
biết khi đối mặt với ngoại cảnh, mà là niệm không chấp trước. Gặp duyên đối
cảnh, lý vả đáng có chỗ phản ứng vẫn vậy có chỗ phản ứng. Ví như lái xe trên
đường, gặp đèn đỏ thì dừng, đèn xanh thì đi, tâm không trở ngại, tức là “ứng
với không chỗ trụ mà sinh tâm đó”. Nhưng phải thiết tha mà nhớ rằng: ứng với
không chỗ trụ mà “không” sinh tâm đó, như thế càng hay.
“Ứng với không có chỗ trụ mà sinh”,
cũng chẳng qua là niệm niệm không chấp trước mà thôi! Con người, xưa nay là
Phật, ngược lại nhận đồng với mình là phàm phu, trái lại cho là Phật cao không
thể vin tới được! Chỉ có đả phá chấp trước nhận thức mình là phàm phu, bản lai
diện mục của Phật mới có thể “nước trong cá hiện”, nếu như nhất định có chỗ
chấp trước, thì không được nhận đồng: tự mình là Phật.
cũng chẳng qua là niệm niệm không chấp trước mà thôi! Con người, xưa nay là
Phật, ngược lại nhận đồng với mình là phàm phu, trái lại cho là Phật cao không
thể vin tới được! Chỉ có đả phá chấp trước nhận thức mình là phàm phu, bản lai
diện mục của Phật mới có thể “nước trong cá hiện”, nếu như nhất định có chỗ
chấp trước, thì không được nhận đồng: tự mình là Phật.
Người bước đầu học tập Phật pháp, thô tháo
náo loạn ở nơi tâm rất nhiều, định lực không đủ, trong một sát na niệm trước
diệt, niệm sau khởi, niệm niệm liên tục với nhau, trọn không dừng dứt, nên phải
khởi được chánh niệm, từ từ có thể khiến cho tâm niệm thanh tịnh, mà đạt đến vô
niệm; công phu này việc cần thiết là phải chu đáo tỉ mỉ, thời gian lâu, mới có
thể vào định, đạt tới cảnh giới vô niệm. Tốt xấu, chê khen, mừng giận đều không
khởi tâm động niệm, mới có định lực.
náo loạn ở nơi tâm rất nhiều, định lực không đủ, trong một sát na niệm trước
diệt, niệm sau khởi, niệm niệm liên tục với nhau, trọn không dừng dứt, nên phải
khởi được chánh niệm, từ từ có thể khiến cho tâm niệm thanh tịnh, mà đạt đến vô
niệm; công phu này việc cần thiết là phải chu đáo tỉ mỉ, thời gian lâu, mới có
thể vào định, đạt tới cảnh giới vô niệm. Tốt xấu, chê khen, mừng giận đều không
khởi tâm động niệm, mới có định lực.
Niệm Phật cũng là một phương pháp thiền
định. Có thể niệm cho tới khi miệng không niệm mà tâm ở nơi niệm, chẳng niệm mà
tự niệm, niệm Phật có công phu rồi, cách “niệm Phật tam muội” không xa.
định. Có thể niệm cho tới khi miệng không niệm mà tâm ở nơi niệm, chẳng niệm mà
tự niệm, niệm Phật có công phu rồi, cách “niệm Phật tam muội” không xa.
F. TRÍ HUỆ (Bát Nhã)
Trí huệ được chứng đắc từ thiền định,
tức được gọi là: trì giới mà được định, từ định mà phát huệ. Nhưng trí huệ này tịnh
mà không phải là trí hữu lậu: thông minh, đa văn, bác học của người đời; mà là
chánh trí viên dung vô ngại. Trí tuệ này có khả năng chiếu phá tất cả khách
trần phiền não, hiển bày bản tính chân như rõ biết tất cả chân tướng của vũ
trụ. Có được trí huệ đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, vạn
tượng vũ trụ, là không chỗ nào chẳng biết, không chỗ nào chẳng hiểu, có thể
thông đạt sự lý, phân biệt thị phi, phá trừ các món mê hoặc. Chính xác rõ hiểu
chơn tướng các pháp và khế hợp nhận thức chính xác của chân lý, vì sao có thể
làm, rất rõ ràng nên lời nói cũng viên dung.
tức được gọi là: trì giới mà được định, từ định mà phát huệ. Nhưng trí huệ này tịnh
mà không phải là trí hữu lậu: thông minh, đa văn, bác học của người đời; mà là
chánh trí viên dung vô ngại. Trí tuệ này có khả năng chiếu phá tất cả khách
trần phiền não, hiển bày bản tính chân như rõ biết tất cả chân tướng của vũ
trụ. Có được trí huệ đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, vạn
tượng vũ trụ, là không chỗ nào chẳng biết, không chỗ nào chẳng hiểu, có thể
thông đạt sự lý, phân biệt thị phi, phá trừ các món mê hoặc. Chính xác rõ hiểu
chơn tướng các pháp và khế hợp nhận thức chính xác của chân lý, vì sao có thể
làm, rất rõ ràng nên lời nói cũng viên dung.
Tu sáu pháp Ba La Mật quyết cần phải
cùng giúp cùng làm, không được thiếu một pháp. Vì huệ mà không có định chưa có
thể thọ dụng, định mà không có huệ chưa khỏi trầm mê, mà chẳng trì giới bèn trở
ngại cho việc chứa nhóm thiện pháp. Ba món học gồm đủ mà không bố thí lại không
thể nhiếp hoá chúng sinh, bố thí mà không tu ba món học thì chỉ trồng phước báo
trời, người. Trì giới mà không nhẫn nhục thì khó điều hòa khí sân nhuế. Có tinh
tấn mà không có các pháp (độ) khác thì luống uổng công phu. Có các độ mà không
có tinh tấn thì ban đầu siêng năng mà sau giãi đãi. Cho nên nhất định phải sáu
độ cùng tu, mới có thể hành hai việc lợi (tự lợi, lợi tha) của hàng đại thừa Bồ
Tát một cách viên mãn.
cùng giúp cùng làm, không được thiếu một pháp. Vì huệ mà không có định chưa có
thể thọ dụng, định mà không có huệ chưa khỏi trầm mê, mà chẳng trì giới bèn trở
ngại cho việc chứa nhóm thiện pháp. Ba món học gồm đủ mà không bố thí lại không
thể nhiếp hoá chúng sinh, bố thí mà không tu ba món học thì chỉ trồng phước báo
trời, người. Trì giới mà không nhẫn nhục thì khó điều hòa khí sân nhuế. Có tinh
tấn mà không có các pháp (độ) khác thì luống uổng công phu. Có các độ mà không
có tinh tấn thì ban đầu siêng năng mà sau giãi đãi. Cho nên nhất định phải sáu
độ cùng tu, mới có thể hành hai việc lợi (tự lợi, lợi tha) của hàng đại thừa Bồ
Tát một cách viên mãn.
Hành giả tu Bồ Tát, ngoài việc siêng tu
trì sáu độ BaLaMật ra, còn cần phải hành “ Bốn phép nhiếp”, mới có thể vào sâu
trong nhân loại mà cứu độ chúng sinh.
trì sáu độ BaLaMật ra, còn cần phải hành “ Bốn phép nhiếp”, mới có thể vào sâu
trong nhân loại mà cứu độ chúng sinh.
G. BỐN PHÉP NHIẾP
Bốn phép nhiếp tức là: Bố thí nhiếp –
Ái ngữ nhiếp – Lợi hành nhiếp – Đồng sự nhiếp.
Ái ngữ nhiếp – Lợi hành nhiếp – Đồng sự nhiếp.
Bố thí nhiếp: Nếu khắp độ chúng sanh
quyết cần phải đi sâu trong nhân sinh, tiếp cận cùng với người được độ thì mới
có thể đạt đến nguyện vọng của mọi người
quyết cần phải đi sâu trong nhân sinh, tiếp cận cùng với người được độ thì mới
có thể đạt đến nguyện vọng của mọi người
1. Bố thí nhiếp: Là đối người nhu
cầu tiền tài dùng “tài” để bố thí; đối với người cầu biết tâm làm trọng thì
dùng “pháp” để bố thí. Thích hợp với thời gian, không gian đầy đủ nhu cầu của
chúng sinh, khiến cho tâm kia được hoan hỷ, do cảm cái ơn mà tiếp nhận sự giáo
hóa, mà đạt được mục đích hóa chúng sinh.
cầu tiền tài dùng “tài” để bố thí; đối với người cầu biết tâm làm trọng thì
dùng “pháp” để bố thí. Thích hợp với thời gian, không gian đầy đủ nhu cầu của
chúng sinh, khiến cho tâm kia được hoan hỷ, do cảm cái ơn mà tiếp nhận sự giáo
hóa, mà đạt được mục đích hóa chúng sinh.
2. Ái ngữ nhiếp: Thường đối với
người nói lời hòa vui từ ái, lời nói hài hòa đáng thân, khéo nói tiếp đãi với
người, nói lời mà khiến người nghe sinh tâm hoan hỉ, nguyện ước muốn nghe, cũng
vì đạt đến mục đích hóa độ chúng sinh. Ái ngữ không phải là lời nịnh hót, hoa
mỹ hoặc nói dèm pha.
người nói lời hòa vui từ ái, lời nói hài hòa đáng thân, khéo nói tiếp đãi với
người, nói lời mà khiến người nghe sinh tâm hoan hỉ, nguyện ước muốn nghe, cũng
vì đạt đến mục đích hóa độ chúng sinh. Ái ngữ không phải là lời nịnh hót, hoa
mỹ hoặc nói dèm pha.
3. Lợi hành nhiếp: Dùng các việc
làm của thân, miệng, ý đều có lợi cho người, toàn tâm toàn ý vì mọi người mà
phục vụ, khiến cho họ vui vẻ, cam tâm tình nguyện cùng tu đạo Phật, nương theo
lời dạy mà vưng làm, cũng vì đạt đến mục đích độ người.
làm của thân, miệng, ý đều có lợi cho người, toàn tâm toàn ý vì mọi người mà
phục vụ, khiến cho họ vui vẻ, cam tâm tình nguyện cùng tu đạo Phật, nương theo
lời dạy mà vưng làm, cũng vì đạt đến mục đích độ người.
4. Đồng sự nhiếp: Vào sâu trong xã
hội, công tác cùng với mọi người, cùng sinh hoạt, gần gũi với nhau, khiến cho
bên kia bên đây tình như thủ túc, ở nơi hoàn cảnh khế cơ họp duyên mà hóa độ
họ.
hội, công tác cùng với mọi người, cùng sinh hoạt, gần gũi với nhau, khiến cho
bên kia bên đây tình như thủ túc, ở nơi hoàn cảnh khế cơ họp duyên mà hóa độ
họ.
Thông thường nói rằng: Bồ Tát vì thành
tựu Phật đạo tối hậu mà tu: Sáu độ “Balamật “ và pháp môn lợi tha “bốn phép
nhiếp”; Quyết cần phải lấy “bốn tâm vô lượng” làm căn bản, mới có thể chân thật
phát huy mục tiêu lợi tha.
tựu Phật đạo tối hậu mà tu: Sáu độ “Balamật “ và pháp môn lợi tha “bốn phép
nhiếp”; Quyết cần phải lấy “bốn tâm vô lượng” làm căn bản, mới có thể chân thật
phát huy mục tiêu lợi tha.
12. BỐN TÂM VÔ LƯỢNG
Tâm vô lượng là không có phép hạn
lượng, ý là rất khó mà giới hạn suy lường. Bốn tâm vô lượng còn gọi là “bốn
đẳng tâm”. Ý là chỉ lấy tâm bình đẳng mà không sai biệt để giáo hóa lợi ích tất
cả chúnh sinh. Ở đây nói đơn giản như sau:
lượng, ý là rất khó mà giới hạn suy lường. Bốn tâm vô lượng còn gọi là “bốn
đẳng tâm”. Ý là chỉ lấy tâm bình đẳng mà không sai biệt để giáo hóa lợi ích tất
cả chúnh sinh. Ở đây nói đơn giản như sau:
1. Tâm từ: Từ là chỉ niệm ái, tức cho
ta an lạc. Tức là nghĩ yêu chúng sinh mà cho chúng sinh an lạc.
ta an lạc. Tức là nghĩ yêu chúng sinh mà cho chúng sinh an lạc.
2. Tâm bi: Bi – là chỉ sự thương xót,
tức là tâm dẹp đi khổ. Cũng là nghĩ thương chúng sinh chịu các điều khổ, mà
thường ôm lòng bi, cứu giúp chúng sinh thoát ly khổ đau.
tức là tâm dẹp đi khổ. Cũng là nghĩ thương chúng sinh chịu các điều khổ, mà
thường ôm lòng bi, cứu giúp chúng sinh thoát ly khổ đau.
3. Tâm hỉ: Thấy người ngăn ác làm lành,
sinh tâm hoan hỉ; thấy người lìa khổ được vui, sinh hoan hỉ; tâm nầy khắp duyên
nơi chúng sinh.
sinh tâm hoan hỉ; thấy người lìa khổ được vui, sinh hoan hỉ; tâm nầy khắp duyên
nơi chúng sinh.
4. Tâm xả: Xả là bỏ xả tâm từ, bi, hỉ
đã làm, đều không để ở trên tâm, xả mà không còn dính mắc, oán, thân, ghét, yêu
thảy đều buông bỏ.
đã làm, đều không để ở trên tâm, xả mà không còn dính mắc, oán, thân, ghét, yêu
thảy đều buông bỏ.
Vui vẻ cùng chúng sinh gọi là Từ, cứu
khổ chúng sinh gọi là Bi; thấy chú ng sinh lìa khổ tâm sinh vui sướng gọi là
hỉ; Một mực bình đẳng đối với chúng sinh, kẻ oán người thân đều xả mà không còn
dính mắc gọi là xả. Tu trì bốn tâm trên còn khả năng: không sinh chấp trước.
khổ chúng sinh gọi là Bi; thấy chú ng sinh lìa khổ tâm sinh vui sướng gọi là
hỉ; Một mực bình đẳng đối với chúng sinh, kẻ oán người thân đều xả mà không còn
dính mắc gọi là xả. Tu trì bốn tâm trên còn khả năng: không sinh chấp trước.
13. TỰ TỊNH KỲ Ý (Tâm thanh tịnh)
“Tự tịnh kỳ ý” tức là tự tâm được thanh
tịnh, tâm không động niệm. Không vọng tưởng, không tạp niệm, không phiền não,
việc ác không nghĩ tưởng, việc thiện cũng không nghĩ, việc của hiện tại ( trừ
việc đang công tác ) không nghĩ, không nghĩ việc của vị lai; Đem muôn niệm tập
trung nơi một niệm – chỉ niệm Phật. Có thể làm được như thế này tức là cảnh
giới tâm bất loạn, không có công phu tương đương thì làm không được. Có thể làm
được việc không có phiền não thì chỉ chánh niệm, không phải là tà niệm, chỉ có
thiện niệm, không phải là ác niệm; Tức là đúng vậy.
tịnh, tâm không động niệm. Không vọng tưởng, không tạp niệm, không phiền não,
việc ác không nghĩ tưởng, việc thiện cũng không nghĩ, việc của hiện tại ( trừ
việc đang công tác ) không nghĩ, không nghĩ việc của vị lai; Đem muôn niệm tập
trung nơi một niệm – chỉ niệm Phật. Có thể làm được như thế này tức là cảnh
giới tâm bất loạn, không có công phu tương đương thì làm không được. Có thể làm
được việc không có phiền não thì chỉ chánh niệm, không phải là tà niệm, chỉ có
thiện niệm, không phải là ác niệm; Tức là đúng vậy.
Tâm thanh tịnh không phải là chỉ nói,
nói thì không có thể làm được, có người tu đến vài mươi năm ngay cả một chữ
“tham” cũng không quên được, một chữ “ái” cũng còn thường tại ở tâm đầu. Nếu
muốn tâm được thanh tịnh, chẳng hạ một lần quyết tâm thì chẳng thể được! Có thể
xả – là có thể xem cho rõ, buông cho rời; Nếu rốt cuộc ở nơi tình đời việc thế
tục cứ lay chuyển, tâm làm sao có thể tịnh được?
nói thì không có thể làm được, có người tu đến vài mươi năm ngay cả một chữ
“tham” cũng không quên được, một chữ “ái” cũng còn thường tại ở tâm đầu. Nếu
muốn tâm được thanh tịnh, chẳng hạ một lần quyết tâm thì chẳng thể được! Có thể
xả – là có thể xem cho rõ, buông cho rời; Nếu rốt cuộc ở nơi tình đời việc thế
tục cứ lay chuyển, tâm làm sao có thể tịnh được?
Tâm thanh tịnh không phải là giống như
người bằng đá, thế nào đi nữa đều không nghĩ tưởng; mà là nhất tâm chế ý, gặp
việc không mê, chỉ có chánh niệm, không có tà niệm, tức là lúc ăn cơm nhất tâm
ăn cơm, ăn rồi lại nghỉ ngơi, lúc công tác nhất tâm công tác, công tác rồi lại
nghỉ ngơi, không đình trệ ở trên niệm đầu, không dừng giữ ở nơi niệm quán, cũng
như chim bay qua bầu trời không để lại dấu vết.
người bằng đá, thế nào đi nữa đều không nghĩ tưởng; mà là nhất tâm chế ý, gặp
việc không mê, chỉ có chánh niệm, không có tà niệm, tức là lúc ăn cơm nhất tâm
ăn cơm, ăn rồi lại nghỉ ngơi, lúc công tác nhất tâm công tác, công tác rồi lại
nghỉ ngơi, không đình trệ ở trên niệm đầu, không dừng giữ ở nơi niệm quán, cũng
như chim bay qua bầu trời không để lại dấu vết.
Ví dụ như: Gặp có người đang bán chim,
mà anh muốn mua chim để phóng sinh, nhưng tiền trong túi không đủ, việc mua
không thành, trong lòng nghĩ rằng ngày hôm nay có thể mang nhiều tiền hơn một
chút thì tốt hơn nhiều, đây tức là vọng tưởng. Lúc ăn cơm thì nói rằng đồ ăn
của ngày mai ngon, đây cũng là tạp niệm. Con cái có việc ra khỏi nhà bảo nó về
trước hai mươi mốt giờ, nhưng qua hai mươi hai giờ chưa thấy nó về, anh lại đợi
nó mà không đi ngủ, tức là buông không rời. Gặp cảnh thuận thì cười híp mắt,
gặp cảnh nghịch, bị cảnh chuyển mặt mày ủ rủ khổ sở, tức là phiền não.
mà anh muốn mua chim để phóng sinh, nhưng tiền trong túi không đủ, việc mua
không thành, trong lòng nghĩ rằng ngày hôm nay có thể mang nhiều tiền hơn một
chút thì tốt hơn nhiều, đây tức là vọng tưởng. Lúc ăn cơm thì nói rằng đồ ăn
của ngày mai ngon, đây cũng là tạp niệm. Con cái có việc ra khỏi nhà bảo nó về
trước hai mươi mốt giờ, nhưng qua hai mươi hai giờ chưa thấy nó về, anh lại đợi
nó mà không đi ngủ, tức là buông không rời. Gặp cảnh thuận thì cười híp mắt,
gặp cảnh nghịch, bị cảnh chuyển mặt mày ủ rủ khổ sở, tức là phiền não.
Tu tâm thanh tịnh, nhất định cần hạ
quyết tâm rất lớn, tâm thường xuyên tâm nhẫn nại, cũng tức là nói “đắm nhiễm
tình đời” (nghĩ tưởng bận tâm về người, việc, vật của thế gian), chúng ta nên
xả ly càng nhiều càng tốt, rốt cuộc cũng chẳng cần nghĩ tưởng bận tâm, đem cái
niệm nghĩ tưởng bận tâm chuyển biến thành cái niệm: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT; Đem
lợi ích nhà và thân của mình (thân là người gốc, nhà là gia đình của ta) cũng
là khởi tâm động niệm, đều là cái niệm lợi ích cho nhà và tự thân (chỉ là nghĩ
tưởng mình, không nghĩ tưởng chúng sinh) đem niệm đầu nầy chuyển biến làm lợi
ích cho tất cả chúng sinh, không nghĩ tưởng mình, thế nầy tâm chúng ta cũng
thanh tịnh nhiều rồi; có thể làm được vấn đề khởi tâm động niệm chỉ là
ADIĐÀPHẬT, tịnh không có niệm khác, nhất tâm chỉ có ADIĐÀPHẬT, không bị ngoại
cảnh chuyển. Như vật tâm chúng ta cũng thanh tịnh.
quyết tâm rất lớn, tâm thường xuyên tâm nhẫn nại, cũng tức là nói “đắm nhiễm
tình đời” (nghĩ tưởng bận tâm về người, việc, vật của thế gian), chúng ta nên
xả ly càng nhiều càng tốt, rốt cuộc cũng chẳng cần nghĩ tưởng bận tâm, đem cái
niệm nghĩ tưởng bận tâm chuyển biến thành cái niệm: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT; Đem
lợi ích nhà và thân của mình (thân là người gốc, nhà là gia đình của ta) cũng
là khởi tâm động niệm, đều là cái niệm lợi ích cho nhà và tự thân (chỉ là nghĩ
tưởng mình, không nghĩ tưởng chúng sinh) đem niệm đầu nầy chuyển biến làm lợi
ích cho tất cả chúng sinh, không nghĩ tưởng mình, thế nầy tâm chúng ta cũng
thanh tịnh nhiều rồi; có thể làm được vấn đề khởi tâm động niệm chỉ là
ADIĐÀPHẬT, tịnh không có niệm khác, nhất tâm chỉ có ADIĐÀPHẬT, không bị ngoại
cảnh chuyển. Như vật tâm chúng ta cũng thanh tịnh.
A/ NHÌN RÕ – BUÔNG RỜI
Nhìn rõ, tức là nhìn xem tất cả giả
tướng của thế gian, tất cả vô thường, như sinh không mang gì lại, tử không mang
gì đi, có người khác cũng tốt, không người khác cũng tốt; người có tiền cũng là
người, người không tiền cũng là người; người có tiền ăn nhiều cá nhiều thịt gọi
là ăn no, người không tiền ăn rau xanh, đậu hũ cũng là ăn no; người có tiền
nhiều người khác gặp đến nể mặt, người không tiền, người ta không gặp không nể
mặt. Nhưng người có tiền có được bao nhiêu việc không khổ não buồn lo? Người
không tiền tự mình nhìn thấy mình, không đi phân biệt có tiền hay không có
tiền, tốt xấu được mất, không thể vì không tiền thì không có sĩ diện mà tự ti,
cuộc sống được mãi vui vẽ, tự tại ở chỗ cảnh thuận thì vui, gặp cảnh nghịch
cũng vui, tâm vui thì cảnh thường vui. Biết (tin) lý nhân quả thì “nhìn được
rõ”. Bi thương, sợ sệt, buồn lo, bận tâm, tham lam, phẩn hận tức là nhìn không
rõ.
tướng của thế gian, tất cả vô thường, như sinh không mang gì lại, tử không mang
gì đi, có người khác cũng tốt, không người khác cũng tốt; người có tiền cũng là
người, người không tiền cũng là người; người có tiền ăn nhiều cá nhiều thịt gọi
là ăn no, người không tiền ăn rau xanh, đậu hũ cũng là ăn no; người có tiền
nhiều người khác gặp đến nể mặt, người không tiền, người ta không gặp không nể
mặt. Nhưng người có tiền có được bao nhiêu việc không khổ não buồn lo? Người
không tiền tự mình nhìn thấy mình, không đi phân biệt có tiền hay không có
tiền, tốt xấu được mất, không thể vì không tiền thì không có sĩ diện mà tự ti,
cuộc sống được mãi vui vẽ, tự tại ở chỗ cảnh thuận thì vui, gặp cảnh nghịch
cũng vui, tâm vui thì cảnh thường vui. Biết (tin) lý nhân quả thì “nhìn được
rõ”. Bi thương, sợ sệt, buồn lo, bận tâm, tham lam, phẩn hận tức là nhìn không
rõ.
Buông rời tức là không chấp trước:
người, việc, vật các món của thế gian, như tiền vàng, tài sản, người thân, nam
nữ, ăn uống, ngọc ngà châu báu, bảo vật… Không đem nó mà để ở trên tâm, có
cũng như không, chẳng mong ngóng nó, chẳng vì nó mà bận tâm, so tính lo buồn.
người, việc, vật các món của thế gian, như tiền vàng, tài sản, người thân, nam
nữ, ăn uống, ngọc ngà châu báu, bảo vật… Không đem nó mà để ở trên tâm, có
cũng như không, chẳng mong ngóng nó, chẳng vì nó mà bận tâm, so tính lo buồn.
Đem người, vật, việc của thế gian từng
cái, từng cái nắm trên tay mà quẳng đi, buông đi buông càng nhiều càng nhẹ,
buông càng triệt để thì càng không bận tâm, cái đồ ở trong tâm không còn (hiện
thực thì hãy còn) chỉ là trong tâm không có nó mà thôi, tâm mới có thể bình
tĩnh, bình được tâm thì mới đầy đủ, đầy đủ thì mới buông được rời. Việc hôm qua
không hối, không oán, việc của ngày nay không tham không cầu, việc của ngày mai
không lo không sợ.
cái, từng cái nắm trên tay mà quẳng đi, buông đi buông càng nhiều càng nhẹ,
buông càng triệt để thì càng không bận tâm, cái đồ ở trong tâm không còn (hiện
thực thì hãy còn) chỉ là trong tâm không có nó mà thôi, tâm mới có thể bình
tĩnh, bình được tâm thì mới đầy đủ, đầy đủ thì mới buông được rời. Việc hôm qua
không hối, không oán, việc của ngày nay không tham không cầu, việc của ngày mai
không lo không sợ.
Nhìn cho rõ, tức là nhìn tất cả giả
tưởng, tất cả vô thường của thế gian, đây có thể học tập từ trong văn tự, lời
dạy trong kinh điển rất nhiều đạo lý của phương diện nầy đều đưa ra cho chúng
ta “nhận thức nhìn được rõ”.
tưởng, tất cả vô thường của thế gian, đây có thể học tập từ trong văn tự, lời
dạy trong kinh điển rất nhiều đạo lý của phương diện nầy đều đưa ra cho chúng
ta “nhận thức nhìn được rõ”.
Nhưng buông cho rời, cũng không đơn
giản, nói thì dễ mà làm thì rất khó, không có niềm tin kiên cường, càng không
nên phí một phen, cố sức mới có thể dẹp thoát sự ràng buộc kìm hãm này; như gặp
lúc khó khăn trọng đại, ô nhục hoặc vấp ngã, hoặc những việc không như ý, thì
nên không có ngày tiếp tục trở lại việc này.
giản, nói thì dễ mà làm thì rất khó, không có niềm tin kiên cường, càng không
nên phí một phen, cố sức mới có thể dẹp thoát sự ràng buộc kìm hãm này; như gặp
lúc khó khăn trọng đại, ô nhục hoặc vấp ngã, hoặc những việc không như ý, thì
nên không có ngày tiếp tục trở lại việc này.
Buông cho rời tức là buông rời việc thế
gian như: tham, sân, si, mạn, nghi, như tiền bạc, tài sản, sự nghiệp, người
thân… của chúng ta; Nói chung là căn tánh thấp hèn của con người, việc này
thì không dễ dàng. Nếu đối trị với căn tánh thấp hèn này thì cần dùng một cái
khác “Tịnh”, để đối trị. Như bố thí, trì giới, sám hối, những việc này không
phải là lý Phật cao siêu, tức là cần việc làm. Cũng như bố thí, tức là đối trị tham
dục, bố thí càng lớn, càng triệt để, thì càng có thể giảm thấp đi dục vọng của
con người, tâm tình sẽ ngày càng nhẹ nhàng sảng khoái, cảm thấy nợ nần ít đi,
trong lòng thoải mái, đây tức là kết quả của việc làm bố thí. Ngược lại, nếu bố
thí rồi mà khiến cho anh càng thêm chấp trước công đức, rồi truy cầu, tham đắm
danh tiếng của bố thí, hư vinh đầy đủ cho tự tâm, đây cũng là biểu thị trạng
thái của tâm không đúng rồi, đây cũng là “buông không rời”. Ngoài ra những việc
khác như trì giới thì phải thanh tịnh, nếu như không có thì phải điều chỉnh
thêm nữa, lý tánh thì nhiều, cảm tánh thì ít, hoặc là bài trừ tâm sở cầu mà làm
việc thiện.
gian như: tham, sân, si, mạn, nghi, như tiền bạc, tài sản, sự nghiệp, người
thân… của chúng ta; Nói chung là căn tánh thấp hèn của con người, việc này
thì không dễ dàng. Nếu đối trị với căn tánh thấp hèn này thì cần dùng một cái
khác “Tịnh”, để đối trị. Như bố thí, trì giới, sám hối, những việc này không
phải là lý Phật cao siêu, tức là cần việc làm. Cũng như bố thí, tức là đối trị tham
dục, bố thí càng lớn, càng triệt để, thì càng có thể giảm thấp đi dục vọng của
con người, tâm tình sẽ ngày càng nhẹ nhàng sảng khoái, cảm thấy nợ nần ít đi,
trong lòng thoải mái, đây tức là kết quả của việc làm bố thí. Ngược lại, nếu bố
thí rồi mà khiến cho anh càng thêm chấp trước công đức, rồi truy cầu, tham đắm
danh tiếng của bố thí, hư vinh đầy đủ cho tự tâm, đây cũng là biểu thị trạng
thái của tâm không đúng rồi, đây cũng là “buông không rời”. Ngoài ra những việc
khác như trì giới thì phải thanh tịnh, nếu như không có thì phải điều chỉnh
thêm nữa, lý tánh thì nhiều, cảm tánh thì ít, hoặc là bài trừ tâm sở cầu mà làm
việc thiện.
Buông được rồi, cần tâm đầy đủ, tâm đầy
đủ mới có thể buông được, tâm đầy đủ là tâm địa tự bình. Tâm không đẩy đủ là
buông chẳng rời, như không có tiền thì muốn có tiền, có tiền rồi lại muốn có
nhiều hơn, càng nhiều càng tốt, tâm làm sao có thể bình. ( Tâm đẩy đủ không
phải là đầy đủ cho tâm tham vọng ham muốn của mình, mà làm tâm “thiểu dục, tri
túc” vậy). Nếu như chấp dính việc thế gian mà không buông xả, thì ở nơi việc
vãng sinh là một món chướng ngại lớn.
đủ mới có thể buông được, tâm đầy đủ là tâm địa tự bình. Tâm không đẩy đủ là
buông chẳng rời, như không có tiền thì muốn có tiền, có tiền rồi lại muốn có
nhiều hơn, càng nhiều càng tốt, tâm làm sao có thể bình. ( Tâm đẩy đủ không
phải là đầy đủ cho tâm tham vọng ham muốn của mình, mà làm tâm “thiểu dục, tri
túc” vậy). Nếu như chấp dính việc thế gian mà không buông xả, thì ở nơi việc
vãng sinh là một món chướng ngại lớn.
Người đời nhiều đời nhiều kiếp, tâm
sinh chấp dính cái được ở thế gian, chỉ sợ mất đi, tham luyến mà buông xả không
được, lại còn tìm cầu cho đầy đủ đời này, thì ắc sẽ chuốt lấy khổ não càng
nhiều cho chính mình, cũng sẽ ngăn trở con đường vãng sinh thế giới Cực Lạc.
sinh chấp dính cái được ở thế gian, chỉ sợ mất đi, tham luyến mà buông xả không
được, lại còn tìm cầu cho đầy đủ đời này, thì ắc sẽ chuốt lấy khổ não càng
nhiều cho chính mình, cũng sẽ ngăn trở con đường vãng sinh thế giới Cực Lạc.
B/ TÂM BÌNH THƯỜNG
Tâm bình thường tức là: Trực tâm, tâm
dài xa, không tạo tác, không an bài, không phân biệt, việc để trong nội tâm là
yên ổn tĩnh lặng và bình hòa, cả một năm, suốt một đời, thường thường như vậy
tức là bình thường. Ví như: Người đời tiếp khách quen, chỉ dùng trà cơm bình
thường không bày biện sắp đặc, tiếp đãi thế nầy có thể dài lâu, tức là bình
thường; Như có quý khách đến bày ra bao nhiêu kiểu đồ ăn ngon, đây thì không
bình thường, chỉ có thể tiếp đãi mười ngày nửa tháng, nhà không lễ thường, cho
nên tiếp đãi chẳng bình thường, thì chẳng dài lâu được.
dài xa, không tạo tác, không an bài, không phân biệt, việc để trong nội tâm là
yên ổn tĩnh lặng và bình hòa, cả một năm, suốt một đời, thường thường như vậy
tức là bình thường. Ví như: Người đời tiếp khách quen, chỉ dùng trà cơm bình
thường không bày biện sắp đặc, tiếp đãi thế nầy có thể dài lâu, tức là bình
thường; Như có quý khách đến bày ra bao nhiêu kiểu đồ ăn ngon, đây thì không
bình thường, chỉ có thể tiếp đãi mười ngày nửa tháng, nhà không lễ thường, cho
nên tiếp đãi chẳng bình thường, thì chẳng dài lâu được.
Tâm bình thường là tâm hàng ngày biểu
thị việc nên làm tự nhiên trong cuộc sống ngày thường, không bị niệm lăng xăng,
cố chấp,lộn xộn làm trở ngại, không miễn cưỡng công tác liều mạng chính mình,
mà có thể làm việc một cách yên ổn thỏa đáng thuận lợi theo lệ thường ngày,
khiến cho sinh hoạt chính mình không bị trói buột.
thị việc nên làm tự nhiên trong cuộc sống ngày thường, không bị niệm lăng xăng,
cố chấp,lộn xộn làm trở ngại, không miễn cưỡng công tác liều mạng chính mình,
mà có thể làm việc một cách yên ổn thỏa đáng thuận lợi theo lệ thường ngày,
khiến cho sinh hoạt chính mình không bị trói buột.
Chúng ta chỉ cần lấy tâm bình thường để
đối mặt với cuộc sống hiện thực, không phân biệt tốt xấu, được mất, giàu do
người khác giàu, nghèo do người khác nghèo, bệnh do người khác bệnh, già cũng
do người khác già, tùy thuận tự nhiên không cưỡng cẩu, mở thoát những việc trói
buộc buồn tình này, mặc cho bốn mùa biến đổi, đều là thời tiết tốt tươi.
đối mặt với cuộc sống hiện thực, không phân biệt tốt xấu, được mất, giàu do
người khác giàu, nghèo do người khác nghèo, bệnh do người khác bệnh, già cũng
do người khác già, tùy thuận tự nhiên không cưỡng cẩu, mở thoát những việc trói
buộc buồn tình này, mặc cho bốn mùa biến đổi, đều là thời tiết tốt tươi.
Tâm bình thường là một cái tâm giữ được
sự quân bình mà thuần khiết, có trí huệ viên dung vượt thoát nổi lòng ôm ấp,
không bị sắc tướng cõi dục làm mê, không bị huyễn tưởng trần lao làm lầm lạc (
dối gạt ), tâm trong sáng tự tại, bình thảng vui tươi, trải qua cuộc sống vui
vẻ đơn thuần.
sự quân bình mà thuần khiết, có trí huệ viên dung vượt thoát nổi lòng ôm ấp,
không bị sắc tướng cõi dục làm mê, không bị huyễn tưởng trần lao làm lầm lạc (
dối gạt ), tâm trong sáng tự tại, bình thảng vui tươi, trải qua cuộc sống vui
vẻ đơn thuần.
Con người có tâm chân thật, nhẫn nhịn,
bình ổn và tha thứ, thì gặp việc từ nơi tự bao dung mà ổn định, nên không
thể vì con người, sự tình, vật chất làm cho suy nghĩ phiền não. Cho nên tâm
bình thường tức là cuộc sống bình đạm, bình thường, bình bình thường thường,
chẳnh vì vật vui, chẳng vì mình buồn, hiểu rõ tại ta, tiếp nạp người khác, lấy
tâm từ ái mà bao dung tất cả.
bình ổn và tha thứ, thì gặp việc từ nơi tự bao dung mà ổn định, nên không
thể vì con người, sự tình, vật chất làm cho suy nghĩ phiền não. Cho nên tâm
bình thường tức là cuộc sống bình đạm, bình thường, bình bình thường thường,
chẳnh vì vật vui, chẳng vì mình buồn, hiểu rõ tại ta, tiếp nạp người khác, lấy
tâm từ ái mà bao dung tất cả.
14. SANH TỬ VÀ NGHIỆP
Sanh tử vô thường, thường đem đến sự sợ
sệt và bất an rất nhiều cho chúng sinh. Mọi người cho là người chết rồi thì
trăm việc hết, cái gì cũng đều không có. Đây là con người chỉ có nhục nhãn,
không có huệ nhãn, không thấy được chân tướng của vạn tượng vũ trụ, nên mới nói
thế này. Nhưng Đức Phật không những có nhục nhãn, huệ nhãn mà còn có Phật nhãn,
chân tướng của muôn hình tượng vũ trụ Ngài thấy rất rõ ràng. Ngài nói sinh mạng
của con người không phải là chết rồi thì kể như xong hết, nếu như đơn giản như
thế này, đời ngừơi cũng có cái tâm tham muốn, thích làm cái gì thì làm cái nấy!
Lại nữa sao cần phải nói cái việc có nhân quả báo ứng thiện ác, nếu rõ sinh tử
như thế nào là phiền rồi! Kỳ thật, sinh mạng trước khi chưa sinh thì đã có rồi,
cũng không phải chết rồi là hết – đơn giản như thế! Không phải nói qua loa vài
ba câu thì có thể nói được vấn đề rõ ràng, đồng thời cũng là vấn đề rất khó
giải quyết. Do đó với nhu cầu học Phật tu hành, là để giải quyết đại sự sinh tử
đời người này.
sệt và bất an rất nhiều cho chúng sinh. Mọi người cho là người chết rồi thì
trăm việc hết, cái gì cũng đều không có. Đây là con người chỉ có nhục nhãn,
không có huệ nhãn, không thấy được chân tướng của vạn tượng vũ trụ, nên mới nói
thế này. Nhưng Đức Phật không những có nhục nhãn, huệ nhãn mà còn có Phật nhãn,
chân tướng của muôn hình tượng vũ trụ Ngài thấy rất rõ ràng. Ngài nói sinh mạng
của con người không phải là chết rồi thì kể như xong hết, nếu như đơn giản như
thế này, đời ngừơi cũng có cái tâm tham muốn, thích làm cái gì thì làm cái nấy!
Lại nữa sao cần phải nói cái việc có nhân quả báo ứng thiện ác, nếu rõ sinh tử
như thế nào là phiền rồi! Kỳ thật, sinh mạng trước khi chưa sinh thì đã có rồi,
cũng không phải chết rồi là hết – đơn giản như thế! Không phải nói qua loa vài
ba câu thì có thể nói được vấn đề rõ ràng, đồng thời cũng là vấn đề rất khó
giải quyết. Do đó với nhu cầu học Phật tu hành, là để giải quyết đại sự sinh tử
đời người này.
Hành giả học Phật đối với cái chết, cần
thiết phải ghi nhớ hai điều đạo lý:
thiết phải ghi nhớ hai điều đạo lý:
1. Đời người vô thường, tuỳ theo thời
gian đều có khả năng chết, hoặc tuổi thọ hết, hoặc phước hết, hoặc chết đột
ngột.
gian đều có khả năng chết, hoặc tuổi thọ hết, hoặc phước hết, hoặc chết đột
ngột.
2. Không nên cho rằng thọ mạng là trời
sinh có chủ định về số tuổi thọ, thực tại là đa số nghiệp ác hiện đời, việc
không nên làm đi làm, không khéo giúp nuôi tốt tự thân. Chớ nên cho là nhất
định tuỳ thuộc ở tuổi thọ hết mà chết, còn có việc chết đột ngột thì sao, nào
là tai nạn về nước, lửa, hung sát, xe cộ, trúng độc… tử vong không chính
đáng, tình huống bất thường tạo thành.
sinh có chủ định về số tuổi thọ, thực tại là đa số nghiệp ác hiện đời, việc
không nên làm đi làm, không khéo giúp nuôi tốt tự thân. Chớ nên cho là nhất
định tuỳ thuộc ở tuổi thọ hết mà chết, còn có việc chết đột ngột thì sao, nào
là tai nạn về nước, lửa, hung sát, xe cộ, trúng độc… tử vong không chính
đáng, tình huống bất thường tạo thành.
Trước chưa rõ sinh tử, chết rồi lại
sinh, sinh rồi lại chết, chết chết sinh sinh, sinh sinh chết chết luân hồi
không dứt, mà nhân tố chủ yếu tạo thành luân hồi sinh tử này tức là NGHIỆP.
sinh, sinh rồi lại chết, chết chết sinh sinh, sinh sinh chết chết luân hồi
không dứt, mà nhân tố chủ yếu tạo thành luân hồi sinh tử này tức là NGHIỆP.
Nghiệp, tiếng Phạn gọi là “yết ma”,
nghĩa là “tạo tác”, ta và người ở trên tư tưởng, hoặc nhân tư tưởng phát ra tạo
tác các ác ở nơi ngôn ngữ và thân thể, giả gọi là “nghiệp”. Bất luận có hành
động thế nào, Phật pháp đều gọi là NGHIỆP.
nghĩa là “tạo tác”, ta và người ở trên tư tưởng, hoặc nhân tư tưởng phát ra tạo
tác các ác ở nơi ngôn ngữ và thân thể, giả gọi là “nghiệp”. Bất luận có hành
động thế nào, Phật pháp đều gọi là NGHIỆP.
Nghiệp có ba tánh: thiện, ác và vô ký.
Thiện nghiệp hay chiêu lấy thiện quả, ác nghiệp hay chiêu lấy ác quả, vô ký
nghiệp đã không phải là thiện lại không phải là ác, cho nên không cảm quả.
Thiện nghiệp hay chiêu lấy thiện quả, ác nghiệp hay chiêu lấy ác quả, vô ký
nghiệp đã không phải là thiện lại không phải là ác, cho nên không cảm quả.
Liên quan với “nghiệp”, hơi khó khiến
cho người hỏi hiểu rõ, nhân vì nó không hình không tướng, không chất không
lượng, nhưng người ta khởi tâm động niệm, đều thành nghiệp chủng, vả lại trọn
không thể mài dũa hay diệt đi, nó tồn tại hằng hữu, gặp duyên thì khởi hiện
hạnh. Chúng ta nếu miễn cưỡng làm một phép so sánh, thì không ngại nói là ấn
tượng trong ý thức của ta và người. Ta và người mỗi khi có khởi tâm động niệm,
cho đến ngôn ngữ hành vi, không kể là thiện hay ác, trong ý thức tất có lưu giữ
ấn tượng, đây tức là nghiệp chủng vào trong ruộng thức thứ tám, ruộng thức thứ
tám là thức A Lại Da. Ta và người ở nơi ngôn ngữ và hành vi của thân tâm cho ấn
tượng lưu giữ trong ý thức, tuy có cạn có sâu, nhưng đều không do sự lâu hay
tạm của thời gian mà xóa diệt. Đối với một sự vật nào đó, ấn tượng sâu sắc, cố
nhiên trọn đời khó quên; vả mỗi khi nhân đối với ấn tượng việc này mà ảnh hưởng
đến tâm lý và hành vi của người ta, dẫu cho là ấn tượng của người rất mỏng cạn
nhỏ nhặt, cũng sẽ giữ gìn vĩnh cửu ở trong ý thức. Hiện tại các nhà tâm lý học
giải thích “mộng” là hoạt động ẩn chứa trong ý thức đồng thời cũng biểu thị cho
chúng ta thấy nghiệp lực cũng là bất diệt.
cho người hỏi hiểu rõ, nhân vì nó không hình không tướng, không chất không
lượng, nhưng người ta khởi tâm động niệm, đều thành nghiệp chủng, vả lại trọn
không thể mài dũa hay diệt đi, nó tồn tại hằng hữu, gặp duyên thì khởi hiện
hạnh. Chúng ta nếu miễn cưỡng làm một phép so sánh, thì không ngại nói là ấn
tượng trong ý thức của ta và người. Ta và người mỗi khi có khởi tâm động niệm,
cho đến ngôn ngữ hành vi, không kể là thiện hay ác, trong ý thức tất có lưu giữ
ấn tượng, đây tức là nghiệp chủng vào trong ruộng thức thứ tám, ruộng thức thứ
tám là thức A Lại Da. Ta và người ở nơi ngôn ngữ và hành vi của thân tâm cho ấn
tượng lưu giữ trong ý thức, tuy có cạn có sâu, nhưng đều không do sự lâu hay
tạm của thời gian mà xóa diệt. Đối với một sự vật nào đó, ấn tượng sâu sắc, cố
nhiên trọn đời khó quên; vả mỗi khi nhân đối với ấn tượng việc này mà ảnh hưởng
đến tâm lý và hành vi của người ta, dẫu cho là ấn tượng của người rất mỏng cạn
nhỏ nhặt, cũng sẽ giữ gìn vĩnh cửu ở trong ý thức. Hiện tại các nhà tâm lý học
giải thích “mộng” là hoạt động ẩn chứa trong ý thức đồng thời cũng biểu thị cho
chúng ta thấy nghiệp lực cũng là bất diệt.
Nghiệp, lấy hiện tại để giải thích đại
khái là mỗi người đều nhờ vào kết quả phản ứng hoạt động ý lực không dứt của
chính mình, tạo thành tánh cách của mình, tánh cách này lại tạo thành gốc gác
của hoạt động tương lai, chi phối vận mệnh chính mình. Từ sự chi phối vận mệnh
một điểm đó mà nói, gọi là “nghiệp quả hoặc nghiệp báo”. Nghiệp là vĩnh viễn
không diệt, trừ phi nghiệp tận – ý chí đình chỉ hoạt động. Hoạt động nếu chuyển
một phương hướng, nghiệp bèn cũng chuyển phương hướng mà tồn tại, nghiệp quả
nghiệp báo chẳng phải lấy một thời kỳ tử vong sinh mạng mà hết đâu, tử vong bất
quá là “sắc thân” này (thân thể vật chất cấu thành) theo phép tắc vật lý mà có
tụ có tan. Sinh mạng thật ra không phải là thuần tuý vật chất, cho nên mỗi người
tạo nghiệp, đều không nhân nơi tử vong của thân thể vật chất mà tiêu diệt. Sau
khi tử vong, cái lực của nghiệp khiến mình đuổi dẫn chính mình đổi thành một
phương hướng khác, hình thành một cái sinh mạng mới, cách chuyển đổi trạng thái
này gọi là “luân hồi”. Hiểu được đạo lý luân hồi, lại có thể chứng minh nguyên
tắc nghiệp lực không diệt.
khái là mỗi người đều nhờ vào kết quả phản ứng hoạt động ý lực không dứt của
chính mình, tạo thành tánh cách của mình, tánh cách này lại tạo thành gốc gác
của hoạt động tương lai, chi phối vận mệnh chính mình. Từ sự chi phối vận mệnh
một điểm đó mà nói, gọi là “nghiệp quả hoặc nghiệp báo”. Nghiệp là vĩnh viễn
không diệt, trừ phi nghiệp tận – ý chí đình chỉ hoạt động. Hoạt động nếu chuyển
một phương hướng, nghiệp bèn cũng chuyển phương hướng mà tồn tại, nghiệp quả
nghiệp báo chẳng phải lấy một thời kỳ tử vong sinh mạng mà hết đâu, tử vong bất
quá là “sắc thân” này (thân thể vật chất cấu thành) theo phép tắc vật lý mà có
tụ có tan. Sinh mạng thật ra không phải là thuần tuý vật chất, cho nên mỗi người
tạo nghiệp, đều không nhân nơi tử vong của thân thể vật chất mà tiêu diệt. Sau
khi tử vong, cái lực của nghiệp khiến mình đuổi dẫn chính mình đổi thành một
phương hướng khác, hình thành một cái sinh mạng mới, cách chuyển đổi trạng thái
này gọi là “luân hồi”. Hiểu được đạo lý luân hồi, lại có thể chứng minh nguyên
tắc nghiệp lực không diệt.
Nghiệp lực đều không nhân nơi sự tử
vong của nhục thể mà tiêu diệt, sau khi nhục thể tử vong, nghiệp lực gởi gắm ở
trong thức của A Lại Da, thức này lại chịu sự chi phối của nghiệp lực, trở lại
kết hợp cùng với vật chất riêng thành một sinh mạng mới. Nhưng riêng sinh mạng
mới hình thành là người, là súc, là thần, là quỷ, thức A Lại da không thể tự
chủ, toàn dựa vào sự dẫn dắt của nghiệp lực. Trên kinh Phật có nói tình hình
nghiệp lực dắt dẫn A Lại Da thức là: “ví như đòi nợ, kẻ mạnh dẫn trước”. Thế
thì nói nghiệp lực, một phương diện nào đó sức nó nặng, thì lệch rơi về phía
đó.
vong của nhục thể mà tiêu diệt, sau khi nhục thể tử vong, nghiệp lực gởi gắm ở
trong thức của A Lại Da, thức này lại chịu sự chi phối của nghiệp lực, trở lại
kết hợp cùng với vật chất riêng thành một sinh mạng mới. Nhưng riêng sinh mạng
mới hình thành là người, là súc, là thần, là quỷ, thức A Lại da không thể tự
chủ, toàn dựa vào sự dẫn dắt của nghiệp lực. Trên kinh Phật có nói tình hình
nghiệp lực dắt dẫn A Lại Da thức là: “ví như đòi nợ, kẻ mạnh dẫn trước”. Thế
thì nói nghiệp lực, một phương diện nào đó sức nó nặng, thì lệch rơi về phía
đó.
Nghiệp lực tức là sau khi tạo tác thi
vi (khởi tâm động niệm), năng lực giữ gìn liên tục mà dẫn phát. Thọ báo nhân
gian đời này là nghiệp lực đời trước. Nghiệp lực đời trước cùng với nghiệp lực
đời này, lại quyết định cho tiền đồ đời sau; đây tức là nhân quả báo ứng ba
đời.
vi (khởi tâm động niệm), năng lực giữ gìn liên tục mà dẫn phát. Thọ báo nhân
gian đời này là nghiệp lực đời trước. Nghiệp lực đời trước cùng với nghiệp lực
đời này, lại quyết định cho tiền đồ đời sau; đây tức là nhân quả báo ứng ba
đời.
Y cứ nơi luật nhân quả của nghiệp lực
mà nói, thời gian nghiệp báo phát sinh có ba việc:
mà nói, thời gian nghiệp báo phát sinh có ba việc:
1. Thuận với hiện tại thọ nghiệp; tức
đời này tạo nghiệp, mà đời này cũng thọ báo.
đời này tạo nghiệp, mà đời này cũng thọ báo.
2. Thuận đời kế thọ nghiệp; tức đời này
tạo nghiệp, mà đời kế đến thọ quả báo.
tạo nghiệp, mà đời kế đến thọ quả báo.
3. Thuận đời sau thọ nghiệp, tức đời
này tạo nghiệp, mà hai hay nhiều đời sau mới thọ quả báo.
này tạo nghiệp, mà hai hay nhiều đời sau mới thọ quả báo.
Đây cũng tức là từ ba đời quá khứ, hiện
tại, vị lai mà nói rõ nhân quả là vấn đề không thể tiêu diệt; chỉ cần nhân
duyên đầy đủ, rốt cuộc cũng phải chịu báo ứng, mà tạo thành quả báo cho đời
sau, cuối cùng là do một vấn đề nghiệp lực đó xúc tác mà thành ư? Ở đây không
có ba sự phân biệt:
tại, vị lai mà nói rõ nhân quả là vấn đề không thể tiêu diệt; chỉ cần nhân
duyên đầy đủ, rốt cuộc cũng phải chịu báo ứng, mà tạo thành quả báo cho đời
sau, cuối cùng là do một vấn đề nghiệp lực đó xúc tác mà thành ư? Ở đây không
có ba sự phân biệt:
– Một là theo nơi sức nặng; không luận
thế nào, người đến lúc chết, nghiệp lực nhất định sẽ hiện ra, việc tốt xấu lúc
bình thường làm đều rất nhiều, ngay lúc này có một cái sức mạnh nghiệp lực đặc
biệt (không luận là thiện hay ác), sẽ so kè thế lực mà hiển hiện ra, con người
sẽ nương theo cái năng lực này mà thọ báo. Một người sát nhân, trong tâm thường
ghi nhớ sự việc ở trong tâm, quên không được, tức khiến cho quên mà lại mạnh
mẽcàng tồn tại cái lực; đến lúc chết, những việc làm tội lỗi này sẽ hiện tiền.
Cũng vậy, một người làm việc thiện một đời cứu người đến lúc mạng chung, thiện
nghiệp đó cũng sẽ tự nhiên hiển bày trước mắt. Đây cũng như người mắc nợ đến
cuối năm, chủ nợ đều đến, một người chủ nợ mạnh mà có sức lực hơn trong số đó,
bắt đem về đặc biệt ngược đãi làm hại, không thể không trả trước cho người đó.
thế nào, người đến lúc chết, nghiệp lực nhất định sẽ hiện ra, việc tốt xấu lúc
bình thường làm đều rất nhiều, ngay lúc này có một cái sức mạnh nghiệp lực đặc
biệt (không luận là thiện hay ác), sẽ so kè thế lực mà hiển hiện ra, con người
sẽ nương theo cái năng lực này mà thọ báo. Một người sát nhân, trong tâm thường
ghi nhớ sự việc ở trong tâm, quên không được, tức khiến cho quên mà lại mạnh
mẽcàng tồn tại cái lực; đến lúc chết, những việc làm tội lỗi này sẽ hiện tiền.
Cũng vậy, một người làm việc thiện một đời cứu người đến lúc mạng chung, thiện
nghiệp đó cũng sẽ tự nhiên hiển bày trước mắt. Đây cũng như người mắc nợ đến
cuối năm, chủ nợ đều đến, một người chủ nợ mạnh mà có sức lực hơn trong số đó,
bắt đem về đặc biệt ngược đãi làm hại, không thể không trả trước cho người đó.
– Hai là theo nơi tập khí, như có người
không có nghiệp rất tốt rất xấu, bình thường làm việc, thói quen cho là thường,
cũng có thể sản sinh ra năng lực vĩ đại, tuy là ác nhỏ, cuối cùng phải mắc ác
báo, thiện nhỏ cũng có thể được thiện báo, tức là nói ngay khi trồng nghiệp gì,
thì đã định về sau, cuối cùng ắt phải theo nghiệp định này mà thọ báo.
không có nghiệp rất tốt rất xấu, bình thường làm việc, thói quen cho là thường,
cũng có thể sản sinh ra năng lực vĩ đại, tuy là ác nhỏ, cuối cùng phải mắc ác
báo, thiện nhỏ cũng có thể được thiện báo, tức là nói ngay khi trồng nghiệp gì,
thì đã định về sau, cuối cùng ắt phải theo nghiệp định này mà thọ báo.
– Ba là theo sự nhớ nghĩ; bình thường
cuộc sống không có thiện ác gì trọng đại, cũng không có sự tình chứa nhóm, cuối
sau bỗng nhớ tới cái gì đó, thì lấy niệm thiện hoặc niệm ác này mà thọ báo.
Phật pháp lúc bình thường chỉ nêu đối đãi người nặng bệnh, tất nhiên bảo họ
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, lúc bình thường xưng tán công đức bố thí, trì
giới, khiến họ nhớ khởi lên công đức, tâm sinh thiện niệm, nương nơi công lực
này thì sẽ đi lên tiền đồ tốt đẹp. Có người tuy có nghiệp thiện, nhưng lúc lâm
chung chịu sự đâm chích đau khổ trong lòng, niệm ác hiện tiền đến nỗi đoạ lạc.
Cho nên người đời nay đến lúc lâm chung, không luận già trẻ, đều không nên kêu
khóc và xô động thân thể của người chết, chẳng như vậy thì làm phiền tâm thần
của họ, khiến họ sinh khởi phiền não. Nên khuyên họ vất đi buông rời, chuyên tâm
niệm Phật, niệm công đức… nhưng rốt cuộc lúc bình thường trọng ở nơi lúc lâm
chung, như lúc bình thường tạo nên cái ác nặng, nên lúc họ lâm chung khởi một
niệm thiện là không thể khởi được; Trừ phi anh ta đời trước có nghiệp thiện,
lúc bình thường hay có nghiệp thiện to lớn, hoặc tập thiện thành tánh, mà vả ở
lúc lâm chung có trợ niệm thêm, thì có thể quyết định qua nơi cõi lành.
cuộc sống không có thiện ác gì trọng đại, cũng không có sự tình chứa nhóm, cuối
sau bỗng nhớ tới cái gì đó, thì lấy niệm thiện hoặc niệm ác này mà thọ báo.
Phật pháp lúc bình thường chỉ nêu đối đãi người nặng bệnh, tất nhiên bảo họ
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, lúc bình thường xưng tán công đức bố thí, trì
giới, khiến họ nhớ khởi lên công đức, tâm sinh thiện niệm, nương nơi công lực
này thì sẽ đi lên tiền đồ tốt đẹp. Có người tuy có nghiệp thiện, nhưng lúc lâm
chung chịu sự đâm chích đau khổ trong lòng, niệm ác hiện tiền đến nỗi đoạ lạc.
Cho nên người đời nay đến lúc lâm chung, không luận già trẻ, đều không nên kêu
khóc và xô động thân thể của người chết, chẳng như vậy thì làm phiền tâm thần
của họ, khiến họ sinh khởi phiền não. Nên khuyên họ vất đi buông rời, chuyên tâm
niệm Phật, niệm công đức… nhưng rốt cuộc lúc bình thường trọng ở nơi lúc lâm
chung, như lúc bình thường tạo nên cái ác nặng, nên lúc họ lâm chung khởi một
niệm thiện là không thể khởi được; Trừ phi anh ta đời trước có nghiệp thiện,
lúc bình thường hay có nghiệp thiện to lớn, hoặc tập thiện thành tánh, mà vả ở
lúc lâm chung có trợ niệm thêm, thì có thể quyết định qua nơi cõi lành.
Như y nơi lập trường “thiện có báo
thiện, ác có báo ác” mà nói, mỗi con người ở mỗi đời đều có thiện nghiệp và ác
nghiệp, như thế không phải là vĩnh viễn không có cách nào liễu thoát sinh tử
hay sao? Nói một cách chơn thật, riêng chỉ mỗi nghiệp lực còn không nhất định
có thể khiến chúng ta sinh; ngoài nghiệp lực còn có điều kiện của phiền não,
trong đó “khát ái” là tối trọng yếu. Tham luyến thế gian, hy vọng sinh tồn, tức
là nên dứt đi cái “ái” sinh mạng này; như không khát (ái) các thứ nước thấm
(phiền não), cũng sẽ không thể trở lại cảm lấy mầm (khổ của sinh) đâu.
thiện, ác có báo ác” mà nói, mỗi con người ở mỗi đời đều có thiện nghiệp và ác
nghiệp, như thế không phải là vĩnh viễn không có cách nào liễu thoát sinh tử
hay sao? Nói một cách chơn thật, riêng chỉ mỗi nghiệp lực còn không nhất định
có thể khiến chúng ta sinh; ngoài nghiệp lực còn có điều kiện của phiền não,
trong đó “khát ái” là tối trọng yếu. Tham luyến thế gian, hy vọng sinh tồn, tức
là nên dứt đi cái “ái” sinh mạng này; như không khát (ái) các thứ nước thấm
(phiền não), cũng sẽ không thể trở lại cảm lấy mầm (khổ của sinh) đâu.
Phật pháp cũng là bảo người: “dứt phiền
não, xong sinh tử”.
não, xong sinh tử”.
15. BA CÕI VÀ SÁU ĐƯỜNG.
Hữu tình trong ba cõi, nhân nơi mê hoặc
mà tạo nghiệp, nhân tạo nghiệp mà thọ khổ, rồi nhân thọ khổ lại mê hoặc. Ba
món: hoặc – nghiệp – khổ này, tức hình thành ra tánh ác tuần hoàn. Nhưng nghiệp
mà hoặc tạo ra, có chia ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp nhẹ, nghiệp nặng. Do
đây quả báo nhận được cũng có phân ra làm sáu đường. Nghiệp thức ở trong sáu
đường mà sinh đây tử kia thì gọi là luân hồi sáu đường.
mà tạo nghiệp, nhân tạo nghiệp mà thọ khổ, rồi nhân thọ khổ lại mê hoặc. Ba
món: hoặc – nghiệp – khổ này, tức hình thành ra tánh ác tuần hoàn. Nhưng nghiệp
mà hoặc tạo ra, có chia ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp nhẹ, nghiệp nặng. Do
đây quả báo nhận được cũng có phân ra làm sáu đường. Nghiệp thức ở trong sáu
đường mà sinh đây tử kia thì gọi là luân hồi sáu đường.
Thế nào là sáu đường? Sáu đường là:
trời, A Tu La, người, ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục. Ba đường trước gọi là
đường thiện, ba đường sau gọi là đường ác.
trời, A Tu La, người, ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục. Ba đường trước gọi là
đường thiện, ba đường sau gọi là đường ác.
Trong đó trời phước báo rất nhiều, thọ
mạng cũng dài. A Tu La phước báo giống trời, mà tâm sân rất là nặng, đấu tranh
không dừng. Người thì khổ nhiều vui ít. Súc sinh thì là toàn khổ thôi. Ngạ quỷ
thường chịu đói lạnh, nên gọi là ngạ quỷ, địa ngục thì khổ đau cõi đó rất nhiều
kiểu. Song ở trong sáu đường này, phước báo khổ vui trong mỗi đường cũng phiền
phức khác lạ muôn mối, như cõi người có giàu sang và nghèo hèn, chia ra thành
đạt và cùng khốn, thọ và yểu… Ba cõi, trong đó chia ra: cõi sắc, cõi dục và
các cõi trời vô sắc. Tóm lại, đều do nghiệp lực chiêu cảm, thiện thì đi lên mà
ác thì đoạ lạc, lý cố nhiên như vậy.
mạng cũng dài. A Tu La phước báo giống trời, mà tâm sân rất là nặng, đấu tranh
không dừng. Người thì khổ nhiều vui ít. Súc sinh thì là toàn khổ thôi. Ngạ quỷ
thường chịu đói lạnh, nên gọi là ngạ quỷ, địa ngục thì khổ đau cõi đó rất nhiều
kiểu. Song ở trong sáu đường này, phước báo khổ vui trong mỗi đường cũng phiền
phức khác lạ muôn mối, như cõi người có giàu sang và nghèo hèn, chia ra thành
đạt và cùng khốn, thọ và yểu… Ba cõi, trong đó chia ra: cõi sắc, cõi dục và
các cõi trời vô sắc. Tóm lại, đều do nghiệp lực chiêu cảm, thiện thì đi lên mà
ác thì đoạ lạc, lý cố nhiên như vậy.
Biểu đồ ba cõi, sáu đường như sau
(chúng sinh sáu đường luân hồi):
(chúng sinh sáu đường luân hồi):
Ba cõi:
Dục giới: thế giới dục, có đủ nam nữ,
ăn uống.
ăn uống.
Sắc giới: thế giới tâm thức, lìa nam
nữ, ăn uống.
nữ, ăn uống.
Vô sắc giới: thế giới tâm thức, không
có hình sắc.
có hình sắc.
Sáu đường:
Trời
……… A Tu La
………………….. Người
………………….. Súc sinh
………………….. Ngạ quỷ
………………….. Địa ngục.
CON NGƯỜI – Sanh từ đâu đến và chết đi
về đâu?
về đâu?
Con người, sinh ra từ đâu đến,
chết rồi đi về đâu? Anh biết rồi, thế thì quá tốt.
chết rồi đi về đâu? Anh biết rồi, thế thì quá tốt.
Con người, đời này làm người, là đời
trước do phước báo cõi trời hưởng hết nên đọa lạc vào con đường làm người; hoặc
ở nơi nhân đạo sau khi chết hợp với việc trở lại làm người mà trở lại sinh làm
người; hoặc do khổ báo ba đường ác chịu đủ rồi chuyển sinh làm người.
trước do phước báo cõi trời hưởng hết nên đọa lạc vào con đường làm người; hoặc
ở nơi nhân đạo sau khi chết hợp với việc trở lại làm người mà trở lại sinh làm
người; hoặc do khổ báo ba đường ác chịu đủ rồi chuyển sinh làm người.
Người chết, chẳng phải là một khi chết
là trăm việc hết, chết rồi thì xong; mà người chết là nhục thân chết thôi,
người đời nói “linh hồn”, cái đó vĩnh viễn không thể chết, đó là theo chỗ tạo
tác thi vi lúc sinh tiền; làm thiện thì thăng thiên hưởng phước hoặc sinh trở
lại làm người, nếu làm ác, thì đoạ lạc trong ba đường chịu lấy khổ báo, tức là
chết đây rồi lại sinh, sinh rồi lại chết, sinh chết, chết sinh xoay vần luân
chuyển, trọn không dừng lại, đây tức chỗ gọi là luân hồi sáu đường. Cũng tức là
báo ứng nhân quả thiện có thiện báo, ác có ác báo.
là trăm việc hết, chết rồi thì xong; mà người chết là nhục thân chết thôi,
người đời nói “linh hồn”, cái đó vĩnh viễn không thể chết, đó là theo chỗ tạo
tác thi vi lúc sinh tiền; làm thiện thì thăng thiên hưởng phước hoặc sinh trở
lại làm người, nếu làm ác, thì đoạ lạc trong ba đường chịu lấy khổ báo, tức là
chết đây rồi lại sinh, sinh rồi lại chết, sinh chết, chết sinh xoay vần luân
chuyển, trọn không dừng lại, đây tức chỗ gọi là luân hồi sáu đường. Cũng tức là
báo ứng nhân quả thiện có thiện báo, ác có ác báo.
Con người, thần thức (linh hồn) sau khi
chết trở lại chuyển sinh là thật đúng không? Thế nào là không đúng; Từ xưa trở
lại trên sách sử chánh kinh ghi chép việc sau khi chết chuyển sinh và mượn thây
chết hoàn hồn không biết là bao nhiêu, tức là bảo hiện tại cũng thường có vấn
đề này, anh cho là vì đánh lừa người phải không? Hành giả tự sức tu hành, được
khai ngộ, có thiên nhãn huệ nhãn, việc trong sáu đường thì có thể xem xét rất
rõ ràng; chúng ta là phàm phu chỉ có nhục nhãn, chỉ có thể nhìn thấy việc của
phàm phu và súc sinh, còn thiên đạo, ngạ quỷ đạo và địa ngục đạo đương nhiên
không thấy.
chết trở lại chuyển sinh là thật đúng không? Thế nào là không đúng; Từ xưa trở
lại trên sách sử chánh kinh ghi chép việc sau khi chết chuyển sinh và mượn thây
chết hoàn hồn không biết là bao nhiêu, tức là bảo hiện tại cũng thường có vấn
đề này, anh cho là vì đánh lừa người phải không? Hành giả tự sức tu hành, được
khai ngộ, có thiên nhãn huệ nhãn, việc trong sáu đường thì có thể xem xét rất
rõ ràng; chúng ta là phàm phu chỉ có nhục nhãn, chỉ có thể nhìn thấy việc của
phàm phu và súc sinh, còn thiên đạo, ngạ quỷ đạo và địa ngục đạo đương nhiên
không thấy.
Tự nhiên bất toàn là việc đánh lừa
người, nhưng không biết rốt cuộc là việc gì? Ở đây không có gì khó rõ, ở đây
cũng tức là “nhân quả”. So như anh việc làm đời này hợp với thiên đạo, như thế
đời sau (sau khi chết) sẽ thăng thiên hưởng phước; nếu như anh đời này việc làm
hợp với nhân đạo, như thế đời sau tái sinh làm người; ngoài ra các đường khác
đều là như vậy. Đây tức là giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu,
đều là việc tự nhiên, không lạ lẫm gì cả. Như món anh trồng là dưa, thần không
thể biến nó thành một cây đậu; (nếu có, thì đó chỉ là giả thuật không chân
chánh). Như thế việc anh làm là nhân “thiên đạo”, thần tự nhiên không thể cưỡng
bách anh đoạ lạc vào địa ngục; đây là vấn đề rất hiển nhiên. Trở lại nói đơn
giản một chút, tức là làm thiện được phước, làm ác bị hoạ.
người, nhưng không biết rốt cuộc là việc gì? Ở đây không có gì khó rõ, ở đây
cũng tức là “nhân quả”. So như anh việc làm đời này hợp với thiên đạo, như thế
đời sau (sau khi chết) sẽ thăng thiên hưởng phước; nếu như anh đời này việc làm
hợp với nhân đạo, như thế đời sau tái sinh làm người; ngoài ra các đường khác
đều là như vậy. Đây tức là giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu,
đều là việc tự nhiên, không lạ lẫm gì cả. Như món anh trồng là dưa, thần không
thể biến nó thành một cây đậu; (nếu có, thì đó chỉ là giả thuật không chân
chánh). Như thế việc anh làm là nhân “thiên đạo”, thần tự nhiên không thể cưỡng
bách anh đoạ lạc vào địa ngục; đây là vấn đề rất hiển nhiên. Trở lại nói đơn
giản một chút, tức là làm thiện được phước, làm ác bị hoạ.
Sáu đường thì đường nào tốt nhất? Đương
nhiên đường Trời (thiên đạo) là tốt nhất; kế tới là Atula, rồi đến người. Còn
các đường khác thêm một đường không bằng một đường, thêm một đường thì khổ một
đường.
nhiên đường Trời (thiên đạo) là tốt nhất; kế tới là Atula, rồi đến người. Còn
các đường khác thêm một đường không bằng một đường, thêm một đường thì khổ một
đường.
Chúng ta nhờ dựa nơi lương tâm, làm
nhiều việc thiện, không thể ra khỏi luân hồi sao? Không! thế thì không làm!
Người làm việc thiện thì sau được báo ứng tốt sinh vào thiên đạo, chờ cho báo
ứng xong hết trở lại chuyển đến các đường khác, cũng như vậy có thể chuyển sinh
đến đường súc sinh; Nếu muốn thoát ly luân hồi sáu đường mà riêng nhờ vào việc
làm thiện thì không đủ đâu, chẳng học phật tu hành chẳng thể được, chí thành
chuyên nhất tinh tấn không biếng lười, không phô bày, không lơ là, mới có thể
ra khỏi luân hồi sáu đường; Không phải nói qua loa ta tu hành học Phật là xong,
thì là ra khỏi luân hồi sáu đường xong rồi, đơn giản như thế sao, thật đơn giản
như thế thì bốn chúng của Phật giáo đều ra khỏi luân hồi rồi.
nhiều việc thiện, không thể ra khỏi luân hồi sao? Không! thế thì không làm!
Người làm việc thiện thì sau được báo ứng tốt sinh vào thiên đạo, chờ cho báo
ứng xong hết trở lại chuyển đến các đường khác, cũng như vậy có thể chuyển sinh
đến đường súc sinh; Nếu muốn thoát ly luân hồi sáu đường mà riêng nhờ vào việc
làm thiện thì không đủ đâu, chẳng học phật tu hành chẳng thể được, chí thành
chuyên nhất tinh tấn không biếng lười, không phô bày, không lơ là, mới có thể
ra khỏi luân hồi sáu đường; Không phải nói qua loa ta tu hành học Phật là xong,
thì là ra khỏi luân hồi sáu đường xong rồi, đơn giản như thế sao, thật đơn giản
như thế thì bốn chúng của Phật giáo đều ra khỏi luân hồi rồi.
Khổ vui sáu đường luân hồi đều là một
kiểu cũng được, song thì khổ và vui là không giống nhau. Nếu anh cho thế giới
Ta bà là biển khổ, đời người là khổ, khổ nhiều vui ít, làm ác dễ làm thiện khó,
cơ hội sanh Thiên hưởng phước ít, cơ hội rơi vào ba đường ác thì nhiều. Một khi
mất thân người rơi vào ba đường ác thì không phải là việc giỡn chơi. Không muốn
ở trong sáu đường luân hối, muốn thoát ly ra khỏi luân hồi của sáu đường, thì
cần phải học tu hành.
kiểu cũng được, song thì khổ và vui là không giống nhau. Nếu anh cho thế giới
Ta bà là biển khổ, đời người là khổ, khổ nhiều vui ít, làm ác dễ làm thiện khó,
cơ hội sanh Thiên hưởng phước ít, cơ hội rơi vào ba đường ác thì nhiều. Một khi
mất thân người rơi vào ba đường ác thì không phải là việc giỡn chơi. Không muốn
ở trong sáu đường luân hối, muốn thoát ly ra khỏi luân hồi của sáu đường, thì
cần phải học tu hành.
16. PHIỀN NÃO
Phiền não cũng gọi là: Hoặc, trần lao,
nhiễm ô v.v… Do vì nó nhiễm loạn sự thanh tịnh thân tâm chúng sinh hữu tình,
không được giác ngộ, làm chướng ngại lý tưởng Niết Bàn.
nhiễm ô v.v… Do vì nó nhiễm loạn sự thanh tịnh thân tâm chúng sinh hữu tình,
không được giác ngộ, làm chướng ngại lý tưởng Niết Bàn.
Phiền não chủ yếu không hiển bày bề mặt
mà là tiềm ẩn tánh cách tà ác và cố tật ở chỗ sâu xa nội tâm, một khi có cơ hội
liền hiển bày biến hóa.
mà là tiềm ẩn tánh cách tà ác và cố tật ở chỗ sâu xa nội tâm, một khi có cơ hội
liền hiển bày biến hóa.
Phiền não, có thể riêng phân ra: “căn
bản phiền não” và “tuỳ phiền não”. Tuỳ phiền não lại có thể từ lớn tới nhỏ về
phạm vi nhiễm ô mà chia ra: tiểu tuỳ phiền não, trung tuỳ phiền não và đại tuỳ
phiền não. Nay đem các món phiền não mà phân biệt một cách đơn giản để lần lượt
nói ra:
bản phiền não” và “tuỳ phiền não”. Tuỳ phiền não lại có thể từ lớn tới nhỏ về
phạm vi nhiễm ô mà chia ra: tiểu tuỳ phiền não, trung tuỳ phiền não và đại tuỳ
phiền não. Nay đem các món phiền não mà phân biệt một cách đơn giản để lần lượt
nói ra:
Căn bản phiền não.
Căn bản phiền não có sáu việc: tham –
sân – si – mạn – nghi – kiến, được giải thích từng việc như sau:
sân – si – mạn – nghi – kiến, được giải thích từng việc như sau:
Tham: là chỉ cho tham dục hoặc tham ái.
Tham tức là đối tượng và sự yêu thích đối lòng ưa thích, càng nhiều càng tốt,
tham lam không bao giờ biết đủ.
Tham tức là đối tượng và sự yêu thích đối lòng ưa thích, càng nhiều càng tốt,
tham lam không bao giờ biết đủ.
Sân: là nguyện vọng đối với mình, khi
yêu thích rồi mà có lúc trái ngược, thì tâm tình phẫn nộ liền sinh khởi.
yêu thích rồi mà có lúc trái ngược, thì tâm tình phẫn nộ liền sinh khởi.
Si: tức là “vô minh” của mười hai duyên
khởi, không rõ thị phi, không tin nhân quả, mà khởi lên các món tà kiến, tà
hạnh.
khởi, không rõ thị phi, không tin nhân quả, mà khởi lên các món tà kiến, tà
hạnh.
Mạn: nâng cao chính mình mà xem thấp
người khác, lấy tự “bản ngã” mà tình kết trong tâm.
người khác, lấy tự “bản ngã” mà tình kết trong tâm.
Nghi: hoài nghi luật nhân quả, hoài
nghi thiện ác báo ứng, hoài nghi chơn lý Phật nói; nó làm ngăn trở sự tăng trưởng
của huệ căn.
nghi thiện ác báo ứng, hoài nghi chơn lý Phật nói; nó làm ngăn trở sự tăng trưởng
của huệ căn.
Kiến: tức không giữ được chính niệm,
lấy tà kiến, tà hạnh làm pháp đạo để tu.
lấy tà kiến, tà hạnh làm pháp đạo để tu.
Trong sáu món phiền não, năm món trên
là sự mê hoặc tình ý chấp trước trên tập quán, gọi là TƯ HOẶC (tu hoặc). Đối
với phiền não tư hoặc này dù cho có thể hiểu biết trên lý luận nó là loại sai
lầm, nhưng hãy còn rất khó sửa đổi, loại tập quán này mê hoặc ngoan cố, cần
phải dựa vào sự nỗ lực tu hành thời gian dài mới có thể lần hồi dứt trừ. Tư
hoặc cũng gọi là “độn sử” (phiền não nặng nề chậm lụt)
là sự mê hoặc tình ý chấp trước trên tập quán, gọi là TƯ HOẶC (tu hoặc). Đối
với phiền não tư hoặc này dù cho có thể hiểu biết trên lý luận nó là loại sai
lầm, nhưng hãy còn rất khó sửa đổi, loại tập quán này mê hoặc ngoan cố, cần
phải dựa vào sự nỗ lực tu hành thời gian dài mới có thể lần hồi dứt trừ. Tư
hoặc cũng gọi là “độn sử” (phiền não nặng nề chậm lụt)
Món Kiến, là sự mê hoặc trên tư tưởng,
cũng gọi là KIẾN HOẶC. Loại phiền não này như có thể nghe lý luận chính xác mà
lãnh ngộ, thì có thể lập tức trừ bỏ mê hoặc, do đó cũng gọi là “lợi sử” (phiền
não nhạy bén). Như có thể đoạn được kiến hoặc, cũng là thấy được vị trí đạo,
tức là KHAI NGỘ. Như nếu dứt được kiến hoặc và tư hoặc, tức là chứng quả A LA
HÁN.
cũng gọi là KIẾN HOẶC. Loại phiền não này như có thể nghe lý luận chính xác mà
lãnh ngộ, thì có thể lập tức trừ bỏ mê hoặc, do đó cũng gọi là “lợi sử” (phiền
não nhạy bén). Như có thể đoạn được kiến hoặc, cũng là thấy được vị trí đạo,
tức là KHAI NGỘ. Như nếu dứt được kiến hoặc và tư hoặc, tức là chứng quả A LA
HÁN.
Tiểu tuỳ phiền não
Tiểu tuỳ phiền não có mười món: 1.
Phẫn, giận dỗi kịch liệt. 2. Hận, do sân giận tích chứa kết ở trong tâm. 3.
Phú, chính sự che đậy của mạng sống thường xuyên mà thành lớn. 4. Não, ác não,
phiền muộn. 5. Tật, sự đố kỵ ganh ghét. 6. Lận sắc (khan), lòng dạ hẹp hòi. 7.
Cuống, dùng lời nói dối lừa người khác. 8. Siểm, dùng lời nói để đánh dò người
mà vui sướng. 9. Kiêu, kiêu ngạo (món này cùng với “mạn” của căn bản phiền não
có sự khác nhau, là sự tự hào chưa trải qua sự so sánh bản thân mà sinh khởi).
10. Hại, là từ nơi sự sân hận phát sinh ra hành động thêm hại cho tâm người
khác. Sự tàn nhẫn cũng là gần như hại.
Phẫn, giận dỗi kịch liệt. 2. Hận, do sân giận tích chứa kết ở trong tâm. 3.
Phú, chính sự che đậy của mạng sống thường xuyên mà thành lớn. 4. Não, ác não,
phiền muộn. 5. Tật, sự đố kỵ ganh ghét. 6. Lận sắc (khan), lòng dạ hẹp hòi. 7.
Cuống, dùng lời nói dối lừa người khác. 8. Siểm, dùng lời nói để đánh dò người
mà vui sướng. 9. Kiêu, kiêu ngạo (món này cùng với “mạn” của căn bản phiền não
có sự khác nhau, là sự tự hào chưa trải qua sự so sánh bản thân mà sinh khởi).
10. Hại, là từ nơi sự sân hận phát sinh ra hành động thêm hại cho tâm người
khác. Sự tàn nhẫn cũng là gần như hại.
Trung tuỳ phiền não
Trung tuỳ phiền não có hai món: 1. Vô
tàm, không có sự hổ thẹn đối với nội tâm. 2. Vô quý, không có sự hổ thẹn đối
với thế giới bên ngoài.
tàm, không có sự hổ thẹn đối với nội tâm. 2. Vô quý, không có sự hổ thẹn đối
với thế giới bên ngoài.
Đại tuỳ phiền não
Đại tuỳ phiền não có tám món: 1. Hôn
trầm, tâm tình nặng nề không mở mang. 2. Điệu cử, tâm tình bềnh bồng không
định. 3. Bất tín, không tin có báo ứng nhân quả. 4. Giãi đãi, không có sự nỗ
lực. 5. Phóng dật, tức là mặc tình lung tánh vọng làm. 6. Thất niệm, mất đi
chánh niệm (có muốn cũng không khởi ra). 7. Tán loạn, tâm không chuyên nhất. 8.
Bất chánh tri, không có sự thấy hiểu chính xác.
trầm, tâm tình nặng nề không mở mang. 2. Điệu cử, tâm tình bềnh bồng không
định. 3. Bất tín, không tin có báo ứng nhân quả. 4. Giãi đãi, không có sự nỗ
lực. 5. Phóng dật, tức là mặc tình lung tánh vọng làm. 6. Thất niệm, mất đi
chánh niệm (có muốn cũng không khởi ra). 7. Tán loạn, tâm không chuyên nhất. 8.
Bất chánh tri, không có sự thấy hiểu chính xác.
Tiểu, trung, đại; ba món “tuỳ phiền
não” ở trước, đều là chi mạc phiền não (phiền não cành nhánh), theo nơi sáu món
căn bản phiền não mà sinh khởi. Tóm lại, cũng là phiền não nhiễm ô, trở ngại
cho việc thực hiện chứng ngộ.
não” ở trước, đều là chi mạc phiền não (phiền não cành nhánh), theo nơi sáu món
căn bản phiền não mà sinh khởi. Tóm lại, cũng là phiền não nhiễm ô, trở ngại
cho việc thực hiện chứng ngộ.
17. HỒI HƯỚNG
Hồi hướng là qui hồi công đức của mình
tu, thảy đều hướng chuyển về Phật đạo, để xu hướng nơi đối tượng được kỳ vọng,
để cầu được vĩnh viễn thóat ly biển khổ sinh tử, gọi là hồi hướng.
tu, thảy đều hướng chuyển về Phật đạo, để xu hướng nơi đối tượng được kỳ vọng,
để cầu được vĩnh viễn thóat ly biển khổ sinh tử, gọi là hồi hướng.
Nếu không thể làm việc “hồi hướng” như
đây, thì khiến cho một đời trì giới, một đời tu Phật đạo, cũng khó giải thoát
sự trói buộc của sinh tử. Hồi hướng là một việc làm trọng yếu trong cuộc sống
tu hành của người Phật tử, các công sức trong một ngày làm được, cuối cùng đem
đức hồi hướng. Chỗ gọi là hồi hướng, bèn là lấy công đức nhỏ của mình để vào
việc to lớn, thế này tích chứa hàng ngày, trong tâm, trong cái nhìn và trong tư
tưởng của người này đều sẽ theo phương diện tốt đẹp mà rộng lớn, khiến người
phàm nuôi dưỡng trong tâm thành bậc Thánh, công đức đó là do từng việc nhỏ biến
thành chẳng phải gọi là lớn. Người ta mỗi ngày niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh
và các công đức thiện hạnh, đều hay hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đồng sinh
tịnh độ, đồng gặp Phật Di Đà.
đây, thì khiến cho một đời trì giới, một đời tu Phật đạo, cũng khó giải thoát
sự trói buộc của sinh tử. Hồi hướng là một việc làm trọng yếu trong cuộc sống
tu hành của người Phật tử, các công sức trong một ngày làm được, cuối cùng đem
đức hồi hướng. Chỗ gọi là hồi hướng, bèn là lấy công đức nhỏ của mình để vào
việc to lớn, thế này tích chứa hàng ngày, trong tâm, trong cái nhìn và trong tư
tưởng của người này đều sẽ theo phương diện tốt đẹp mà rộng lớn, khiến người
phàm nuôi dưỡng trong tâm thành bậc Thánh, công đức đó là do từng việc nhỏ biến
thành chẳng phải gọi là lớn. Người ta mỗi ngày niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh
và các công đức thiện hạnh, đều hay hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đồng sinh
tịnh độ, đồng gặp Phật Di Đà.
Công đức không nhất định phải xuất tiền
xuất sức mới có công đức. Như giảng kinh nói pháp, nghe pháp, tụng kinh, niệm
Phật, lạy Phật, thậm chí nói một câu ái ngữ cổ động khích lệ hoặc lời an ủi,
khiến cho đối phương hướng thiện, hướng thượng, những việc này đều là công đức,
đều cần nên “hồi hướng”. Mỗi thời khóa ngày đêm niệm cung kính: “đệ tử tên…
nguyện đem tất cả công đức của ngày hôm nay hồi hướng: trang nghiêm tịnh độ
Phật, trên trả bốn ơn nặng, dưới cứu độ ba đường khổ, nếu có người thấy nghe,
đều phát tâm Bồ Đề, hết báo thân này rồi, đồng sinh nước Cực Lạc”. Đây là hồi
hướng lớn, nếu ở trong nhà có người sức khỏe rất kém, hoặc sự nghiệp của mình
không thuận lợi… cũng có thể làm hồi hướng nhỏ. Chúng ta có thể nói: “Lấy tất
cả công đức này hồi hướng cho (việc, ai đó) khiến họ thân thể khoẻ mạnh trở
lại”… Hoặc nói: “đệ tử…. nguyện đem công đức đã làm trong ngày hôm nay hồi
hướng cho cha mẹ đời trước, kẻ oán người thân, chủ nợ đời trước của (ai đó)..
thảy đều phát tâm bồ đề, đồng sinh nước Cực Lạc”. Nhưng phải nhớ rằng: nhất
định trước tiên phải làm việc hồi hướng lớn, rồi sau đó mới làm hồi hướng nhỏ.
xuất sức mới có công đức. Như giảng kinh nói pháp, nghe pháp, tụng kinh, niệm
Phật, lạy Phật, thậm chí nói một câu ái ngữ cổ động khích lệ hoặc lời an ủi,
khiến cho đối phương hướng thiện, hướng thượng, những việc này đều là công đức,
đều cần nên “hồi hướng”. Mỗi thời khóa ngày đêm niệm cung kính: “đệ tử tên…
nguyện đem tất cả công đức của ngày hôm nay hồi hướng: trang nghiêm tịnh độ
Phật, trên trả bốn ơn nặng, dưới cứu độ ba đường khổ, nếu có người thấy nghe,
đều phát tâm Bồ Đề, hết báo thân này rồi, đồng sinh nước Cực Lạc”. Đây là hồi
hướng lớn, nếu ở trong nhà có người sức khỏe rất kém, hoặc sự nghiệp của mình
không thuận lợi… cũng có thể làm hồi hướng nhỏ. Chúng ta có thể nói: “Lấy tất
cả công đức này hồi hướng cho (việc, ai đó) khiến họ thân thể khoẻ mạnh trở
lại”… Hoặc nói: “đệ tử…. nguyện đem công đức đã làm trong ngày hôm nay hồi
hướng cho cha mẹ đời trước, kẻ oán người thân, chủ nợ đời trước của (ai đó)..
thảy đều phát tâm bồ đề, đồng sinh nước Cực Lạc”. Nhưng phải nhớ rằng: nhất
định trước tiên phải làm việc hồi hướng lớn, rồi sau đó mới làm hồi hướng nhỏ.
Văn hồi hướng
“(Ai đó) nguyện đem công đức này (hoặc
công đức đã làm ngày hôm nay), hồi hướng cho tất cả oán, thân, chủ nợ từ vô
thuỷ kiếp đến nay của đệ tử, cha mẹ và lục thân quyến thuộc đời đời kiếp kiếp
oán thân bình đẳng, giải oan mở buộc, nghe kinh chú này, thảy đều lìa khổ được
vui, vãng sinh tịnh độ”.
công đức đã làm ngày hôm nay), hồi hướng cho tất cả oán, thân, chủ nợ từ vô
thuỷ kiếp đến nay của đệ tử, cha mẹ và lục thân quyến thuộc đời đời kiếp kiếp
oán thân bình đẳng, giải oan mở buộc, nghe kinh chú này, thảy đều lìa khổ được
vui, vãng sinh tịnh độ”.
Nếu học Phật, trên cuộc sống không
thuận tiện, thất ý hơn trước, là nghiệp trước nhiều đời, kẻ oán người thân, chủ
nợ đến đòi nợ. Đã học Phật tu hành, thì kẻ oán, người thân và chủ nợ chỉ sợ đòi
không được nợ mà đưa ra trước để đòi, còn gia thêm bố thí, niệm Phật, hồi hướng
cho tất cả oán, thân, chủ nợ; thế thì oán, thân, chủ nợ mới có thể tan hết. Có
khổ nạn cũng nên phải tự rõ, đây là do nhân ác đời trước, đời này chịu quả báo,
quả báo sạch khi trả sạch, bèn được thân nhẹ nhàng. Quyết không thể oán trời
trách người! Trách Phật và Bồ tát không linh! Có bệnh ở nơi thân, lấy vô bệnh
mà nhìn, bèn không thấy khổ; như vậy mà xem đó, sao lại khổ ư?
thuận tiện, thất ý hơn trước, là nghiệp trước nhiều đời, kẻ oán người thân, chủ
nợ đến đòi nợ. Đã học Phật tu hành, thì kẻ oán, người thân và chủ nợ chỉ sợ đòi
không được nợ mà đưa ra trước để đòi, còn gia thêm bố thí, niệm Phật, hồi hướng
cho tất cả oán, thân, chủ nợ; thế thì oán, thân, chủ nợ mới có thể tan hết. Có
khổ nạn cũng nên phải tự rõ, đây là do nhân ác đời trước, đời này chịu quả báo,
quả báo sạch khi trả sạch, bèn được thân nhẹ nhàng. Quyết không thể oán trời
trách người! Trách Phật và Bồ tát không linh! Có bệnh ở nơi thân, lấy vô bệnh
mà nhìn, bèn không thấy khổ; như vậy mà xem đó, sao lại khổ ư?
18. PHÁP MÔM TRÌ DANH NIỆM PHẬT
Một pháp chấp trì danh hiệu: “A DI ĐÀ
PHẬT ”, lúc Đức Phật Thích Ca còn tại thế, thấy được con người trên thế giới
này của chúng ta, nghiệp tạo ra rất là nhiều, chịu khổ cũng rất là sâu, nhất là
hạng hạ căn lại nỗ lực làm sao để tu trì, cũng khó được quả Phật, vì thương xót
con người trên thế giới này, của chúng ta rất là bi thiết, bèn dạy bảo chấp trì
danh hiệu “A Di Đà Phật”, nguyện sinh nước kia, đổi ác thành thiện, tự lợi lợi
tha, tin sâu nguyện thiết, hành trì niệm Phật, nhất tâm không loạn, lúc người
mạng chung, chánh niệm hiện tiền, tâm không đảo điên, Đức Phật A Di Đà sẽ tiếp
dẫn vãng sinh về nước Cực Lạc của ngài; người đời cần gấp hiểu rõ có một chỗ
tốt đẹp như thế này, có thể khiến con người trên thế giới chúng ta, không nên
trở lại thọ các món khổ, cho nên bất kỳ người nào hỏi, thì trước tiên nói pháp
môn trì danh niệm Phật này.
PHẬT ”, lúc Đức Phật Thích Ca còn tại thế, thấy được con người trên thế giới
này của chúng ta, nghiệp tạo ra rất là nhiều, chịu khổ cũng rất là sâu, nhất là
hạng hạ căn lại nỗ lực làm sao để tu trì, cũng khó được quả Phật, vì thương xót
con người trên thế giới này, của chúng ta rất là bi thiết, bèn dạy bảo chấp trì
danh hiệu “A Di Đà Phật”, nguyện sinh nước kia, đổi ác thành thiện, tự lợi lợi
tha, tin sâu nguyện thiết, hành trì niệm Phật, nhất tâm không loạn, lúc người
mạng chung, chánh niệm hiện tiền, tâm không đảo điên, Đức Phật A Di Đà sẽ tiếp
dẫn vãng sinh về nước Cực Lạc của ngài; người đời cần gấp hiểu rõ có một chỗ
tốt đẹp như thế này, có thể khiến con người trên thế giới chúng ta, không nên
trở lại thọ các món khổ, cho nên bất kỳ người nào hỏi, thì trước tiên nói pháp
môn trì danh niệm Phật này.
Đức Phật Thích Ca lúc nói pháp môn tịnh
độ “trì danh niệm Phật” này, gọi pháp này là pháp thế gian khó tin. Nguyên nhân
là người đời phần nhiều còn có một niềm tin sai lầm, cho rằng trên đời không có
cái gì để mình nương tựa một cách xác thực, đem sự tình giao cho một người khác
thì không an tâm, bởi vì sức mình làm mới rất đáng nương tựa. Do đây rất nhiều
tôn giáo lấy món tưởng pháp này làm cơ sở. Không chỉ các tôn giáo khác như vậy,
tôn chỉ tông phái đại đa số của Phật giáo cũng đều như đây, như tông Hoa
Nghiêm, tông Duy Thức, tông Thiên Thai, tông Thiền… đều dạy người là con
đường của mình do chính mình mở, tức là dựa vào sự tu trì của mình, cắt đứt
phiền não mê hoặc, rõ tâm thấy tánh, chứng được chân lý thành Phật, cũng gọi là
đoạn mê hoặc, thấy và chứng (khai ngộ); giáo pháp này lúc thực hành chân chánh,
là rất khó khăn. Các bậc cao nhân chung của các tông các giáo hãy còn nhiều khó
khăn, là trong cuộc sống làm sao cho thanh tịnh được hết hoặc nghiệp! Huống gì
người thường, thật ra người mà có thể trong cuộc sống đoạn được hoặc, rõ tâm
thấy tánh khai ngộ không được nhiều! Nhưng vừa nghe qua, mọi người đều có thể
tin rằng, nguyên nhân tức là con đường của mình tự mở; hoặc nhân người đời ưa
bàn lý luận cao xa huyền diệu, không chịu thực sự học Phật, cho là thế gian ắc
có bí mật huyền diệu, bí quyết nhanh học đạo, không chịu thực sự an phận. Thực
sự an phận thì: 1. Thu chuyển được dã tâm, chẳng thể suy nghĩ hồ đồ và tưởng
muốn cuồng loạn. 2. Trì trai giới giữ thanh tịnh, không thể phóng túng hoặc
biếng lười. 3. Còn giữ được sự mộc mạc, không tự cho là thông minh. 4. Chân
thật không tà ngụy, chẳng có chút phô bày. Những việc này là cần tự mình nỗ
lực, mới có thể rõ được. Nhưng người đời mê chấp rất là sâu, chung quy cảm thấy
vần đề mình hiện có và sự vật dễ dàng tìm được, chẳng cần trân quý. Cho nên
phải nói là bí mật vi diệu của ngàn xưa thật dễ dàng nhẹ nhàng mà truyền cho
người. Hoặc giả có thuyết nói là: cảm động đến Thánh linh; hoặc Thần Tiên trao
bày, không thể do người dễ dàng chứng được; do đó mới có người tin như vậy.
Pháp môn trì danh niệm Phật mà Phật nói, đây cũng giống như đem tấm chi phiếu
ngàn vàng cho người ngu, khiến họ khó thể lý giải. Người ngu cho là một đồng
tiền còn được thật sự giá trị hơn tấm chi phiếu ngàn vàng, tâm người ngu trí
cạn cợt, vả lại tự xấc láo chính mình ngay cả một bảng đồng, đều không đánh giá
được; khó đối với sự tin tưởng công đức của danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT. Cho nên lời
dạy ( trì danh niệm Phật ): A DI ĐÀ PHẬT. So ra các tôn giáo và tông phái khác
khó tin. Chúng ta chấp trước đối với đời người, tức ngay cả các tôn giáo khác
đều rất khó tin, tôn giáo khác đó vả hãy còn khó tin thay, huống gì lời dạy là
tha lực A DI ĐÀ PHẬT. Cho nên nói là: khó ở trong khó, lại nói: không khó nào
qua, cũng nói: pháp rất khó tin.
độ “trì danh niệm Phật” này, gọi pháp này là pháp thế gian khó tin. Nguyên nhân
là người đời phần nhiều còn có một niềm tin sai lầm, cho rằng trên đời không có
cái gì để mình nương tựa một cách xác thực, đem sự tình giao cho một người khác
thì không an tâm, bởi vì sức mình làm mới rất đáng nương tựa. Do đây rất nhiều
tôn giáo lấy món tưởng pháp này làm cơ sở. Không chỉ các tôn giáo khác như vậy,
tôn chỉ tông phái đại đa số của Phật giáo cũng đều như đây, như tông Hoa
Nghiêm, tông Duy Thức, tông Thiên Thai, tông Thiền… đều dạy người là con
đường của mình do chính mình mở, tức là dựa vào sự tu trì của mình, cắt đứt
phiền não mê hoặc, rõ tâm thấy tánh, chứng được chân lý thành Phật, cũng gọi là
đoạn mê hoặc, thấy và chứng (khai ngộ); giáo pháp này lúc thực hành chân chánh,
là rất khó khăn. Các bậc cao nhân chung của các tông các giáo hãy còn nhiều khó
khăn, là trong cuộc sống làm sao cho thanh tịnh được hết hoặc nghiệp! Huống gì
người thường, thật ra người mà có thể trong cuộc sống đoạn được hoặc, rõ tâm
thấy tánh khai ngộ không được nhiều! Nhưng vừa nghe qua, mọi người đều có thể
tin rằng, nguyên nhân tức là con đường của mình tự mở; hoặc nhân người đời ưa
bàn lý luận cao xa huyền diệu, không chịu thực sự học Phật, cho là thế gian ắc
có bí mật huyền diệu, bí quyết nhanh học đạo, không chịu thực sự an phận. Thực
sự an phận thì: 1. Thu chuyển được dã tâm, chẳng thể suy nghĩ hồ đồ và tưởng
muốn cuồng loạn. 2. Trì trai giới giữ thanh tịnh, không thể phóng túng hoặc
biếng lười. 3. Còn giữ được sự mộc mạc, không tự cho là thông minh. 4. Chân
thật không tà ngụy, chẳng có chút phô bày. Những việc này là cần tự mình nỗ
lực, mới có thể rõ được. Nhưng người đời mê chấp rất là sâu, chung quy cảm thấy
vần đề mình hiện có và sự vật dễ dàng tìm được, chẳng cần trân quý. Cho nên
phải nói là bí mật vi diệu của ngàn xưa thật dễ dàng nhẹ nhàng mà truyền cho
người. Hoặc giả có thuyết nói là: cảm động đến Thánh linh; hoặc Thần Tiên trao
bày, không thể do người dễ dàng chứng được; do đó mới có người tin như vậy.
Pháp môn trì danh niệm Phật mà Phật nói, đây cũng giống như đem tấm chi phiếu
ngàn vàng cho người ngu, khiến họ khó thể lý giải. Người ngu cho là một đồng
tiền còn được thật sự giá trị hơn tấm chi phiếu ngàn vàng, tâm người ngu trí
cạn cợt, vả lại tự xấc láo chính mình ngay cả một bảng đồng, đều không đánh giá
được; khó đối với sự tin tưởng công đức của danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT. Cho nên lời
dạy ( trì danh niệm Phật ): A DI ĐÀ PHẬT. So ra các tôn giáo và tông phái khác
khó tin. Chúng ta chấp trước đối với đời người, tức ngay cả các tôn giáo khác
đều rất khó tin, tôn giáo khác đó vả hãy còn khó tin thay, huống gì lời dạy là
tha lực A DI ĐÀ PHẬT. Cho nên nói là: khó ở trong khó, lại nói: không khó nào
qua, cũng nói: pháp rất khó tin.
Pháp môn trì danh niệm Phật là tâm đại
từ bi của Đức Thích Ca Như Lai, thương xót chúng sinh chẳng đủ tự lực, không
thể một đời tu hành tức xong sinh tử, một đời không xong lại chuyển một đời, dễ
dàng mê hoặc, nếu lại tạo ác nghiệp, đọa lạc ba đường, công ngày trước bỏ hết;
đối với việc đó nên dạy người chấp trì danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT, cầu Phật lực gia
bị, tuy tự lực yếu mỏng, cũng có thể nương vào sức từ của Phật tiếp dẫn vãng
sinh về nước Cực Lạc, một khi sinh về cõi kia vĩnh viễn không thối chuyển.
từ bi của Đức Thích Ca Như Lai, thương xót chúng sinh chẳng đủ tự lực, không
thể một đời tu hành tức xong sinh tử, một đời không xong lại chuyển một đời, dễ
dàng mê hoặc, nếu lại tạo ác nghiệp, đọa lạc ba đường, công ngày trước bỏ hết;
đối với việc đó nên dạy người chấp trì danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT, cầu Phật lực gia
bị, tuy tự lực yếu mỏng, cũng có thể nương vào sức từ của Phật tiếp dẫn vãng
sinh về nước Cực Lạc, một khi sinh về cõi kia vĩnh viễn không thối chuyển.
19. NÓI ĐƠN GIẢN – A DI ĐÀ PHẬT
“Nam mô A Di Đà Phật” là một câu lời
nói trong nước Thiên Trúc, biến thành lời nói của chúng ta: – Nam mô; Tức là
cung kính, quy y, tín ngưỡng, phục tùng. – A Di Đà; tức là ánh sáng trí tuệ
không có ngằn mé và phước thọ không có hạn lượng. – Phật; tức là Thánh nhân,
thần nhân, toàn nhân, chí nhân, người có đạo đức, người giác ngộ xong, người có
trí huệ tối vĩ đại; Họp chung lại tức là “ Kính tôn trọng qui theo bậc thánh
nhân – vô biên – vô lượng trí tuệ, hào quang, phước đức, thọ mạng như thế”. A
Di Đà Phật không phải là ở trong thế giới này của chúng ta, thế giới của chúng
ta gọi là thế giới “nhân khổ”. Hơn hai nghìn năm trăm năm (?) trước, có một Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở thế giới này của chúng ta, vì chúng ta mà nói
trạng huống lịch sử A Di Đà và thế giới Cực Lạc kia. Chúng ta lại biết rằng
Phật A D i Đà lúc chưa thành Phật, chưa có thế giới Cực Lạc trở về trước, Ngài
vốn là một hoàng đế, lúc đó cũng có Phật đang trụ thế. Hoàng đế này rất là tin
sùng chánh pháp, về sau cũng xuất gia tin Phật làm Tăng, tu hành không lâu thì
chứng A La Hán. Lại phát tâm Bồ Đề, lập nguyện nếu người ở tương lai họ đồng ý
với phát nguyện tu hành của họ, tu thành một thế giới Cực Lạc; nghĩ áo được áo,
nghĩ ăn được ăn, tưởng đến cái gì thì được cái ấy, muốn có cái gì thì có cái
nấy, tất cả yên ổn vui vẻ, không có việc nào là không hoàn toàn đầy đủ, tất cả
những nguy hiểm khổ não không cái nào là không lìa thoát; Người cùng ở với nhau
đều là người tốt; không có người ác cũng không có việc ác. Tự nhiên xăm xăm
hàng ngày tiến tới chỗ thiện, thẳng đến thành Phật, càng không thối lui. Đã tu
thành thế giới Cực Lạc này, lại đem danh tự thế giới Cực Lạc này khiến thế giới
mười phương không đâu chẳng nghe biết, khiến người nghe đều sinh mến thích;
nhưng niệm A Di Đà Phật danh hiệu đó, lại có được lúc chuyển sinh, là do Phật A
Di Đà đến trước tiếp dẫn, sinh đến ở trong thế giới Cực Lạc – Đến lúc sau quả
nhiên thành thế giới Cực Lạc, thế giới nầy ở phía tây của thế giới chúng ta,
thành Phật tên là A D i Đà cùng với Bồ Tát, La Hán rất nhiều đồng ở trong đó,
thường thường nói pháp nhóm hội, đến mười phương thế giới khổ não tiếp dẫn cứu
độ chúng sinh, khiến cho họ được sinh về trong thế giới Cưc Lạc. Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni vì thấy chúng ta ở thế giới này là cực kỳ khổ não, ở trong đây rất là
nguy hiểm, vì tuy là được làm người có thể sống được bao nhiêu năm không có
nhất định, một hơi thở không trở lại là chết rồi. Thì ở trong lúc sống: Lạnh,
nóng, bệnh, già, các việc nói không hết… những khổ đau đoanh vây thân tâm
không cách nào lìa thoát. Nên Đức Phật dạy chúng ta trong tâm và miệng luôn
thường niệm mãi “A Di Đà Phật”, khiến cho chúng ta đến lúc lâm chung chuyển
đời, lại được cứu độ đến thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, vĩnh viễn hưởng
sự yên ổn vui vẻ, lại không có một chút nguy hiểm khổ não; đây mới là ý nghĩa
chân chánh niệm: A DI ĐÀ PHẬT.
nói trong nước Thiên Trúc, biến thành lời nói của chúng ta: – Nam mô; Tức là
cung kính, quy y, tín ngưỡng, phục tùng. – A Di Đà; tức là ánh sáng trí tuệ
không có ngằn mé và phước thọ không có hạn lượng. – Phật; tức là Thánh nhân,
thần nhân, toàn nhân, chí nhân, người có đạo đức, người giác ngộ xong, người có
trí huệ tối vĩ đại; Họp chung lại tức là “ Kính tôn trọng qui theo bậc thánh
nhân – vô biên – vô lượng trí tuệ, hào quang, phước đức, thọ mạng như thế”. A
Di Đà Phật không phải là ở trong thế giới này của chúng ta, thế giới của chúng
ta gọi là thế giới “nhân khổ”. Hơn hai nghìn năm trăm năm (?) trước, có một Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở thế giới này của chúng ta, vì chúng ta mà nói
trạng huống lịch sử A Di Đà và thế giới Cực Lạc kia. Chúng ta lại biết rằng
Phật A D i Đà lúc chưa thành Phật, chưa có thế giới Cực Lạc trở về trước, Ngài
vốn là một hoàng đế, lúc đó cũng có Phật đang trụ thế. Hoàng đế này rất là tin
sùng chánh pháp, về sau cũng xuất gia tin Phật làm Tăng, tu hành không lâu thì
chứng A La Hán. Lại phát tâm Bồ Đề, lập nguyện nếu người ở tương lai họ đồng ý
với phát nguyện tu hành của họ, tu thành một thế giới Cực Lạc; nghĩ áo được áo,
nghĩ ăn được ăn, tưởng đến cái gì thì được cái ấy, muốn có cái gì thì có cái
nấy, tất cả yên ổn vui vẻ, không có việc nào là không hoàn toàn đầy đủ, tất cả
những nguy hiểm khổ não không cái nào là không lìa thoát; Người cùng ở với nhau
đều là người tốt; không có người ác cũng không có việc ác. Tự nhiên xăm xăm
hàng ngày tiến tới chỗ thiện, thẳng đến thành Phật, càng không thối lui. Đã tu
thành thế giới Cực Lạc này, lại đem danh tự thế giới Cực Lạc này khiến thế giới
mười phương không đâu chẳng nghe biết, khiến người nghe đều sinh mến thích;
nhưng niệm A Di Đà Phật danh hiệu đó, lại có được lúc chuyển sinh, là do Phật A
Di Đà đến trước tiếp dẫn, sinh đến ở trong thế giới Cực Lạc – Đến lúc sau quả
nhiên thành thế giới Cực Lạc, thế giới nầy ở phía tây của thế giới chúng ta,
thành Phật tên là A D i Đà cùng với Bồ Tát, La Hán rất nhiều đồng ở trong đó,
thường thường nói pháp nhóm hội, đến mười phương thế giới khổ não tiếp dẫn cứu
độ chúng sinh, khiến cho họ được sinh về trong thế giới Cưc Lạc. Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni vì thấy chúng ta ở thế giới này là cực kỳ khổ não, ở trong đây rất là
nguy hiểm, vì tuy là được làm người có thể sống được bao nhiêu năm không có
nhất định, một hơi thở không trở lại là chết rồi. Thì ở trong lúc sống: Lạnh,
nóng, bệnh, già, các việc nói không hết… những khổ đau đoanh vây thân tâm
không cách nào lìa thoát. Nên Đức Phật dạy chúng ta trong tâm và miệng luôn
thường niệm mãi “A Di Đà Phật”, khiến cho chúng ta đến lúc lâm chung chuyển
đời, lại được cứu độ đến thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, vĩnh viễn hưởng
sự yên ổn vui vẻ, lại không có một chút nguy hiểm khổ não; đây mới là ý nghĩa
chân chánh niệm: A DI ĐÀ PHẬT.
ĂN CHAY
Muốn thoát ly biển khổ luân hồi của sáu
đường (ra khỏi ba cõi), thì nên ăn toàn chay.
đường (ra khỏi ba cõi), thì nên ăn toàn chay.
Muốn thân thể cường tráng mạnh khỏe, ít
bệnh đau, thì nên ăn toàn chay.
bệnh đau, thì nên ăn toàn chay.
Vì ăn đồ chay thiên nhiên là đi tới con
đường mạnh khỏe! Trái lại, thì tật bệnh nổi lên, sớm bị suy già, đó sẽ thành là
một phần trong cuộc sống của anh.
đường mạnh khỏe! Trái lại, thì tật bệnh nổi lên, sớm bị suy già, đó sẽ thành là
một phần trong cuộc sống của anh.
Thích ăn tanh, phần nhiều thèm muốn ở
nơi cửa miệng. Thói quen nhiều đời, thêm đặc biệt chú trọng, kết nhiều duyên
ác, là nhân giúp cho việc sát sinh tạo nghiệp, bỡi vì các lý do cẩu thả, tự cho
là phải. Ăn chay bồi dưỡng hạt giống từ bi của chúng ta; Cho nên gọi: “Có ý đến
gieo giống, nhân nơi đất mà quả lại sinh”.
nơi cửa miệng. Thói quen nhiều đời, thêm đặc biệt chú trọng, kết nhiều duyên
ác, là nhân giúp cho việc sát sinh tạo nghiệp, bỡi vì các lý do cẩu thả, tự cho
là phải. Ăn chay bồi dưỡng hạt giống từ bi của chúng ta; Cho nên gọi: “Có ý đến
gieo giống, nhân nơi đất mà quả lại sinh”.
Có thể dứt hay ngăn trừ ăn thịt rất là
phải cách, chẳng được vậy thì có thể bằng phương thức lần hồi, bắt đầu mỗi lần
cách một hai ngày ăn chay một ngày, lần lần tăng thêm số lượng ăn chay, sau đó
khẩu vị ăn chay trở thành tập quán rồi tự có thể đạt được mục tiêu (đoạn nhục).
phải cách, chẳng được vậy thì có thể bằng phương thức lần hồi, bắt đầu mỗi lần
cách một hai ngày ăn chay một ngày, lần lần tăng thêm số lượng ăn chay, sau đó
khẩu vị ăn chay trở thành tập quán rồi tự có thể đạt được mục tiêu (đoạn nhục).
Động vật (súc sinh) cùng với người có
thần kinh cảm giác như nhau, ném bị thương thì máu chảy, đánh đau thì rên la,
ngay lúc con vật bị giết, bị nấu sống, nước sôi đổ trên thân, sống không cách
trốn. Nghĩ xem lúc dao chặt hoặc trong nồi thế nầy nếu là thân ta hoặc cha mẹ,
con cái ta, thì nỗi đau đến cùng cực ra sao! Cảnh đó thảm như thế nào!
thần kinh cảm giác như nhau, ném bị thương thì máu chảy, đánh đau thì rên la,
ngay lúc con vật bị giết, bị nấu sống, nước sôi đổ trên thân, sống không cách
trốn. Nghĩ xem lúc dao chặt hoặc trong nồi thế nầy nếu là thân ta hoặc cha mẹ,
con cái ta, thì nỗi đau đến cùng cực ra sao! Cảnh đó thảm như thế nào!
Mỗi một cá nhân trong một đời đã từng
chịu qua những bệnh nhỏ như đau đầu, đau bụng, hoặc từng bị kim đâm, dao cắt,
bị phỏng, bị đốt… các bệnh đau nhỏ, thì cũng khiến cho con người ngồi đứng
không yên, khó mà chịu đựng, huống gì súc sinh lúc bị bầm, cắt, chặt, thui, nấu
cho đến chết, đau thương hơn cả những nỗi đau nhỏ của chúng ta gấp ngàn gấp
vạn. Hãy nhìn nó chống cự lúc bị trói bắt, nó kinh sợ dọa nạt để được chạy
trốn, tiếng kêu bi ai đau khổ, kéo dài rên rỉ cho tới lúc bị giết! Tiếng bi ai
động đến lòng người! Nỗi sợ sệt trước lúc chết như vậy mà anh nhẫn tâm ăn thịt
nó sao?
chịu qua những bệnh nhỏ như đau đầu, đau bụng, hoặc từng bị kim đâm, dao cắt,
bị phỏng, bị đốt… các bệnh đau nhỏ, thì cũng khiến cho con người ngồi đứng
không yên, khó mà chịu đựng, huống gì súc sinh lúc bị bầm, cắt, chặt, thui, nấu
cho đến chết, đau thương hơn cả những nỗi đau nhỏ của chúng ta gấp ngàn gấp
vạn. Hãy nhìn nó chống cự lúc bị trói bắt, nó kinh sợ dọa nạt để được chạy
trốn, tiếng kêu bi ai đau khổ, kéo dài rên rỉ cho tới lúc bị giết! Tiếng bi ai
động đến lòng người! Nỗi sợ sệt trước lúc chết như vậy mà anh nhẫn tâm ăn thịt
nó sao?
Tinh thần cơ bản của Phật tức là: Chúng
sinh bình đẳng. Ngăn trừ sát hại mà ăn chay. Bỡi ta có quyền lợi sinh tồn mạng
sống, họ (chúng nó) cũng có quyền lợi sinh tồn mạng sống. Thấy đời sống vậy anh
nỡ nhẫn tâm ăn thịt nó sao?
sinh bình đẳng. Ngăn trừ sát hại mà ăn chay. Bỡi ta có quyền lợi sinh tồn mạng
sống, họ (chúng nó) cũng có quyền lợi sinh tồn mạng sống. Thấy đời sống vậy anh
nỡ nhẫn tâm ăn thịt nó sao?
Học Phật, đầu tiên là học giới, không
sát sinh là giới trước nhất. Không sát sinh là không ăn thịt, ăn thịt là sát
sinh; Tức nếu không tự tay anh giết nó, thì cũng đã là cọng nghiệp tội phạm sát
sinh, anh không ăn thịt thì người khác cũng sẽ không sát sinh.
sát sinh là giới trước nhất. Không sát sinh là không ăn thịt, ăn thịt là sát
sinh; Tức nếu không tự tay anh giết nó, thì cũng đã là cọng nghiệp tội phạm sát
sinh, anh không ăn thịt thì người khác cũng sẽ không sát sinh.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói
với Bồ tát Đại Huệ rằng: “Phàm người sát sinh, phần nhiều là vì người ăn,
người nếu không ăn, cũng không có việc sát, cho nên ăn thịt cùng với sát sinh
đồng tội”.
với Bồ tát Đại Huệ rằng: “Phàm người sát sinh, phần nhiều là vì người ăn,
người nếu không ăn, cũng không có việc sát, cho nên ăn thịt cùng với sát sinh
đồng tội”.
Kinh Lăng Nghiêm, quyển sáu, Phật dạy:
“A Nan, lại nữa các thế giới, chúng
sinh trong sáu đường, tâm kia không sát, thì không theo việc sinh tử mà tiếp
tục. A Nan! Ông tu tam muội vốn là để ra khỏi trần lao; nhưng sát sinh không
trừ thì trần lao không thể ra khỏi. Dẫu có đa trí, thiền định hiện tiền, nều
không dứt được việc sát thì chắc chắn sẽ rơi vào Thần đạo…”; “Các ông
nên biết; là người ăn thịt dẫu được tâm khai giống như Tam Ma Đề, cũng đều là
đại la sát, báo hết chắc chắn chìm vào biển khổ sinh tử – người như vậy chẳng
phải là đệ tử Phật – giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi!”.
sinh trong sáu đường, tâm kia không sát, thì không theo việc sinh tử mà tiếp
tục. A Nan! Ông tu tam muội vốn là để ra khỏi trần lao; nhưng sát sinh không
trừ thì trần lao không thể ra khỏi. Dẫu có đa trí, thiền định hiện tiền, nều
không dứt được việc sát thì chắc chắn sẽ rơi vào Thần đạo…”; “Các ông
nên biết; là người ăn thịt dẫu được tâm khai giống như Tam Ma Đề, cũng đều là
đại la sát, báo hết chắc chắn chìm vào biển khổ sinh tử – người như vậy chẳng
phải là đệ tử Phật – giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi!”.
Kinh Lăng Nghiêm, quyển tám, viết rằng:
“Thế nào gọi là chánh tánh? A Nan,
như chúng sinh vào Tam Ma Đề, cần thiết trước tiên là nghiêm trì giới luật
thanh tịnh, trọn dứt thân dâm, không dùng rượu thịt… là người tu hành. Nếu
không dứt được dâm và sát sinh mà ra khỏi ba cõi, thì không có lẽ đó!”
như chúng sinh vào Tam Ma Đề, cần thiết trước tiên là nghiêm trì giới luật
thanh tịnh, trọn dứt thân dâm, không dùng rượu thịt… là người tu hành. Nếu
không dứt được dâm và sát sinh mà ra khỏi ba cõi, thì không có lẽ đó!”
Bậc Cổ đức nói rằng: “Ở đời không có
người ăn thịt thì lò mổ không mở ra”. Thế gian nếu không có người muốn ăn thịt,
muốn mua thịt, thì nghề sát sinh bán thịt sẽ không cách nào tồn tại, cũng sẽ
không có người làm; Thế nào thì người ăn thịt cũng nói ngược lại:
người ăn thịt thì lò mổ không mở ra”. Thế gian nếu không có người muốn ăn thịt,
muốn mua thịt, thì nghề sát sinh bán thịt sẽ không cách nào tồn tại, cũng sẽ
không có người làm; Thế nào thì người ăn thịt cũng nói ngược lại:
“Không phải vì ta mà giết đâu!”.
Tất cả chúng sinh đều có bản năng sinh
tồn của nó, đều có sự tự do sinh tồn. Loài người vì ham thích hưởng thụ cửa
miệng, nên giết mạng của nó! Một người chịu gặp cảnh nhà phá, người chết, lìa
vợ, xa con, vả hãy còn đợi cơ hội tìm cừu mà phục thù; huống gì sự chấp trước,
nhiễm trước của động vật càng quá hơn con người, một khi kết thù oán là không
có lúc nào không tìm đòi nợ. Nhân quả báo ứng thì ở bên thân chúng ta. Không
tin thì mọi người đến quán rượu lớn lặng lẽ quan sát coi, không tin thì mọi
người hồi tưởng lại con cái, sự nghiệp, gia đình, đến tình trạng sức khẻo tự
thân của mình coi, thì sẽ biết mức độ tàn hại của những sinh linh nầy tìm đòi
nợ mạng. Con người đối với những động vật khác tàn khốc bất nhân như vậy, cho
nên mạng mạng đền nhau, nợ nợ đòi nhau sẽ xảy ra kiếp nạn đao binh.
tồn của nó, đều có sự tự do sinh tồn. Loài người vì ham thích hưởng thụ cửa
miệng, nên giết mạng của nó! Một người chịu gặp cảnh nhà phá, người chết, lìa
vợ, xa con, vả hãy còn đợi cơ hội tìm cừu mà phục thù; huống gì sự chấp trước,
nhiễm trước của động vật càng quá hơn con người, một khi kết thù oán là không
có lúc nào không tìm đòi nợ. Nhân quả báo ứng thì ở bên thân chúng ta. Không
tin thì mọi người đến quán rượu lớn lặng lẽ quan sát coi, không tin thì mọi
người hồi tưởng lại con cái, sự nghiệp, gia đình, đến tình trạng sức khẻo tự
thân của mình coi, thì sẽ biết mức độ tàn hại của những sinh linh nầy tìm đòi
nợ mạng. Con người đối với những động vật khác tàn khốc bất nhân như vậy, cho
nên mạng mạng đền nhau, nợ nợ đòi nhau sẽ xảy ra kiếp nạn đao binh.
Do đó, muốn cầu thân thể khỏe mạnh, gia
đình bình ổn an lạc, con cái hiếu thuận, sự nghiệp thuận lợi; Thì nên từ nội
tâm chính mình làm ra, không nên sát sinh ăn thịt. Giả dụ như còn nhẫn tâm sát
sinh, ăn thịt thân chúng sinh, thế thì trả báo nợ oán là điều trốn không khỏi!
đình bình ổn an lạc, con cái hiếu thuận, sự nghiệp thuận lợi; Thì nên từ nội
tâm chính mình làm ra, không nên sát sinh ăn thịt. Giả dụ như còn nhẫn tâm sát
sinh, ăn thịt thân chúng sinh, thế thì trả báo nợ oán là điều trốn không khỏi!
Ăn chay, thơ xưa chép rằng: “Vị máu
thịt dầm dề đáng quí, nỗi khổ đau cũng vậy khó phân, xét lòng muốn – để nơi
thân, thì ai chịu lấy dao phân chính mình?”.
thịt dầm dề đáng quí, nỗi khổ đau cũng vậy khó phân, xét lòng muốn – để nơi
thân, thì ai chịu lấy dao phân chính mình?”.
Có người nói: “Ta niệm Phật tụng kinh,
tâm cũng rất tốt, hà tất phải nhất định ăn chay?”. Đây là lời dối mình, dối
người. Thử nghĩ: “Lưỡi dao chặt xuống chúng sinh, mà niệm Phật tụng kinh các
thứ, nói thế nào Từ bi! Miệng nói niệm Phật tụng kinh các thứ, mà đem một cục
thịt nhét vào miệng, đây nói là Từ bi thế nào?”.
tâm cũng rất tốt, hà tất phải nhất định ăn chay?”. Đây là lời dối mình, dối
người. Thử nghĩ: “Lưỡi dao chặt xuống chúng sinh, mà niệm Phật tụng kinh các
thứ, nói thế nào Từ bi! Miệng nói niệm Phật tụng kinh các thứ, mà đem một cục
thịt nhét vào miệng, đây nói là Từ bi thế nào?”.
Đã có thể buông cả sự quyến luyến của
thế giới Ta Bà, cầu sinh thế giới Cực Lạc, vì sao buông không được vấn đề ăn
thịt nầy? Ngài Liên Trì Đại Sư nói: “Thiên hạ nói đâm thân ăn thịt đó là tâm
hung dữ, tâm thảm, tâm độc, tâm ác, đâu thế vậy! Vậy còn tâm tốt đang ở đâu?”.
Tâm Từ bi là bản thể của chư Phật và Bồ tát, hành vi hung tàn sát sinh ăn thịt
cùng với Từ bi rất là trái nhau, mà đời hiện tại thì mắc quả báo mạng sống ngắn
ngủi và nhiều bệnh. Thử hỏi: vì tật bệnh trọng đại trói buột, có mấy người còn
có thể phát khởi được chánh niệm – niệm Phật. Cho nên đức Phật nói rất cảm
khái: “Thân người chết nhiều như đất của đại địa”. Chư Phật dùng các món phương
tiện, cứu tất cả chúng sinh, vì sao còn có những người nhiều như thế, ngay cả
thân người đều giữ không được? (chỉ cho tư cách, cơ hội đầu thai chuyển sanh
làm người đều không có), đây là vấn đề rất nghiêm túc, vả lại đây là vấn đề
được suy nghĩ sâu xa!
thế giới Ta Bà, cầu sinh thế giới Cực Lạc, vì sao buông không được vấn đề ăn
thịt nầy? Ngài Liên Trì Đại Sư nói: “Thiên hạ nói đâm thân ăn thịt đó là tâm
hung dữ, tâm thảm, tâm độc, tâm ác, đâu thế vậy! Vậy còn tâm tốt đang ở đâu?”.
Tâm Từ bi là bản thể của chư Phật và Bồ tát, hành vi hung tàn sát sinh ăn thịt
cùng với Từ bi rất là trái nhau, mà đời hiện tại thì mắc quả báo mạng sống ngắn
ngủi và nhiều bệnh. Thử hỏi: vì tật bệnh trọng đại trói buột, có mấy người còn
có thể phát khởi được chánh niệm – niệm Phật. Cho nên đức Phật nói rất cảm
khái: “Thân người chết nhiều như đất của đại địa”. Chư Phật dùng các món phương
tiện, cứu tất cả chúng sinh, vì sao còn có những người nhiều như thế, ngay cả
thân người đều giữ không được? (chỉ cho tư cách, cơ hội đầu thai chuyển sanh
làm người đều không có), đây là vấn đề rất nghiêm túc, vả lại đây là vấn đề
được suy nghĩ sâu xa!
Có người nói rằng: “Ta ăn thịt không
nhiều, lại là thịt từ chợ mua về, tâm địa của ta cũng rất tốt, và vả lại thường
niệm Phật tụng kinh, làm việc thiện, như vậy có thể giữ được bình yên hay
không?”. Đây là nhân chẳng phải thường mà mong quả – Tự mình sát sinh ăn thịt
thì tạo nghiệp đoản mạng, bệnh nhiều; Ngược lại, mà yêu cầu quả báo bình an,
trường thọ, sức khỏe của cá nhân không sát sinh, không ăn thịt, thế cầu được
không?
nhiều, lại là thịt từ chợ mua về, tâm địa của ta cũng rất tốt, và vả lại thường
niệm Phật tụng kinh, làm việc thiện, như vậy có thể giữ được bình yên hay
không?”. Đây là nhân chẳng phải thường mà mong quả – Tự mình sát sinh ăn thịt
thì tạo nghiệp đoản mạng, bệnh nhiều; Ngược lại, mà yêu cầu quả báo bình an,
trường thọ, sức khỏe của cá nhân không sát sinh, không ăn thịt, thế cầu được
không?
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Người ăn thịt
mà cầu công đức, tất không thành tựu!”.
mà cầu công đức, tất không thành tựu!”.
Muốn chơn chánh tu hành, liễu sanh
thoát tử, thì cần phải nắm lấy từ nhân địa, nhân không chánh, thì cầu không
được chánh quả. Cho nên chư vị Đại đức Phật học đời nầy, như lão cư sĩ Hạ Liên
Cư nói rằng: “Việc quả báo tìm nhau thật đáng buồn thương, ai biết được luân
hồi từ cái nhân, hỏa kiếp đầy trời rực rỡ khiến lo lắng, đều là một niệm sát
sinh ăn thịt mà đến”. Do đó, vấn đề khuyên nhau tu hành, niệm Phật, ăn chay,
bất tất phải bàn nói đến chỗ huyền diệu nữa, chỉ cần nhớ một câu: “Việc mình
không muốn, đừng nên đem đến cho người, cho chúng sinh”. Từng giờ chiếu xét
chính mình, kiểm thúc chính mình, thì thịt của chúng sinh có thể ăn hay không?
Ăn rồi, trả nợ thường mạng đủ không, lại bèn có thể hiểu biết rốt ráo, tự ta
xét định, bất cần người sao cũng được, tự sai lầm, sai lầm đến người!
thoát tử, thì cần phải nắm lấy từ nhân địa, nhân không chánh, thì cầu không
được chánh quả. Cho nên chư vị Đại đức Phật học đời nầy, như lão cư sĩ Hạ Liên
Cư nói rằng: “Việc quả báo tìm nhau thật đáng buồn thương, ai biết được luân
hồi từ cái nhân, hỏa kiếp đầy trời rực rỡ khiến lo lắng, đều là một niệm sát
sinh ăn thịt mà đến”. Do đó, vấn đề khuyên nhau tu hành, niệm Phật, ăn chay,
bất tất phải bàn nói đến chỗ huyền diệu nữa, chỉ cần nhớ một câu: “Việc mình
không muốn, đừng nên đem đến cho người, cho chúng sinh”. Từng giờ chiếu xét
chính mình, kiểm thúc chính mình, thì thịt của chúng sinh có thể ăn hay không?
Ăn rồi, trả nợ thường mạng đủ không, lại bèn có thể hiểu biết rốt ráo, tự ta
xét định, bất cần người sao cũng được, tự sai lầm, sai lầm đến người!
Sát nhân thường mạng, thiếu nợ trả
tiền, đây đã là đạo lý của thế gian. Người sát sinh ăn thịt cướp đoạt đi cái
sinh mạng rất tôn quí của chúng sinh, và đem nhục thân rất coi trọng của nó mà
ăn đi; Nỗi cừu sâu hận lớn nầy, ở một chút lòng sửa lỗi sám hối, tình huống đó
đều không có, tụng một vài biến kinh, lạy – niệm một vài câu Phật, ăn một chút
rau cỏ nhỏ nhoi thì có thể qua loa mà kết duyên được không? Cho nên nói: việc
cầu công đức, đều không thành tựu.
tiền, đây đã là đạo lý của thế gian. Người sát sinh ăn thịt cướp đoạt đi cái
sinh mạng rất tôn quí của chúng sinh, và đem nhục thân rất coi trọng của nó mà
ăn đi; Nỗi cừu sâu hận lớn nầy, ở một chút lòng sửa lỗi sám hối, tình huống đó
đều không có, tụng một vài biến kinh, lạy – niệm một vài câu Phật, ăn một chút
rau cỏ nhỏ nhoi thì có thể qua loa mà kết duyên được không? Cho nên nói: việc
cầu công đức, đều không thành tựu.
“Tam tịnh nhục cũng không nên ăn. Tam
tịnh nhục là: – không vì ta mà sát – ta không thấy sát – ta không nghe sát. Có
người nói: “Ta đến chợ mua thịt mà người ta giết rồi, hoặc nấu chín đã thành
rồi về ăn, nên ta không có tội lỗi?” Đây là cách nói xô đẩy trách nhiệm. Thịt ở
chợ hay lò mổ là vì ai mà giết? Cần phải hiểu rằng nhân trước có người ăn thịt
nên mới có người sát sinh bán thịt, nhân có người sát sinh bán thịt thì có
người ăn thịt, hai loại người nầy là liên kết tạo thành tội ác sát sinh.
tịnh nhục là: – không vì ta mà sát – ta không thấy sát – ta không nghe sát. Có
người nói: “Ta đến chợ mua thịt mà người ta giết rồi, hoặc nấu chín đã thành
rồi về ăn, nên ta không có tội lỗi?” Đây là cách nói xô đẩy trách nhiệm. Thịt ở
chợ hay lò mổ là vì ai mà giết? Cần phải hiểu rằng nhân trước có người ăn thịt
nên mới có người sát sinh bán thịt, nhân có người sát sinh bán thịt thì có
người ăn thịt, hai loại người nầy là liên kết tạo thành tội ác sát sinh.
Kinh Lăng nghiêm nói rằng: “Nếu
không dạy không cầu, thì không có tam tịnh nhục”.
không dạy không cầu, thì không có tam tịnh nhục”.
Trứng; có người cho là trứng gà hiện
tại là trứng gà chuyên nghiệp nuôi dưỡng sinh ra, đều không có thụ tinh, nên
không có sinh mạng! Chúng ta có thể an tâm ăn! Nhưng trứng là có “noãn tử” tức
là có sinh mạng rồi, nếu nhân duyên đầy đủ (thụ tinh) nuôi thành “ấu thể” của
gà; hiện nó không có thụ tinh thì hãy còn có sinh mạng, nếu anh ăn nó rồi, như
thế oán cừu đã kết. Huống gì là mùi vị của thịt ngon hơn trứng rất nhiều hãy
còn không ăn, hà tất lại bỏ không được vấn đề ăn trứng nầy sao?
tại là trứng gà chuyên nghiệp nuôi dưỡng sinh ra, đều không có thụ tinh, nên
không có sinh mạng! Chúng ta có thể an tâm ăn! Nhưng trứng là có “noãn tử” tức
là có sinh mạng rồi, nếu nhân duyên đầy đủ (thụ tinh) nuôi thành “ấu thể” của
gà; hiện nó không có thụ tinh thì hãy còn có sinh mạng, nếu anh ăn nó rồi, như
thế oán cừu đã kết. Huống gì là mùi vị của thịt ngon hơn trứng rất nhiều hãy
còn không ăn, hà tất lại bỏ không được vấn đề ăn trứng nầy sao?
Cho nên người tin Phật thì hiểu rõ được
nhân quả, không rõ nhân quả thì không thể tu hành! Nhân quả thì mảy may không
sai sót, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, so ra vi tế hơn chân tơ kẽ tóc,
một chút cũng trốn lánh không được, không thể không nhận thức chính mình, không
thể không rõ nhân quả, lại càng không thể không tin nhân quả.
nhân quả, không rõ nhân quả thì không thể tu hành! Nhân quả thì mảy may không
sai sót, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, so ra vi tế hơn chân tơ kẽ tóc,
một chút cũng trốn lánh không được, không thể không nhận thức chính mình, không
thể không rõ nhân quả, lại càng không thể không tin nhân quả.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh
văn nói: “Các chúng sinh cầu “tam ma đề”, phải dứt năm món rau cay thế gian.
Ăn năm món đồ nầy, có năm việc hại”.
văn nói: “Các chúng sinh cầu “tam ma đề”, phải dứt năm món rau cay thế gian.
Ăn năm món đồ nầy, có năm việc hại”.
Năm việc hại là:
1 – Sinh lỗi; Năm món cay, ăn sống thì
sẽ khiến cho khí của tỳ biến xấu, ăn chín thì sẽ tăng trưởng lòng dâm dục.
sẽ khiến cho khí của tỳ biến xấu, ăn chín thì sẽ tăng trưởng lòng dâm dục.
2 – Xa trời; Dẫu cho có thể giảng kinh
nói pháp, thiên tiên và thiên thần mười phương cũng sẽ ngờ là dơ nhớp, mà lánh
xa khỏi.
nói pháp, thiên tiên và thiên thần mười phương cũng sẽ ngờ là dơ nhớp, mà lánh
xa khỏi.
3 – Gần quỉ; Chúng ngạ quỉ mừng vui
liếm môi, mổ mép, thường ở chung một chỗ với quỉ.
liếm môi, mổ mép, thường ở chung một chỗ với quỉ.
4 – Tiêu phước; Phước đức lần hồi tiêu
mất, thường không được lợi ích.
mất, thường không được lợi ích.
5 – Nhóm họp với ma; Dù cho tu được
thiền định, cũng sẽ nhân việc thiện thần bỏ đi xa lìa, mà nhường cho quỉ ma
trống chỗ chen vào. Ma đến dạy người quan niệm in hình như phải mà lại trái,
đến nỗi hủy phạm thiện giới thanh tịnh. Sau khi chết thành quyến thuộc của ma
vương, sau khi phước báo cõi ma hưởng hết rồi, lại sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
thiền định, cũng sẽ nhân việc thiện thần bỏ đi xa lìa, mà nhường cho quỉ ma
trống chỗ chen vào. Ma đến dạy người quan niệm in hình như phải mà lại trái,
đến nỗi hủy phạm thiện giới thanh tịnh. Sau khi chết thành quyến thuộc của ma
vương, sau khi phước báo cõi ma hưởng hết rồi, lại sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Năm loại đồ ăn cay là: Hành, tỏi, hẹ,
kiệu, và cừ (?) (có thể là loại củ nén). Năm món thực vật cay nồng nầy, là trí
Phật coi xét không sai sót mảy may, là Phật tử nên kính tin mà ngừa ăn đó. Các
loại rau cải phần nhiều là ăn được hết, chẳng nên nhân việc nhỏ mà mất việc
lớn.
kiệu, và cừ (?) (có thể là loại củ nén). Năm món thực vật cay nồng nầy, là trí
Phật coi xét không sai sót mảy may, là Phật tử nên kính tin mà ngừa ăn đó. Các
loại rau cải phần nhiều là ăn được hết, chẳng nên nhân việc nhỏ mà mất việc
lớn.
Nếu có người đả phá biểu tượng Phật,
reo rắt là ăn thịt, uống rượu, hành dâm không ngại đến việc tu hành, cái được ở
ngay nơi tâm! Người đó không phải thân chứng quả Phật, mà là tà thuyết, cuồng
ngôn loạn ngữ, họ nói rằng: “ăn thịt là độ chúng sinh, ăn càng nhiều thì độ
càng nhiều, rán sức mà ăn; Ăn càng nhiều, công đức càng lớn. Lại đây, ta dạy
cho kiết ấn, trì chú, siêu độ chúng nó thăng thiên!”; Thế nầy trái với lời Phật
nói! Người nầy nói lời mê ngủ của ma, đánh đổ cờ xí Phật, tướng giống người tu,
thật là loài ma, nên cẩn thiết chớ quá đáng! Ta nên mau mau xa lìa để khỏi hư
hoại huệ mạng của ta, mất đi chánh đạo.
reo rắt là ăn thịt, uống rượu, hành dâm không ngại đến việc tu hành, cái được ở
ngay nơi tâm! Người đó không phải thân chứng quả Phật, mà là tà thuyết, cuồng
ngôn loạn ngữ, họ nói rằng: “ăn thịt là độ chúng sinh, ăn càng nhiều thì độ
càng nhiều, rán sức mà ăn; Ăn càng nhiều, công đức càng lớn. Lại đây, ta dạy
cho kiết ấn, trì chú, siêu độ chúng nó thăng thiên!”; Thế nầy trái với lời Phật
nói! Người nầy nói lời mê ngủ của ma, đánh đổ cờ xí Phật, tướng giống người tu,
thật là loài ma, nên cẩn thiết chớ quá đáng! Ta nên mau mau xa lìa để khỏi hư
hoại huệ mạng của ta, mất đi chánh đạo.
Ăn chay là bước khởi đầu rất cơ bản của
vấn đề học Phật, nếu còn sợ khó chân không bước tới trước, phải nên tự suy
nghĩ, vì sao cần học Phật? Rất nhiều người chưa ăn chay không biết chỗ tốt của
ăn chay, còn người đã ăn thì không sạch miệng, cho đến nỗi có kẻ chứa điều tai
hại tạo nghiệp, có kẻ phạm trai phá giới, tự đoạn giống Phật, rất là đáng buồn
thương!
vấn đề học Phật, nếu còn sợ khó chân không bước tới trước, phải nên tự suy
nghĩ, vì sao cần học Phật? Rất nhiều người chưa ăn chay không biết chỗ tốt của
ăn chay, còn người đã ăn thì không sạch miệng, cho đến nỗi có kẻ chứa điều tai
hại tạo nghiệp, có kẻ phạm trai phá giới, tự đoạn giống Phật, rất là đáng buồn
thương!
Ăn chay là một cửa tắt để tu thân dưỡng
tánh. Ăn chay, rốt cuộc có chỗ tốt đẹp gì? Do rất nhiều điều tốt, chỉ có tự
mình ăn chay mới có thể hiểu được, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Chỗ
tốt của việc ăn chay trừ vấn đề không cùng với chúng sinh kết oán cừu ra, còn
có thể giảm ít đi dự phòng và phát sinh bệnh tật, thân thể cường tráng, còn
được sinh tâm hoan hỉ, tâm từ bi, so về kinh tế, giá trị dinh dưỡng cũng so cao
hơn.
tánh. Ăn chay, rốt cuộc có chỗ tốt đẹp gì? Do rất nhiều điều tốt, chỉ có tự
mình ăn chay mới có thể hiểu được, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Chỗ
tốt của việc ăn chay trừ vấn đề không cùng với chúng sinh kết oán cừu ra, còn
có thể giảm ít đi dự phòng và phát sinh bệnh tật, thân thể cường tráng, còn
được sinh tâm hoan hỉ, tâm từ bi, so về kinh tế, giá trị dinh dưỡng cũng so cao
hơn.
ĂN CHAY LÀ VẤN ĐỀ NGUYÊN TẮC
Không sát sinh là giới đầu trong giới
luật rất là cơ bản của Phật. Nhưng vấn đề năm mùi vị khiến miệng người ưa
thích, bỡi đã là thói quen do nghiệp lực dẫn dắt từ nhiều đời nhiều kiếp, nếu
một người nào đó buông bỏ mỹ vị mà đổi lại ăn đồ chay thì rất là chẳng đơn giản
chút nào mà lại khó khăn mười phần. Ăn đồ chay, chúng ta là người tu hành học Phật
cần phải suy tư về nó, chứ không phải là ưa hay không ưa ăn! Vấn đề ăn được hay
không, dễ hay khó thì đó là vấn đề tu hành học Phật, chí thành chân tâm hay
không của chính mình? Nếu học tu hành chí thành chân tâm thì giữ vững nguyên
tắc, xả bỏ sự thèm muốn cửa miệng, chỉ ăn toàn đồ chay! Như nếu tin Phật mà
không tu hành, không dùng đồ chay; Đó là “ý thức” quyết định sự “tồn tại” không
dính líu với người khác. Ăn chay là một lối đi tắt hoàn chỉnh nhân cách. Tâm lý
sẽ ảnh hưởng sinh lý, nếu ở nơi tâm lý cho rằng đồ chay không thích ăn, thế thì
nuốt không trôi; cho là ưa ăn thì dù không bỏ bột nêm vào mà ăn vẫn thấy ngon,
thích ăn chay hay không, ăn được hay không đều do ở nơi tâm lý phát sinh ra cả.
Thật sự mà nói, bỡi vì thế mà có những cụ già bà lão ăn chay đến mấy chục năm,
đến lúc gần chết còn bỏ chay ăn mặn; có những Tỳ kheo sau khi hoàn tục vẫn vậy
không ưa thích thịt cá. Có thể thấy rằng người đời giữ vững nguyên tắc là một
việc rất gian nan khổ sở! Một người lập chí học Phật tu hành, việc sinh tử đều
có thể buông bỏ thì hà tất gì ở nơi một chút việc ăn chay mà làm cho chướng
ngại ngay nơi tâm lý. Chúng tại gia chúng ta, muốn thoát lìa biển khổ mới đi
học Phật, lại còn sợ ăn chay, cho là đồ chay sẽ làm tổn thương sức khỏe! Như
thế e rằng học không được cái gì cả!
luật rất là cơ bản của Phật. Nhưng vấn đề năm mùi vị khiến miệng người ưa
thích, bỡi đã là thói quen do nghiệp lực dẫn dắt từ nhiều đời nhiều kiếp, nếu
một người nào đó buông bỏ mỹ vị mà đổi lại ăn đồ chay thì rất là chẳng đơn giản
chút nào mà lại khó khăn mười phần. Ăn đồ chay, chúng ta là người tu hành học Phật
cần phải suy tư về nó, chứ không phải là ưa hay không ưa ăn! Vấn đề ăn được hay
không, dễ hay khó thì đó là vấn đề tu hành học Phật, chí thành chân tâm hay
không của chính mình? Nếu học tu hành chí thành chân tâm thì giữ vững nguyên
tắc, xả bỏ sự thèm muốn cửa miệng, chỉ ăn toàn đồ chay! Như nếu tin Phật mà
không tu hành, không dùng đồ chay; Đó là “ý thức” quyết định sự “tồn tại” không
dính líu với người khác. Ăn chay là một lối đi tắt hoàn chỉnh nhân cách. Tâm lý
sẽ ảnh hưởng sinh lý, nếu ở nơi tâm lý cho rằng đồ chay không thích ăn, thế thì
nuốt không trôi; cho là ưa ăn thì dù không bỏ bột nêm vào mà ăn vẫn thấy ngon,
thích ăn chay hay không, ăn được hay không đều do ở nơi tâm lý phát sinh ra cả.
Thật sự mà nói, bỡi vì thế mà có những cụ già bà lão ăn chay đến mấy chục năm,
đến lúc gần chết còn bỏ chay ăn mặn; có những Tỳ kheo sau khi hoàn tục vẫn vậy
không ưa thích thịt cá. Có thể thấy rằng người đời giữ vững nguyên tắc là một
việc rất gian nan khổ sở! Một người lập chí học Phật tu hành, việc sinh tử đều
có thể buông bỏ thì hà tất gì ở nơi một chút việc ăn chay mà làm cho chướng
ngại ngay nơi tâm lý. Chúng tại gia chúng ta, muốn thoát lìa biển khổ mới đi
học Phật, lại còn sợ ăn chay, cho là đồ chay sẽ làm tổn thương sức khỏe! Như
thế e rằng học không được cái gì cả!
Ăn chay, đối với đạo Phật thật ra là
việc nhỏ, nhưng ngược lại là cửa ngõ số một cho người học Phật. Chúng ta trang
nghiêm cuộc sống Phật đạo, không nên theo thế tục tham lam mưu cầu sự thèm muốn
miệng bụng, đường lớn ngay phía trước, quần ma nhường lối, còn có cái gì so bì
nghiêm túc bằng việc ăn chay?
việc nhỏ, nhưng ngược lại là cửa ngõ số một cho người học Phật. Chúng ta trang
nghiêm cuộc sống Phật đạo, không nên theo thế tục tham lam mưu cầu sự thèm muốn
miệng bụng, đường lớn ngay phía trước, quần ma nhường lối, còn có cái gì so bì
nghiêm túc bằng việc ăn chay?
Có người nói rằng: Học Phật thì tốt.
Cũng có người cho rằng: Tâm tốt thì tốt, sao nhất định phải ăn chay học Phật?
Anh cho rằng cuộc sống hiện tại tốt, không ăn chay thì không ăn chay; Song học
Phật là muốn ra khỏi sáu nẻo luân hồi (ra khỏi ba cõi), lìa khổ được vui, thì
phải ăn chay.
Cũng có người cho rằng: Tâm tốt thì tốt, sao nhất định phải ăn chay học Phật?
Anh cho rằng cuộc sống hiện tại tốt, không ăn chay thì không ăn chay; Song học
Phật là muốn ra khỏi sáu nẻo luân hồi (ra khỏi ba cõi), lìa khổ được vui, thì
phải ăn chay.
Tất cả chúng sinh bình đẳng, người cho
rằng lòng dạ của người tốt, vậy thì hãy nhìn xem sự đau đớn giãy giụa, rên la,
sợ sệt khi chúng sinh bị giết, người nói đó là tấm lòng tốt của người phải
không? Mọi chúng ta nhu cầu cho thân thể ít, mà ăn thịt lại nhiều, ngay trên
việc ăn uống lại cầu cho vị ngon thích miệng, vì nhất thời miệng bụng hưởng thụ
mới giết chúng sinh để ăn, như vậy người có lòng Từ bi không? Đệ tử của Phật
thì tâm phải thanh tịnh, thân cũng cần trong sạch. Những người ăn thịt chúng
sinh đem bao tử của mình làm chỗ chôn cất chúng sinh, thế thì thân thể của
người có trong sạch không? Mà thân đã không trong sạch, thì chư Phật, Bồ tát
không nguyện ở với người rồi.
rằng lòng dạ của người tốt, vậy thì hãy nhìn xem sự đau đớn giãy giụa, rên la,
sợ sệt khi chúng sinh bị giết, người nói đó là tấm lòng tốt của người phải
không? Mọi chúng ta nhu cầu cho thân thể ít, mà ăn thịt lại nhiều, ngay trên
việc ăn uống lại cầu cho vị ngon thích miệng, vì nhất thời miệng bụng hưởng thụ
mới giết chúng sinh để ăn, như vậy người có lòng Từ bi không? Đệ tử của Phật
thì tâm phải thanh tịnh, thân cũng cần trong sạch. Những người ăn thịt chúng
sinh đem bao tử của mình làm chỗ chôn cất chúng sinh, thế thì thân thể của
người có trong sạch không? Mà thân đã không trong sạch, thì chư Phật, Bồ tát
không nguyện ở với người rồi.
Kỳ thật, thịt chúng sinh không phải là
vị ngon họp khẩu mà là những đồ gia vị, nếu trong lúc nấu nướng thịt chúng sinh
mà không nêm bất cứ thứ gia vị nào để điều chỉnh, người sẽ thấy rằng không
ngon, ăn không được.
vị ngon họp khẩu mà là những đồ gia vị, nếu trong lúc nấu nướng thịt chúng sinh
mà không nêm bất cứ thứ gia vị nào để điều chỉnh, người sẽ thấy rằng không
ngon, ăn không được.
Người đời phần lớn cho rằng chỉ có “sơn
trân hải vị”, thịt béo cá to mới ngon, mới có dinh dưỡng. Rau xanh, đậu hủ
những món quay qua quay lại của hạng người bần cùng mới ăn. Kỳ thật cái ngon
của đồ chay hay mặn, rau đậu hay cá thịt, khi vào miệng qua cổ rồi, vị gì cũng
đều không còn nữa! Ăn uống chủ yếu là làm cho bao tử không đói, miệng không
khát, duy trì thân thể mạnh khỏe. Đồ ăn không phải là xem đẹp xấu, giá trị cao
thấp của nó để phân biệt tốt – xấu, mà phải coi thử ăn nó có khỏe mạnh cơ thể
hay không.
trân hải vị”, thịt béo cá to mới ngon, mới có dinh dưỡng. Rau xanh, đậu hủ
những món quay qua quay lại của hạng người bần cùng mới ăn. Kỳ thật cái ngon
của đồ chay hay mặn, rau đậu hay cá thịt, khi vào miệng qua cổ rồi, vị gì cũng
đều không còn nữa! Ăn uống chủ yếu là làm cho bao tử không đói, miệng không
khát, duy trì thân thể mạnh khỏe. Đồ ăn không phải là xem đẹp xấu, giá trị cao
thấp của nó để phân biệt tốt – xấu, mà phải coi thử ăn nó có khỏe mạnh cơ thể
hay không.
Ăn chay, không ăn thịt chúng sinh, ngay
cả những đồ có pha chế thịt hay trứng cũng chẳng được ăn.
cả những đồ có pha chế thịt hay trứng cũng chẳng được ăn.
Ăn chay, không ăn thịt chúng sinh,
nhưng mua về những đồ giả gà, giả cá v.v… nói chung là những đồ giống như
thịt cá, để ăn cũng chẳng được. Bỡi vì đây là tuy niệng không ăn thịt chúng
sinh, ngược lại trong tâm lại ăn, thân thể thì tịnh mà trong tâm không tịnh.
nhưng mua về những đồ giả gà, giả cá v.v… nói chung là những đồ giống như
thịt cá, để ăn cũng chẳng được. Bỡi vì đây là tuy niệng không ăn thịt chúng
sinh, ngược lại trong tâm lại ăn, thân thể thì tịnh mà trong tâm không tịnh.
Học Phật tức nên ăn chay, nếu người
khác trong gia đình phản đối thì trước nên hiểu rõ đạo lý Phật dạy, ở gia đình,
ở xã hội, nương soi lý Phật mà làm, làm cho đức hạnh mình tốt, trong tâm thanh
tịnh, khiến những người khác trong gia đình hiểu được anh đối với ngày chưa học
Phật về trước tâm tham lớn, tâm sân nặng, thiếu sót trách nhiệm cảm đến tâm từ
bi; Đến nay sau khi học Phật tất cả đều biến đổi, tâm tham ít, tâm sân mỏng, từ
ái với người, làm việc có trách nhiệm gánh vát. Khiến cho người ta hiểu chỗ tốt
mà anh học Phật, đối với gia đình và xã hội. Lúc đó muốn ăn chay, người nhà
không những không phản đối mà ngược lại khởi tâm đồng tình, lần lần học cùng
anh. Như học Phật mà chỉ học ăn chay, không học việc gì khác, thì nhất định
sinh chướng ngại.
khác trong gia đình phản đối thì trước nên hiểu rõ đạo lý Phật dạy, ở gia đình,
ở xã hội, nương soi lý Phật mà làm, làm cho đức hạnh mình tốt, trong tâm thanh
tịnh, khiến những người khác trong gia đình hiểu được anh đối với ngày chưa học
Phật về trước tâm tham lớn, tâm sân nặng, thiếu sót trách nhiệm cảm đến tâm từ
bi; Đến nay sau khi học Phật tất cả đều biến đổi, tâm tham ít, tâm sân mỏng, từ
ái với người, làm việc có trách nhiệm gánh vát. Khiến cho người ta hiểu chỗ tốt
mà anh học Phật, đối với gia đình và xã hội. Lúc đó muốn ăn chay, người nhà
không những không phản đối mà ngược lại khởi tâm đồng tình, lần lần học cùng
anh. Như học Phật mà chỉ học ăn chay, không học việc gì khác, thì nhất định
sinh chướng ngại.
Phật học muốn cầu bình đẳng, từ bi thì
phải ngăn chặn việc sát sinh, cho nên đề xướng ăn chay. Từ trước đến nay người
ăn chay thuộc về lý do tôn giáo. Những năm gần đây vì sau khi khoa học dinh
dưỡng và cuộc sống tiến hóa tiến bộ, mới biết rằng ăn chay và sức khỏe có sự
quan hệ mật thiết với nhau, ăn dùng thân xác động vật tệ hại vô cùng. Gần đây
vừa phát hiện dùng đồ ăn thiên nhiên tươi sạch thay thế cho thịt và đồ ăn gia
công bào chế, không những thể lực mạnh khỏe mà độc tố trong cơ thể cũng giảm ít
đi, đối với nhiều tật bệnh khó trị cũng trợ giúp rất lớn, khiến người có chứng
bệnh đau đầu cũng có thông tin trị bớt.
phải ngăn chặn việc sát sinh, cho nên đề xướng ăn chay. Từ trước đến nay người
ăn chay thuộc về lý do tôn giáo. Những năm gần đây vì sau khi khoa học dinh
dưỡng và cuộc sống tiến hóa tiến bộ, mới biết rằng ăn chay và sức khỏe có sự
quan hệ mật thiết với nhau, ăn dùng thân xác động vật tệ hại vô cùng. Gần đây
vừa phát hiện dùng đồ ăn thiên nhiên tươi sạch thay thế cho thịt và đồ ăn gia
công bào chế, không những thể lực mạnh khỏe mà độc tố trong cơ thể cũng giảm ít
đi, đối với nhiều tật bệnh khó trị cũng trợ giúp rất lớn, khiến người có chứng
bệnh đau đầu cũng có thông tin trị bớt.
Nay các chuyên gia khoa học gần đây
nghiên cứu thành phần dinh dưỡng đối với đồ chay, đề cập tới phân lượng dinh
dưỡng của đồ ăn mà thân thể nhu cầu, đưa ra một giới thiệu đơn giản thành phần
dinh dưỡng của đồ ăn mà nhân loại nhu cầu, bao quát có:
nghiên cứu thành phần dinh dưỡng đối với đồ chay, đề cập tới phân lượng dinh
dưỡng của đồ ăn mà thân thể nhu cầu, đưa ra một giới thiệu đơn giản thành phần
dinh dưỡng của đồ ăn mà nhân loại nhu cầu, bao quát có:
1 – Đường
2 – Dầu, mỡ
3 – Chất lòng trắng trứng (Protêin)
4 – Chất khoáng.
5 – Chất cà rốt (Carotin)và Vitamin.
6 – Vitami PP.
Giờ xin đem nguồn gốc các chất dinh
dưỡng của thực vật mà cơ thể con người nhu cầu nói rõ sau đây, mong rằng mọi
người có chỗ nhận biết:
dưỡng của thực vật mà cơ thể con người nhu cầu nói rõ sau đây, mong rằng mọi
người có chỗ nhận biết:
– Đường: Có ở trong các loại ngũ cốc,
đậu xanh, đậu vàng v.v…
đậu xanh, đậu vàng v.v…
– Dầu, mỡ: Có trong rau cải, đậu vàng,
đậu phộng, mè, ngô, rau, dầu, hạnh nhân, đậu xanh v.v… Trong trái cây thì hạt
dưa hấu, trái dừa, hạt dẻ, quả hạch đào v.v…
đậu phộng, mè, ngô, rau, dầu, hạnh nhân, đậu xanh v.v… Trong trái cây thì hạt
dưa hấu, trái dừa, hạt dẻ, quả hạch đào v.v…
– Chất Prôtêin: Trong rau cải thì có ở
trong các loại họ đậu và các món được bào chế, toàn lúa mạch được bào chế, con
men, ngô, quả có hạt, đậu vàng, đậu phộng, mè, hạt hoa hướng dương, bốn món
trên hàm lượng rất phong phú.
trong các loại họ đậu và các món được bào chế, toàn lúa mạch được bào chế, con
men, ngô, quả có hạt, đậu vàng, đậu phộng, mè, hạt hoa hướng dương, bốn món
trên hàm lượng rất phong phú.
– Chất khoáng: Chế ra từ các món họ đậu
như mè (vừng), con men chế ra từ ngũ cốc, rau cỏ xanh như: Hải đới (côn bố –
tên thuốc), bí đỏ, đông cô (nấm), cà chua v.v…
như mè (vừng), con men chế ra từ ngũ cốc, rau cỏ xanh như: Hải đới (côn bố –
tên thuốc), bí đỏ, đông cô (nấm), cà chua v.v…
– Chất Carôtin và Vitamin: Các loại
đậu, mộng đậu, rau lá xanh và các loại trái cây v.v…
đậu, mộng đậu, rau lá xanh và các loại trái cây v.v…
– Vitamin P.P: Đậu phộng, các sản phẩm
được chế toàn ngũ cốc, gạo chưa giã và các loại đậu.
được chế toàn ngũ cốc, gạo chưa giã và các loại đậu.
Ăn uống chủ yếu tốt nhất là gạo chưa
giã, hoặc toàn mì miếng, không cần phải ăn mì trắng gạo trắng. Nếu gạo chưa giã
không dễ mua thì có thể dùng mầm phôi để thay thế cũng được.
giã, hoặc toàn mì miếng, không cần phải ăn mì trắng gạo trắng. Nếu gạo chưa giã
không dễ mua thì có thể dùng mầm phôi để thay thế cũng được.
Phải nên thường dùng các loại rau cải
tốt tươi, trái cây cũng nên ăn nhiều, lá rau xanh tốt tươi phải có trên một nửa
trong bữa ăn.
tốt tươi, trái cây cũng nên ăn nhiều, lá rau xanh tốt tươi phải có trên một nửa
trong bữa ăn.
Rau cải, trái cây lúc mua về dùng năm
phần muối và một trăm phần nước ngâm nó mấy phút xong đem tẩy rửa ở vòi nước
sạch, để trừ khử nồng độ của thuốc độc.
phần muối và một trăm phần nước ngâm nó mấy phút xong đem tẩy rửa ở vòi nước
sạch, để trừ khử nồng độ của thuốc độc.
Ăn uống tốt nhất có một vấn đề rất là
trọng yếu tức là rau cải, trái cây, hoặc rau non cần phải không có thuốc men
độc địa, ký sinh trùng hoặc ô nhiễm. Không như vậy thì rất là nguy hại, rất
phải nên chú ý.
trọng yếu tức là rau cải, trái cây, hoặc rau non cần phải không có thuốc men
độc địa, ký sinh trùng hoặc ô nhiễm. Không như vậy thì rất là nguy hại, rất
phải nên chú ý.
Các loại đậu, đậu phộng, mè, (vừng) là
gốc chủ yếu của Protein, không nên ngại làm phiền mà không ăn đó, chỉ ăn đậu
hũ, đậu tương thôi thì sẽ không đủ dinh dưỡng. Nếu dùng nó quá lượng sẽ có lúc
bị đau, thì nên dừng ăn mấy ngày sẽ hết đau, giảm lượng ăn mà không hết tức là
người đó có bệnh, nên cần phải đến thầy thuốc.
gốc chủ yếu của Protein, không nên ngại làm phiền mà không ăn đó, chỉ ăn đậu
hũ, đậu tương thôi thì sẽ không đủ dinh dưỡng. Nếu dùng nó quá lượng sẽ có lúc
bị đau, thì nên dừng ăn mấy ngày sẽ hết đau, giảm lượng ăn mà không hết tức là
người đó có bệnh, nên cần phải đến thầy thuốc.
Rau cải không nên ăn lạnh, lúc nấu nên
bỏ thêm mấy miếng gừng để được trung hòa.
bỏ thêm mấy miếng gừng để được trung hòa.
Rau cải, trái cây, đậu phộng, tốt nhất
là ăn sống, vì ăn sống dinh đưỡng nhiều hơn là nấu ăn chín (hạt giống nóng quá
sẽ không thể nảy mầm sinh trưởng).
là ăn sống, vì ăn sống dinh đưỡng nhiều hơn là nấu ăn chín (hạt giống nóng quá
sẽ không thể nảy mầm sinh trưởng).
Mè (vừng) nếu lúc có cát lộn vào, nên
dùng nước đãi bỏ và đem rang chín mà ăn.
dùng nước đãi bỏ và đem rang chín mà ăn.
Cơm gạo lức (gạo chưa giã) là phương
cách tốt nhất.
cách tốt nhất.
Gạo lức, cách nấu nếu giống như gạo
trắng, cơm đó nấu ra hạt sẽ khô xảm khó nuốt, ăn xong lại khó tiêu hóa; Nếu như
hiểu được cách nấu thì cơm khi nấu ra sẽ rất mềm mà lại dễ ăn, hiệu suất tiêu
hóa lại cao hơn gạo tinh trắng – phương pháp nấu cơm gạo lức như sau:
trắng, cơm đó nấu ra hạt sẽ khô xảm khó nuốt, ăn xong lại khó tiêu hóa; Nếu như
hiểu được cách nấu thì cơm khi nấu ra sẽ rất mềm mà lại dễ ăn, hiệu suất tiêu
hóa lại cao hơn gạo tinh trắng – phương pháp nấu cơm gạo lức như sau:
1 – Gạo lức chưa được vo sạch mà đã gấp
rút nấu, vì bên ngoài của lớp gạo lức có một lớp vỏ đen, nước ngấm qua lớp vỏ
đen nầy để đến được gạo bên trong ít nhất là hai giờ đồng hồ, cho nên giả như
lúc nấu là sáng, thì hay nhất là trước lúc gần ngủ đem gạo rửa sạch ngâm một
đêm.
rút nấu, vì bên ngoài của lớp gạo lức có một lớp vỏ đen, nước ngấm qua lớp vỏ
đen nầy để đến được gạo bên trong ít nhất là hai giờ đồng hồ, cho nên giả như
lúc nấu là sáng, thì hay nhất là trước lúc gần ngủ đem gạo rửa sạch ngâm một
đêm.
2 – Lúc nấu để nước ngập gạo và trên
một nửa so với gạo. Dùng nồi nấu mau tốt hơn dùng nồi điện.
một nửa so với gạo. Dùng nồi nấu mau tốt hơn dùng nồi điện.
3 – Thời gian nấu cần phải lâu hơn thời
gian nấu cơm trắng hơn mười phút.
gian nấu cơm trắng hơn mười phút.
4 – Không được nấu chín thì ăn liền,
đợi trong nồi giữ yên cơm sau mười phút, từ từ nguội dần rồi mới mở nắp ra ăn.
Nên nhai nhỏ nuốt chậm, không nhai nhỏ thì không dễ tiêu hóa.
đợi trong nồi giữ yên cơm sau mười phút, từ từ nguội dần rồi mới mở nắp ra ăn.
Nên nhai nhỏ nuốt chậm, không nhai nhỏ thì không dễ tiêu hóa.
Trên đây là bốn phương cách để nấu cơm
gạo lức, đã ăn ngon mà sức tiêu hóa lại cao.
gạo lức, đã ăn ngon mà sức tiêu hóa lại cao.
Các loại đậu lúc nấu thì chẳng cần rửa
kỹ mới nấu, nhưng cũng nên phải ngâm sau vài giờ mới dễ nấu chín nhừ.
kỹ mới nấu, nhưng cũng nên phải ngâm sau vài giờ mới dễ nấu chín nhừ.
Buổi sáng nên ăn no khoảng tám phần,
không cần chỉ ăn cháo, tương, rau, cũng được. Trưa ăn no khoảng bảy phần, bữa
chiều no năm phần. Bữa chiều không nên ăn quá no, càng không nên ăn dặm buổi
tối, vì ăn dặm buổi tối rồi ngủ, lúc ngủ dậy, nước dịch xúc tác vấn đề tiêu hóa
giảm ít đi, mức độ tiêu hóa tự nhiên chậm lại, kết quả sáng ngày thứ hai không
còn muốn ăn sáng nữa.
không cần chỉ ăn cháo, tương, rau, cũng được. Trưa ăn no khoảng bảy phần, bữa
chiều no năm phần. Bữa chiều không nên ăn quá no, càng không nên ăn dặm buổi
tối, vì ăn dặm buổi tối rồi ngủ, lúc ngủ dậy, nước dịch xúc tác vấn đề tiêu hóa
giảm ít đi, mức độ tiêu hóa tự nhiên chậm lại, kết quả sáng ngày thứ hai không
còn muốn ăn sáng nữa.
Sau khi ăn xong trong vòng một tiếng
đồng hồ không được tỉnh tọa hoặc niệm Phật to tiếng, vì như thế dễ sinh bệnh về
đường ruột. Đây là tác dụng của sinh lý.
đồng hồ không được tỉnh tọa hoặc niệm Phật to tiếng, vì như thế dễ sinh bệnh về
đường ruột. Đây là tác dụng của sinh lý.
Ăn chay, vì không rõ về dinh dưỡng đối
với đồ ăn cho nên cho rằng dinh dưỡng không tốt, thân thể suy nhược, lại sợ ăn
chay không tốt nên thối lui tâm Phật, thế thì rất là đáng tiếc!
với đồ ăn cho nên cho rằng dinh dưỡng không tốt, thân thể suy nhược, lại sợ ăn
chay không tốt nên thối lui tâm Phật, thế thì rất là đáng tiếc!
Chất dinh dưỡng trong thân thể chúng ta
nhu cầu thành phần thực vật hàm lượng phong phú hơn xa so với động vật. Ngày
nay chúng ta tu hành học Phật, mượn giả tu chơn, nghiên cứu đối với dinh dưỡng đồ
ăn chay, không được thiếu sót, mong mọi người cùng đồng nghiên cứu, để thân thể
cường tráng khỏe mạnh, làm gương mẫu tốt để độ được nhiều chúng sinh.
nhu cầu thành phần thực vật hàm lượng phong phú hơn xa so với động vật. Ngày
nay chúng ta tu hành học Phật, mượn giả tu chơn, nghiên cứu đối với dinh dưỡng đồ
ăn chay, không được thiếu sót, mong mọi người cùng đồng nghiên cứu, để thân thể
cường tráng khỏe mạnh, làm gương mẫu tốt để độ được nhiều chúng sinh.
Ăn chay điều cần yếu là cân bằng được
sự ăn uống với thân tâm, mới có thể thu được hiệu quả lớn.
sự ăn uống với thân tâm, mới có thể thu được hiệu quả lớn.
Ăn đồ sống là sản phẩm thánh làm đẹp
dung mạo.
dung mạo.
Ăn đồ sống là thuốc hay làm giảm béo
phì.
phì.
Ăn đồ sống (là phép ăn thiên nhiên) là
đồ ăn về thực vật mà đồ ăn đó chưa được nấu chín và trải qua sự gia công bào
chế, ví như rau cải, trái cây, dưa, đậu v.v… các loại.
đồ ăn về thực vật mà đồ ăn đó chưa được nấu chín và trải qua sự gia công bào
chế, ví như rau cải, trái cây, dưa, đậu v.v… các loại.
Vấn đề ăn sống, bất kỳ người nào cũng
đều có thể thực hành, có ích mà không có hại, ví dụ như phần lớn hoặc toàn bộ
là đồ ăn sống, một vài tình cảnh nào đó tốt nhất là cần phải trải qua thời kỳ
quá độ, trước thì số ít, sau lần lần tăng thêm, chờ đến sau ba tháng thì mới ăn
đồ sống số nhiều.
đều có thể thực hành, có ích mà không có hại, ví dụ như phần lớn hoặc toàn bộ
là đồ ăn sống, một vài tình cảnh nào đó tốt nhất là cần phải trải qua thời kỳ
quá độ, trước thì số ít, sau lần lần tăng thêm, chờ đến sau ba tháng thì mới ăn
đồ sống số nhiều.
Có vài nguyên tắc là người chủ yếu ăn
thịt, nếu như một vài biến chuyển do ăn đồ chay hoặc ăn đồ sống, chất độc trong
cơ thể sẽ bài tiết ra rất mau, có thể chịu không được.
thịt, nếu như một vài biến chuyển do ăn đồ chay hoặc ăn đồ sống, chất độc trong
cơ thể sẽ bài tiết ra rất mau, có thể chịu không được.
Ăn đồ sống là phép ăn thiên nhiên mục
tiêu sau cùng là lấy mầm cải của hạt nảy ra hay trái cây, rau cải làm chủ yếu.
Nhưng khi mới bắt đầu, đường ruột vì chưa có thói quen lập tức, vì vậy cần phải
trải qua một khoảng thời gian (ước chừng ba tháng), ở trong khoảng thời gian
nầy nếu có thể tuân thủ một vài nguyên tắc cơ bản, thì sẽ dễ dàng thay đổi
thôi:
tiêu sau cùng là lấy mầm cải của hạt nảy ra hay trái cây, rau cải làm chủ yếu.
Nhưng khi mới bắt đầu, đường ruột vì chưa có thói quen lập tức, vì vậy cần phải
trải qua một khoảng thời gian (ước chừng ba tháng), ở trong khoảng thời gian
nầy nếu có thể tuân thủ một vài nguyên tắc cơ bản, thì sẽ dễ dàng thay đổi
thôi:
1 – Lần hồi tăng thêm lượng rau quả
tươi tốt. Mức độ thấp nhất là 5O% rau sống.
tươi tốt. Mức độ thấp nhất là 5O% rau sống.
2 – Trước và sau bữa ăn không nên uống
canh và nước, vì sẽ làm loãng đi chất nước dịnh kích thích tiêu hóa.
canh và nước, vì sẽ làm loãng đi chất nước dịnh kích thích tiêu hóa.
3 – Lúc đói mới ăn, lúc tâm tình không
tốt, hay nhất là không nên ăn.
tốt, hay nhất là không nên ăn.
4 – Trái cây ăn tốt nhất là thời gian
giữa hai bữa ăn, trái cây rất dễ tiêu hóa, nhưng nếu như ăn sau bữa ăn thì
không thể hoàn toàn phát huy được hết tác dụng dinh dưỡng của nó.
giữa hai bữa ăn, trái cây rất dễ tiêu hóa, nhưng nếu như ăn sau bữa ăn thì
không thể hoàn toàn phát huy được hết tác dụng dinh dưỡng của nó.
Sau đây là một chút kiến nghị về ba bữa
ăn trong một ngày:
ăn trong một ngày:
Sáng có thể kiểm soát cái tốt cái xấu
trạng thái và tinh thần của một ngày, nhân đây lựa chọn đồ ăn cần đặc biệt chú
ý. Buổi sáng trái cây là lý tưởng nhất, chỉ cần thêm một ít hạt đậu phộng hoặc
mè.
trạng thái và tinh thần của một ngày, nhân đây lựa chọn đồ ăn cần đặc biệt chú
ý. Buổi sáng trái cây là lý tưởng nhất, chỉ cần thêm một ít hạt đậu phộng hoặc
mè.
Đổi cách ăn tốt là ăn đồ sống như thế
có hưởng thọ những đặc quyền như là: Tiêu hóa tốt, đường ruột thông suốt, nhuận
trường, giấc ngủ yên ổn, thậm chí đối với bên ngoài của con người cũng sẽ thay
đổi (trẻ trung), đầu tóc đen mướt, răng cứng cáp, da dẻ mịn màng, hai mắt có thần.
có hưởng thọ những đặc quyền như là: Tiêu hóa tốt, đường ruột thông suốt, nhuận
trường, giấc ngủ yên ổn, thậm chí đối với bên ngoài của con người cũng sẽ thay
đổi (trẻ trung), đầu tóc đen mướt, răng cứng cáp, da dẻ mịn màng, hai mắt có thần.
Khi thời gian đầu thân thể giảm cân,
đây là hiện tượng đáng mừng, bỡi vì trong cơ thể sẽ bài tiết ra những tế bào
không tốt, mới có thể tổ chức lại những tế bào mới. Ở trong thời gian chuyển
biến có một vài việc có thể sẽ cảm thấy không được thích nghi như: Cảm giác đau
đầu, phát nóng, hoặc tinh thần không phấn chấn… đây là những độc tố trong cơ
thể bài tiết quá mau, độc tố còn lại ở trong máu dịch tuần hoàn dẫn đến như
vậy. Nhưng những hiện tượng nầy sẽ qua mau (không cần đi bác sĩ hoặc uống thuốc
gì cả), qua thời gian sau đó có cảm giác mỏi mệt rã rời. Nên rất tự nhiên bình
tĩnh, người nào nếu tuân thủ những qui luật nầy, thì sức khỏe, vui vẻ thuộc của
người đó; Nếu ngược lại, thì tật bệnh, già suy sẽ là một phần lớn trong cuộc
sống của con người. Sự lựa chọn sau cùng vẫn là ở nơi tự cá nhân mỗi người.
đây là hiện tượng đáng mừng, bỡi vì trong cơ thể sẽ bài tiết ra những tế bào
không tốt, mới có thể tổ chức lại những tế bào mới. Ở trong thời gian chuyển
biến có một vài việc có thể sẽ cảm thấy không được thích nghi như: Cảm giác đau
đầu, phát nóng, hoặc tinh thần không phấn chấn… đây là những độc tố trong cơ
thể bài tiết quá mau, độc tố còn lại ở trong máu dịch tuần hoàn dẫn đến như
vậy. Nhưng những hiện tượng nầy sẽ qua mau (không cần đi bác sĩ hoặc uống thuốc
gì cả), qua thời gian sau đó có cảm giác mỏi mệt rã rời. Nên rất tự nhiên bình
tĩnh, người nào nếu tuân thủ những qui luật nầy, thì sức khỏe, vui vẻ thuộc của
người đó; Nếu ngược lại, thì tật bệnh, già suy sẽ là một phần lớn trong cuộc
sống của con người. Sự lựa chọn sau cùng vẫn là ở nơi tự cá nhân mỗi người.