LỜI NÓI ĐẦU
Niệm Phật tu hành bằng chơn tâm là biết được tánh trọng yếu
của vấn đề niệm Phật, không quản ngại công tác nhiều, sự tình bề bộn, tuy thân
bận rộn mà tâm không bận rộn, không để việc đời vướng mắc mà bị chuyển đổi. Như
gương chiếu hình, hình hiện lên không chỗ nương cậy, hình mất đi không lưu dấu;
cả ngày công việc đoanh vây, mà vẫn thong dong ngoài vật. Bởi vậy, hàng ngày
lợi dụng những lúc: ngủ dậy, trước khi ngủ, trước và sau khi ăn, trước khi làm
việc, sau khi làm việc, lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi… Tùy thời tùy chỗ mà niệm
Phật. Lúc công tác dụng tâm suy nghĩ, tạm thời gác câu niệm Phật, công việc
xong rồi lại tiếp tục câu Phật hiệu. Niệm Phật nhiều để thành thói quen niệm
Phật, trong tâm có Phật thì sẽ được nhất tâm bất loạn; hiện đời này chứng được
“niệm Phật tam muội” càng hay. Đó là: không làm các việc ác, vưng làm các pháp
lành, tự thanh tịnh nơi ý, ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh thì lúc mệnh
chung mới có thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, thần trí trong sáng
thì chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo, ngồi hoặc nằm niệm Phật mà vãng
sanh về thế giới Cực Lạc. Cuộc sống hiện đời yên ổn, tốt đẹp, tự tại, vui vẻ.
của vấn đề niệm Phật, không quản ngại công tác nhiều, sự tình bề bộn, tuy thân
bận rộn mà tâm không bận rộn, không để việc đời vướng mắc mà bị chuyển đổi. Như
gương chiếu hình, hình hiện lên không chỗ nương cậy, hình mất đi không lưu dấu;
cả ngày công việc đoanh vây, mà vẫn thong dong ngoài vật. Bởi vậy, hàng ngày
lợi dụng những lúc: ngủ dậy, trước khi ngủ, trước và sau khi ăn, trước khi làm
việc, sau khi làm việc, lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi… Tùy thời tùy chỗ mà niệm
Phật. Lúc công tác dụng tâm suy nghĩ, tạm thời gác câu niệm Phật, công việc
xong rồi lại tiếp tục câu Phật hiệu. Niệm Phật nhiều để thành thói quen niệm
Phật, trong tâm có Phật thì sẽ được nhất tâm bất loạn; hiện đời này chứng được
“niệm Phật tam muội” càng hay. Đó là: không làm các việc ác, vưng làm các pháp
lành, tự thanh tịnh nơi ý, ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh thì lúc mệnh
chung mới có thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, thần trí trong sáng
thì chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo, ngồi hoặc nằm niệm Phật mà vãng
sanh về thế giới Cực Lạc. Cuộc sống hiện đời yên ổn, tốt đẹp, tự tại, vui vẻ.
Niệm Phật tu hành không chơn là không
niệm Phật nhiều, hoặc cho rằng lúc mạng mất tâm còn mời người đến trợ niệm là
được; lòng ham muốn phần nhiều chỉ là thành gia, lập nghiệp, mua xe, mua nhà…
các điều bận rộn. Bận rộn mãi với miếng ăn, thức uống, chơi bời, dục lạc hưởng
thụ bèn nói rằng không có thời gian niệm Phật. Lúc bình thường thì không biết
niệm Phật, trong tâm không có Phật. Ba nghiệp thân, miệng, ý lại không thanh
tịnh, lúc mệnh chung bệnh khổ rất nhiều, thần trí hôn mê, ác nghiệp hiện ra
trước mặt, bàng hoàng lo sợ, sáu thần không chủ, tình ái lại không bỏ được, tà
nghiệp hiện tiền, tâm sanh điên đảo, không biết niệm Phật, càng không thể nói
là chuyên nhất niệm Phật được, có người trợ niệm cũng uổng vậy. Bởi vì sao? Vì
thần trí của người hôn mê, tà niệm hiện tiền, tâm sanh điên đảo, không biết
niệm Phật. Người không dựa vào chính mình được, dựa vào người khác cũng dựa
không được. Người nhà cũng không biết thời gian người mệnh chung, người nhà chỉ
trông nom bệnh tình của người, đến lúc mời đoàn trợ niệm (ban hộ niệm) đến để
trợ niệm, có người trợ niệm chẳng vãng sanh, lúc không có người trợ niệm thì đã
chết rồi! Người không như lời dạy, không như pháp thì nhân như thế, quả như thế
đó!
niệm Phật nhiều, hoặc cho rằng lúc mạng mất tâm còn mời người đến trợ niệm là
được; lòng ham muốn phần nhiều chỉ là thành gia, lập nghiệp, mua xe, mua nhà…
các điều bận rộn. Bận rộn mãi với miếng ăn, thức uống, chơi bời, dục lạc hưởng
thụ bèn nói rằng không có thời gian niệm Phật. Lúc bình thường thì không biết
niệm Phật, trong tâm không có Phật. Ba nghiệp thân, miệng, ý lại không thanh
tịnh, lúc mệnh chung bệnh khổ rất nhiều, thần trí hôn mê, ác nghiệp hiện ra
trước mặt, bàng hoàng lo sợ, sáu thần không chủ, tình ái lại không bỏ được, tà
nghiệp hiện tiền, tâm sanh điên đảo, không biết niệm Phật, càng không thể nói
là chuyên nhất niệm Phật được, có người trợ niệm cũng uổng vậy. Bởi vì sao? Vì
thần trí của người hôn mê, tà niệm hiện tiền, tâm sanh điên đảo, không biết
niệm Phật. Người không dựa vào chính mình được, dựa vào người khác cũng dựa
không được. Người nhà cũng không biết thời gian người mệnh chung, người nhà chỉ
trông nom bệnh tình của người, đến lúc mời đoàn trợ niệm (ban hộ niệm) đến để
trợ niệm, có người trợ niệm chẳng vãng sanh, lúc không có người trợ niệm thì đã
chết rồi! Người không như lời dạy, không như pháp thì nhân như thế, quả như thế
đó!
Cho là việc đời bận rộn ư! Vì lúc hưởng
thọ dục lạc, há có thể chẳng e dè thấy nhân sâu xa; chợt vì cái vui khoảnh
khắc, chuốc lấy họa ương nhiều đời.
thọ dục lạc, há có thể chẳng e dè thấy nhân sâu xa; chợt vì cái vui khoảnh
khắc, chuốc lấy họa ương nhiều đời.
Cần phải biết rằng, giả như giàu có,
vàng ngọc đầy nhà, gia thế rạng rỡ, cũng khó tránh khỏi lúc suy tàn già bệnh;
có đủ ngàn điều khoái lạc,vô thường đến lúc kề bên, một khi mất thân người rồi,
khổ ơi là khổ! Hãy xem người xưa mấy ai có được tốt đẹp trọn đời? Chỉ có niệm
Phật tu hành – vãng sanh thế giới Cực Lạc. Lìa khổ được vui – chơn lạc – mới là
đường chánh.
vàng ngọc đầy nhà, gia thế rạng rỡ, cũng khó tránh khỏi lúc suy tàn già bệnh;
có đủ ngàn điều khoái lạc,vô thường đến lúc kề bên, một khi mất thân người rồi,
khổ ơi là khổ! Hãy xem người xưa mấy ai có được tốt đẹp trọn đời? Chỉ có niệm
Phật tu hành – vãng sanh thế giới Cực Lạc. Lìa khổ được vui – chơn lạc – mới là
đường chánh.
Tác giả.
TỰA
Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà
xuất hiện nơi đời, dạy ngay cho chúng ta con đường ra khỏi sanh tử. Song pháp
của Phật thì mênh mông như biển cả, rộng lớn sâu xa, các pháp môn, hạnh môn rất
nhiều. Cần phải xét ngay chỗ cứu cánh, nghiền ngẫm thấu triệt, đối với kẻ phàm
phu hời hợt thật chẳng dễ vậy. Đức Như Lai thương xót chúng sanh thời mạt pháp,
nghiệp dày phước mỏng, khó thành đạo nghiệp, không vì sự thưa thỉnh mà tự nói
“pháp môn niệm Phật”, các kinh đều rộng khen, chư Phật đều tôn vinh công đức
bất khả tư nghì này. Đức Phật chỉ thẳng cho chúng sanh cửa ngõ giải thoát,
phương tiện tối thắng nương vào: tự lực, Phật lực và tha lực mà thành tựu. Song
pháp môn này tuy dễ thực hành được, nhưng kẻ phàm phu ngay trong khi thực hành
chỉ cầu phước báo thế gian: tiêu tai, cầu phuớc… mà không biết việc thành
Phật, tác Tổ của pháp xuất thế, không biết Phật là thế nào? Đức Phật A Di Đà là
như thế nào mà thành tựu được trang nghiêm thanh tịnh, mà phát tâm học tập nơi
Phật, thành Phật độ chúng sanh, càng không biết niệm Phật như thế nào để đạt
đến “nhất tâm bất loạn”, “niệm Phật tam muội” hiện đời này thành Phật, lìa khổ
được vui.
xuất hiện nơi đời, dạy ngay cho chúng ta con đường ra khỏi sanh tử. Song pháp
của Phật thì mênh mông như biển cả, rộng lớn sâu xa, các pháp môn, hạnh môn rất
nhiều. Cần phải xét ngay chỗ cứu cánh, nghiền ngẫm thấu triệt, đối với kẻ phàm
phu hời hợt thật chẳng dễ vậy. Đức Như Lai thương xót chúng sanh thời mạt pháp,
nghiệp dày phước mỏng, khó thành đạo nghiệp, không vì sự thưa thỉnh mà tự nói
“pháp môn niệm Phật”, các kinh đều rộng khen, chư Phật đều tôn vinh công đức
bất khả tư nghì này. Đức Phật chỉ thẳng cho chúng sanh cửa ngõ giải thoát,
phương tiện tối thắng nương vào: tự lực, Phật lực và tha lực mà thành tựu. Song
pháp môn này tuy dễ thực hành được, nhưng kẻ phàm phu ngay trong khi thực hành
chỉ cầu phước báo thế gian: tiêu tai, cầu phuớc… mà không biết việc thành
Phật, tác Tổ của pháp xuất thế, không biết Phật là thế nào? Đức Phật A Di Đà là
như thế nào mà thành tựu được trang nghiêm thanh tịnh, mà phát tâm học tập nơi
Phật, thành Phật độ chúng sanh, càng không biết niệm Phật như thế nào để đạt
đến “nhất tâm bất loạn”, “niệm Phật tam muội” hiện đời này thành Phật, lìa khổ
được vui.
Quyển sách này tác giả là Huỳnh Lão Cư
Sĩ vì từ bi, thương cảm đối với việc: khó được thân người, khó nghe Phật pháp,
khó gặp thiện tri thức, nên đặc biệt soạn ra quyển: “Trì danh niệm Phật vãng
sanh Cực Lạc pháp” chỉ thẳng vào tâm con người, vào chơn tâm niệm Phật tu hành.
Như thế nào là niệm? Như thế nào là tu chứng? Để cùng lúc phá trừ một hạng
người học Phật tu hành muốn cắt xén tâm tốt, có người ngã mạn cầu thần thông
cảm ứng, có người cầu khai ngộ, có người đem tâm vọng tưởng làm chỗ tôn thờ,
“dục tốc bất đạt”, cho đến nỗi tạo thành tập khí tồi tệ, tẩu hỏa nhập ma so ra
đều là như thế. Quyển sách này mở bày việc cần biết để tu hành, phân đoạn giản
dị, rõ ràng, dễ hiểu, trực tiếp ngay một mũi kim mà thấy máu, nương nơi pháp
Phật mà tuần tự lần tiến tới, đi vào quy củ, chánh tri, chánh kiến, loại trừ
tâm bệnh của chúng sanh, đoạn dứt phiền não. Như thế là học tập tu hành và diệt
khổ ngay trong sinh hoạt thuờng ngày. Không đi vào cực đoan, sạch trừ sự hấp
tấp trong tâm, Phật tánh mới có thể hiển hiện ra lần hồi cái tâm thanh tịnh của
tự tánh. Tâm thanh tịnh tức là Phật, là tâm là Phật. Đây là một quyển sách hay
để làm gương soi, nên lưu truyền rộng khắp, mong những người có tâm cùng nhau
hoằng dương, đồng nguyện, đồng thực hành, đồng về tịnh độ của Phật A Di
Đà.
Sĩ vì từ bi, thương cảm đối với việc: khó được thân người, khó nghe Phật pháp,
khó gặp thiện tri thức, nên đặc biệt soạn ra quyển: “Trì danh niệm Phật vãng
sanh Cực Lạc pháp” chỉ thẳng vào tâm con người, vào chơn tâm niệm Phật tu hành.
Như thế nào là niệm? Như thế nào là tu chứng? Để cùng lúc phá trừ một hạng
người học Phật tu hành muốn cắt xén tâm tốt, có người ngã mạn cầu thần thông
cảm ứng, có người cầu khai ngộ, có người đem tâm vọng tưởng làm chỗ tôn thờ,
“dục tốc bất đạt”, cho đến nỗi tạo thành tập khí tồi tệ, tẩu hỏa nhập ma so ra
đều là như thế. Quyển sách này mở bày việc cần biết để tu hành, phân đoạn giản
dị, rõ ràng, dễ hiểu, trực tiếp ngay một mũi kim mà thấy máu, nương nơi pháp
Phật mà tuần tự lần tiến tới, đi vào quy củ, chánh tri, chánh kiến, loại trừ
tâm bệnh của chúng sanh, đoạn dứt phiền não. Như thế là học tập tu hành và diệt
khổ ngay trong sinh hoạt thuờng ngày. Không đi vào cực đoan, sạch trừ sự hấp
tấp trong tâm, Phật tánh mới có thể hiển hiện ra lần hồi cái tâm thanh tịnh của
tự tánh. Tâm thanh tịnh tức là Phật, là tâm là Phật. Đây là một quyển sách hay
để làm gương soi, nên lưu truyền rộng khắp, mong những người có tâm cùng nhau
hoằng dương, đồng nguyện, đồng thực hành, đồng về tịnh độ của Phật A Di
Đà.
Ngày 16 – tháng Giêng năm Dân quốc thứ 87
Nhà tịnh ở Phật đường Bảo Quang
DUY NHẤT đề.
Phật tử là người Quảng Đông, sinh năm Dân quốc thứ 18, lúc
nhỏ thì không tin Phật, không bái thần, có thể nói trong rối rắm càng mơ hồ rối
rắm lộn xộn, hơn nửa đời người, đến lúc sắp đậy nắp quan tài luận tội, mới tin
Phật, học Phật tu hành, đáng tiếc muộn một chút, nhưng hãy còn chưa chậm. Trong
bảy mươi hai năm, cơ duyên chín muồi, ngẫu nhiên gặp trên báo liên hợp xuất bản
có in giúp “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa linh dị lục”, theo đó được mấy bản in
giúp, sau đó nhận được quyển “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa linh dị lục”. Lại
nhận được mấy tờ tạp chí của “Phật giáo tạp chí xã” từng kỳ gởøi đến, và thỉnh được
mấy quyển sách Phật, được nghe Phật pháp, mới để tâm với việc lớn sanh tử, nhân
quả (thiện có báo thiện, ác có báo ác). Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về
đâu? Thế giới ta bà là biển khổ! Người nghèo khổ, người giàu cũng khổ! Khổ
nhiều vui ít, ra khỏi ba cõi sáu đường, lìa khổ được vui – gọi là Chơn lạc.
Khái lược có nhận thức, chỉ hơi tin Phật mà không học Phật tu hành thì không ra
khỏi vòng luân hồi của ba cõi sáu đường, chính như vậy mà bắt đầu học Phật tu
hành.
nhỏ thì không tin Phật, không bái thần, có thể nói trong rối rắm càng mơ hồ rối
rắm lộn xộn, hơn nửa đời người, đến lúc sắp đậy nắp quan tài luận tội, mới tin
Phật, học Phật tu hành, đáng tiếc muộn một chút, nhưng hãy còn chưa chậm. Trong
bảy mươi hai năm, cơ duyên chín muồi, ngẫu nhiên gặp trên báo liên hợp xuất bản
có in giúp “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa linh dị lục”, theo đó được mấy bản in
giúp, sau đó nhận được quyển “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa linh dị lục”. Lại
nhận được mấy tờ tạp chí của “Phật giáo tạp chí xã” từng kỳ gởøi đến, và thỉnh được
mấy quyển sách Phật, được nghe Phật pháp, mới để tâm với việc lớn sanh tử, nhân
quả (thiện có báo thiện, ác có báo ác). Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về
đâu? Thế giới ta bà là biển khổ! Người nghèo khổ, người giàu cũng khổ! Khổ
nhiều vui ít, ra khỏi ba cõi sáu đường, lìa khổ được vui – gọi là Chơn lạc.
Khái lược có nhận thức, chỉ hơi tin Phật mà không học Phật tu hành thì không ra
khỏi vòng luân hồi của ba cõi sáu đường, chính như vậy mà bắt đầu học Phật tu
hành.
Nhân vì cảm thấy: khó được thân người,
khó sinh nơi trung tâm quốc gia, khó nghe được Phật pháp, khó gặp được thiện
tri thức, khó sanh được tín tâm, lên một tầng khó hơn một tầng.
khó sinh nơi trung tâm quốc gia, khó nghe được Phật pháp, khó gặp được thiện
tri thức, khó sanh được tín tâm, lên một tầng khó hơn một tầng.
Khó được thân người: Con người đời đời kiếp kiếp đều ở
trong lục đạo luân hồi, may mắùn có thể được thân người, thật chẳng phải dễ!
trong lục đạo luân hồi, may mắùn có thể được thân người, thật chẳng phải dễ!
Khó sinh nơi quốc gia trung tâm: không phải sanh nơi có Phật giáo
thôi, mà Phật giáo lại phải thịnh hành. Trên thế giới, địa phương có Phật giáo
không nhiều, mà chỗ Phật giáo thịnh hành càng ít. Như ở Đại Lục ngày trước thì
có Phật giáo mà lại thịnh hành, nay chỉ có Phật giáo mà không thịnh hành. Mỹ
quốc ngày trước không có Phật giáo, ngày nay có mà không thịnh hành. Đài Loan
là nơi có Phật giáo lại thịnh hành…
thôi, mà Phật giáo lại phải thịnh hành. Trên thế giới, địa phương có Phật giáo
không nhiều, mà chỗ Phật giáo thịnh hành càng ít. Như ở Đại Lục ngày trước thì
có Phật giáo mà lại thịnh hành, nay chỉ có Phật giáo mà không thịnh hành. Mỹ
quốc ngày trước không có Phật giáo, ngày nay có mà không thịnh hành. Đài Loan
là nơi có Phật giáo lại thịnh hành…
Khó nghe Phật pháp: pháp môn tịnh độ trì danh, niệm Phật
lại càng khó nghe. Kinh Phật là kinh dùng văn nói, văn tả, hiện đại kinh người
ta đọc là văn bạch thoại, nếu người không đọc qua văn nói, xem kinh Phật thì
không hiểu, lại không thể nói được Phật pháp thông đạt, hiểu rõ nghĩa kinh. Xem
kinh Phật không giống như xem sách tham khảo hay phương tiện nào đó, ưa xem thì
đến thư viện để xem, nếu muốn xem lại phải mất công sức đi tìm. Người thường
được nghe pháp sư giảng kinh thuyết pháp cũng chẳng có nhiều, người có thể nghe
pháp sư giảng về phương pháp tu hành trì danh niệm Phật lại càng ít… Nhơn ở
nơi chúng tại gia chỉ tin Phật cầu phước báo nhân thiên: ăn no, mặc đẹp, ở nhà
tốt, ăn uống vui chơi tận tình, không tu hành!Vì vậy pháp sư giảng kinh thuyết
pháp cho chúng tại gia, viết ra chú trọng trên vấn đề học giáo lý ở nơi Phật học,
ít đề cập đến phương pháp tu hành học Phật.
lại càng khó nghe. Kinh Phật là kinh dùng văn nói, văn tả, hiện đại kinh người
ta đọc là văn bạch thoại, nếu người không đọc qua văn nói, xem kinh Phật thì
không hiểu, lại không thể nói được Phật pháp thông đạt, hiểu rõ nghĩa kinh. Xem
kinh Phật không giống như xem sách tham khảo hay phương tiện nào đó, ưa xem thì
đến thư viện để xem, nếu muốn xem lại phải mất công sức đi tìm. Người thường
được nghe pháp sư giảng kinh thuyết pháp cũng chẳng có nhiều, người có thể nghe
pháp sư giảng về phương pháp tu hành trì danh niệm Phật lại càng ít… Nhơn ở
nơi chúng tại gia chỉ tin Phật cầu phước báo nhân thiên: ăn no, mặc đẹp, ở nhà
tốt, ăn uống vui chơi tận tình, không tu hành!Vì vậy pháp sư giảng kinh thuyết
pháp cho chúng tại gia, viết ra chú trọng trên vấn đề học giáo lý ở nơi Phật học,
ít đề cập đến phương pháp tu hành học Phật.
Khó gặp thiện tri thức: có thể gặp được người thông đạt Phật
pháp, hiểu biết lý nghĩa, lại là bậc thiện tri thức tu pháp môn tịnh dộ trì
danh niệm Phật, dạy cho phương pháp tu hành, trì danh niệm Phật, rất khó rất
khó!
pháp, hiểu biết lý nghĩa, lại là bậc thiện tri thức tu pháp môn tịnh dộ trì
danh niệm Phật, dạy cho phương pháp tu hành, trì danh niệm Phật, rất khó rất
khó!
Khó sanh tín tâm: không tin Phật! Không có gặp ma quỷ
thần, chẳng tin có Phật, Bồ tát, hoặc nói Phật giáo là dạy mê tín, thậm chí hủy
báng tam bảo. Tin Phật mà không chịu học Phật tu hành, sợ tu hành thì phú quý,
vinh hoa, ham muốn vui, hưởng vui không thành được. Muốn tu hành mà ở trong thế
giới muôn màu, một khi nghe tu hành cần phải giữ gìn tịnh giới, ăn trường chay,
cuộc sống đạm bạc giản dị thô sơ, thì sợ co lại không dám tiến về trước, quay
đầu ra sau mà chạy. Hoặc gấp rút ra công cho mau gần tới cái lợi, học Phật tu
hành chỉ tu tự lực, tu pháp môn: khai ngộ. Khó tin tịnh độ, chẳng chịu niệm
Phật.
thần, chẳng tin có Phật, Bồ tát, hoặc nói Phật giáo là dạy mê tín, thậm chí hủy
báng tam bảo. Tin Phật mà không chịu học Phật tu hành, sợ tu hành thì phú quý,
vinh hoa, ham muốn vui, hưởng vui không thành được. Muốn tu hành mà ở trong thế
giới muôn màu, một khi nghe tu hành cần phải giữ gìn tịnh giới, ăn trường chay,
cuộc sống đạm bạc giản dị thô sơ, thì sợ co lại không dám tiến về trước, quay
đầu ra sau mà chạy. Hoặc gấp rút ra công cho mau gần tới cái lợi, học Phật tu
hành chỉ tu tự lực, tu pháp môn: khai ngộ. Khó tin tịnh độ, chẳng chịu niệm
Phật.
Nay đây thân người đã được, lại sanh ở
Đài Loan có Phật pháp thịnh hành, có may mắn được nghe Phật pháp, lại biết học
Phật: Phương pháp trì danh niệm Phật. Sợ khó ư! Không học Phật niệm Phật tu
hành, một khi mất thân người, không biết đời nào kiếp nào lại có thể được nghe
Phật pháp! Đèn trước gió – ngày cuối năm sắp hết, bóng dương quang đâu còn được
là bao, một khi dụ dự lầm lỗi, chỉ hơi tin Phật mà mê đắm những dục lạc hưởng
thụ ở thế giới này, đến lúc mất thân nguời thì khổ thay khổ thay!
Đài Loan có Phật pháp thịnh hành, có may mắn được nghe Phật pháp, lại biết học
Phật: Phương pháp trì danh niệm Phật. Sợ khó ư! Không học Phật niệm Phật tu
hành, một khi mất thân người, không biết đời nào kiếp nào lại có thể được nghe
Phật pháp! Đèn trước gió – ngày cuối năm sắp hết, bóng dương quang đâu còn được
là bao, một khi dụ dự lầm lỗi, chỉ hơi tin Phật mà mê đắm những dục lạc hưởng
thụ ở thế giới này, đến lúc mất thân nguời thì khổ thay khổ thay!
Phật tử là chúng tại gia hạ căn, chỉ
lược hiểu về Phật pháp, duy có lòng cung kính chí thành, một lòng nguyện sanh
thế giới Cực Lạc, y cứ nơi sự dạy dỗ như pháp tín thọ phụng hành, tin sâu thiết
tha nguyện trì danh niệm Phật.
lược hiểu về Phật pháp, duy có lòng cung kính chí thành, một lòng nguyện sanh
thế giới Cực Lạc, y cứ nơi sự dạy dỗ như pháp tín thọ phụng hành, tin sâu thiết
tha nguyện trì danh niệm Phật.
Bảy mươi tám năm đơn thân bước vào cửa
sen (hạ thủ công phu tu hành), tự che nhà nhỏ, đóng cửa lại, tạ từ dứt mọi
ngoại duyên, không có việc không ra khỏi cửa, không xem ti vi báo chí, chẳng nghe
âm nhạc, chỉ nghe chơi tân văn rộng rãi, quá ngọ không ăn, chuyên tu trì danh
niệm Phật, thời gian từng ngày qua đi được vui vẻ lắm!
sen (hạ thủ công phu tu hành), tự che nhà nhỏ, đóng cửa lại, tạ từ dứt mọi
ngoại duyên, không có việc không ra khỏi cửa, không xem ti vi báo chí, chẳng nghe
âm nhạc, chỉ nghe chơi tân văn rộng rãi, quá ngọ không ăn, chuyên tu trì danh
niệm Phật, thời gian từng ngày qua đi được vui vẻ lắm!
Cảm nhận sâu xa kinh điển Phật giáo,
sách quyển rất nhiều (ước gần vạn tập). Lúc kinh Phật từ Phạn văn dịch ra Trung
văn, người lúc đó dùng văn nói văn viết, nghĩa giáo rộng rãi, lý nghĩa nói ra
lúc đó từ ý rất là sâu, danh tướng rất là nhiều, khó đọc khó hiểu – Văn người
đời nay đọc là văn bạch thoại, nếu chưa từng đọc qua văn nói, văn rất khó xem,
hiểu được Phật pháp, càng không thể nói rõ nghĩa được. Chỗ nói rằng hiểu rõ về
Phật pháp, cũng là phần nhiều nương nơi kinh mà giải nghĩa thôi, cũng có nhiều
người nghiên cứu đọc tám năm, mười năm cao lắm chỉ hiểu phân nửa. Người đời nay
nếu chẳng tu trì trong sạch, qua loa không dễ gì hiểu sâu được nghĩa. Tuy phát
tâm nghiên cứu đọc tụng, thường khó nhập môn. Được tinh thông nghĩa, nhiều đời
Tổ sư đại đức viết ra cũng chẳng phải là ít. Hiện tại trong hoàn cảnh này,
người đời vì viết để làm kế sinh sống, cuộc sống càng thêm bận rộn, từ đó làm
sao tìm ra thời gian để nghiên cứu đọc tụng ư? Nói gì đến hiểu rõ Phật pháp.
Cũng nhân nơi cái biết không sâu, tín lại không kiên cố, nguyện càng không
thiết tha, tu hành bất lực, tâm địa thô tháo, trong quá trình tu hành gặp hoàn
cảnh bất lợi, hoặc là bị sự công kích của ma oán nghiệp xưa, không thể hiểu
được duyên cớ.
sách quyển rất nhiều (ước gần vạn tập). Lúc kinh Phật từ Phạn văn dịch ra Trung
văn, người lúc đó dùng văn nói văn viết, nghĩa giáo rộng rãi, lý nghĩa nói ra
lúc đó từ ý rất là sâu, danh tướng rất là nhiều, khó đọc khó hiểu – Văn người
đời nay đọc là văn bạch thoại, nếu chưa từng đọc qua văn nói, văn rất khó xem,
hiểu được Phật pháp, càng không thể nói rõ nghĩa được. Chỗ nói rằng hiểu rõ về
Phật pháp, cũng là phần nhiều nương nơi kinh mà giải nghĩa thôi, cũng có nhiều
người nghiên cứu đọc tám năm, mười năm cao lắm chỉ hiểu phân nửa. Người đời nay
nếu chẳng tu trì trong sạch, qua loa không dễ gì hiểu sâu được nghĩa. Tuy phát
tâm nghiên cứu đọc tụng, thường khó nhập môn. Được tinh thông nghĩa, nhiều đời
Tổ sư đại đức viết ra cũng chẳng phải là ít. Hiện tại trong hoàn cảnh này,
người đời vì viết để làm kế sinh sống, cuộc sống càng thêm bận rộn, từ đó làm
sao tìm ra thời gian để nghiên cứu đọc tụng ư? Nói gì đến hiểu rõ Phật pháp.
Cũng nhân nơi cái biết không sâu, tín lại không kiên cố, nguyện càng không
thiết tha, tu hành bất lực, tâm địa thô tháo, trong quá trình tu hành gặp hoàn
cảnh bất lợi, hoặc là bị sự công kích của ma oán nghiệp xưa, không thể hiểu
được duyên cớ.
Cảm một cách sâu xa rất nhiều đối với
những bạn học Phật, chỉ biết làm thiện, cầu tài, cầu thọ, cầu bình yên… Không
biết học Phật để tu hành, ra khỏi ba cõi, lìa khổ được vui, cho đến thành Phật!
những bạn học Phật, chỉ biết làm thiện, cầu tài, cầu thọ, cầu bình yên… Không
biết học Phật để tu hành, ra khỏi ba cõi, lìa khổ được vui, cho đến thành Phật!
Người có chí học Phật tu hành, chẳng
biết Phật pháp trong đó tối trọng yếu là bộ kinh điển nào để mà đọc đây? Pháp
môn tu hành lại nhiều như thế, tu pháp môn nào được? Chỉ thích tin tin Phật,
tụng tụng kinh, lạy một vài lạy Phật, niệm một vài tiếng Phật qua loa. Hoặc
người học về thiền tông, ngồi ngồi rồi đi, được chút ít hiểu biết lạ, linh cảm
giống giống hoặc thấy ánh sáng, thấy hình ảnh… các cảnh giới biểu hiện thì
cho là khai ngộ rồi. Hoặc là người học Tịnh dộ cho là niệm một vài tiếng Phật
là niệm Phật, thì có thể mệnh chung về thế giới Cực Lạc rồi. Chẳng cố gắng thật
sự niệm Phật, chẳng chịu niệm Phật nhiều, không có tập quán niệm Phật, trong
tâm không có Phật không thể cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Đông đảo chúng sinh,
người có thể niệm Phật, có được bao nhiêu người ư? Rất ít. Người có khả năng
biết phương pháp trì danh niệm Phật tu hành, lại có được bao nhiêu người ư?
Càng ít!Người giàu có lại bị mê muội ở nơi giàu có, người thông minh bị mê muội
ở thông minh, người ngu si bị mê muội ở ngu si.
biết Phật pháp trong đó tối trọng yếu là bộ kinh điển nào để mà đọc đây? Pháp
môn tu hành lại nhiều như thế, tu pháp môn nào được? Chỉ thích tin tin Phật,
tụng tụng kinh, lạy một vài lạy Phật, niệm một vài tiếng Phật qua loa. Hoặc
người học về thiền tông, ngồi ngồi rồi đi, được chút ít hiểu biết lạ, linh cảm
giống giống hoặc thấy ánh sáng, thấy hình ảnh… các cảnh giới biểu hiện thì
cho là khai ngộ rồi. Hoặc là người học Tịnh dộ cho là niệm một vài tiếng Phật
là niệm Phật, thì có thể mệnh chung về thế giới Cực Lạc rồi. Chẳng cố gắng thật
sự niệm Phật, chẳng chịu niệm Phật nhiều, không có tập quán niệm Phật, trong
tâm không có Phật không thể cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Đông đảo chúng sinh,
người có thể niệm Phật, có được bao nhiêu người ư? Rất ít. Người có khả năng
biết phương pháp trì danh niệm Phật tu hành, lại có được bao nhiêu người ư?
Càng ít!Người giàu có lại bị mê muội ở nơi giàu có, người thông minh bị mê muội
ở thông minh, người ngu si bị mê muội ở ngu si.
Nếu có một quyển sách hệ thống lược đủ
cho người tại gia học Phật trì danh niệm Phật tu hành, mọi người sẽ thấy được
rõ ràng. Vả lại, một quyển sách dễ học dễ hành, khiến cho người có chí trì danh
niệm Phật tu hành, thì cũng có khả năng vãng sanh thế giới Cực Lạc rất nhiều!
cho người tại gia học Phật trì danh niệm Phật tu hành, mọi người sẽ thấy được
rõ ràng. Vả lại, một quyển sách dễ học dễ hành, khiến cho người có chí trì danh
niệm Phật tu hành, thì cũng có khả năng vãng sanh thế giới Cực Lạc rất nhiều!
Vì cảm nhận đối với vấn đề này, đem chỗ
biết viết thành: “Trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc pháp” mà đơn giản giới
thiệu, để cung cấp cho người có chí học Phật niệm Phật tu hành, để giúp tham
khảo và gắng kết thiện duyên.
biết viết thành: “Trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc pháp” mà đơn giản giới
thiệu, để cung cấp cho người có chí học Phật niệm Phật tu hành, để giúp tham
khảo và gắng kết thiện duyên.
ĐỜI NGƯỜI MONG CẦU
Giàu có, sống lâu, khỏe mạnh, vui vẻ…
người người đều muốn có để hưởng, nhưng người đạt như nguyện ít lại càng ít. Có
người nghèo khổ, có người nhiều bệnh hoặc tàn phế, có người đoản mạng chết sớm.
Chỉ có sự vui vẻ, người người đều có thể hưởng thụ được, nhưng thật đáng tiếc,
có một số người tóm lại không nhìn rõ, lệch lạc tự tìm khổ não, từ bỏ vui vẻ,
lui trốn trong ba nhà, trốn lánh vui tươi thường sống lỗi lầm trong khổ não.
người người đều muốn có để hưởng, nhưng người đạt như nguyện ít lại càng ít. Có
người nghèo khổ, có người nhiều bệnh hoặc tàn phế, có người đoản mạng chết sớm.
Chỉ có sự vui vẻ, người người đều có thể hưởng thụ được, nhưng thật đáng tiếc,
có một số người tóm lại không nhìn rõ, lệch lạc tự tìm khổ não, từ bỏ vui vẻ,
lui trốn trong ba nhà, trốn lánh vui tươi thường sống lỗi lầm trong khổ não.
Vui vẻ không chỉ là sản phẩm có lợi chỉ
chuyên của những người giàu có còn người nghèo khổ thì không có phần. Vui vẻ,
việc đó không phân là người giàu có hay nghèo hèn, già trẻ nam nữ đều được bình
đẳng, mọi người đều có thể hưởng thụ vui vẻ. Hằng ngày sự vui vẻ thường có, xem
ra vì sao chỉ đối với chính mình thôi. Nhận thức chân thật mà nói thì việc tìm
cầu của một đời người chính là: vui vẻ!
chuyên của những người giàu có còn người nghèo khổ thì không có phần. Vui vẻ,
việc đó không phân là người giàu có hay nghèo hèn, già trẻ nam nữ đều được bình
đẳng, mọi người đều có thể hưởng thụ vui vẻ. Hằng ngày sự vui vẻ thường có, xem
ra vì sao chỉ đối với chính mình thôi. Nhận thức chân thật mà nói thì việc tìm
cầu của một đời người chính là: vui vẻ!
Vui vẻ, mà phải “thiểu dục tri túc” thì
mới đầy đủ. Tiếp nhận tất cả, trong tâm tự được, tự đầy, tự đủ, ở địa ngục cũng
như thiên đường, có bệnh ở nơi thân hoặc tàn phế, biết nhân quả, không oán trời
trách người, có bệnh mà hay lấy vô bệänh quán sát, lại bất giác khổ, đoản mạng
chết sớm cũng có thể mỉm cười mà đi.
mới đầy đủ. Tiếp nhận tất cả, trong tâm tự được, tự đầy, tự đủ, ở địa ngục cũng
như thiên đường, có bệnh ở nơi thân hoặc tàn phế, biết nhân quả, không oán trời
trách người, có bệnh mà hay lấy vô bệänh quán sát, lại bất giác khổ, đoản mạng
chết sớm cũng có thể mỉm cười mà đi.
Một người trọn đời mong cầu là cái gì?
Vàng bạc, danh vị, quyền thế hoặc học vị đều là thứ yếu, vì những cái này chỉ
là cái bề mặt, cái mà thấy được, chỉ là một loại cảm thọ đầy đủ tạm thời ngắn
ngủi, mà chẳng phải là cái vui vẻ lâu dài; có thể lâu dài vui vẻ mới là nhân
chính. Vui vẻ là một loại tâm cảnh, một loại cảm giác nội tại thần túy, cũng
chẳng phải hoàn toàn nương gá vật bên ngoài có hình thể, cũng chẳng phải là
hoàn toàn xa lìa ra ngoài vật bên ngoài có hình thể. Vui vẻ là một sự cảm thọ
vô hình của tâm linh sâu xa, nó được chứa nhóm từ chỗ sâu thẳm của tâm linh,
ngay lúc chúng ta muốn dùng nó, tâm chúng ta lại có thể cảm giác sâu sắc, vượt
lên trên cái tâm, mai một đi cái chẳng vui sở hữu, cái đó chúng ta gọi là vui
vẻ, một vài lúc lại biến khắp toàn thân chúng ta, thậm chí không khí chung
quanh sung mãn lâng lâng cảm giác vui sướng.
Vàng bạc, danh vị, quyền thế hoặc học vị đều là thứ yếu, vì những cái này chỉ
là cái bề mặt, cái mà thấy được, chỉ là một loại cảm thọ đầy đủ tạm thời ngắn
ngủi, mà chẳng phải là cái vui vẻ lâu dài; có thể lâu dài vui vẻ mới là nhân
chính. Vui vẻ là một loại tâm cảnh, một loại cảm giác nội tại thần túy, cũng
chẳng phải hoàn toàn nương gá vật bên ngoài có hình thể, cũng chẳng phải là
hoàn toàn xa lìa ra ngoài vật bên ngoài có hình thể. Vui vẻ là một sự cảm thọ
vô hình của tâm linh sâu xa, nó được chứa nhóm từ chỗ sâu thẳm của tâm linh,
ngay lúc chúng ta muốn dùng nó, tâm chúng ta lại có thể cảm giác sâu sắc, vượt
lên trên cái tâm, mai một đi cái chẳng vui sở hữu, cái đó chúng ta gọi là vui
vẻ, một vài lúc lại biến khắp toàn thân chúng ta, thậm chí không khí chung
quanh sung mãn lâng lâng cảm giác vui sướng.
Người giàu nếu không biết đủ (tri túc)
thì không đầy đủ, có rồi càng muốn càng nhiều, tốt rồi càng muốùn càng tốt,
được rồi lại sợ mất đi, lại sợ tai họa tới mình, lại sợ sanh bệnh, lại sợ chết
mất, cả ngày tổn thương gân não, bàng hoàng không an, buồn bực lo sầu sợ sệt lúc
nào mới hết? Ở thiên đường cũng như là ở địa ngục.
thì không đầy đủ, có rồi càng muốn càng nhiều, tốt rồi càng muốùn càng tốt,
được rồi lại sợ mất đi, lại sợ tai họa tới mình, lại sợ sanh bệnh, lại sợ chết
mất, cả ngày tổn thương gân não, bàng hoàng không an, buồn bực lo sầu sợ sệt lúc
nào mới hết? Ở thiên đường cũng như là ở địa ngục.
Chỉ cần có một khoảnh khắc vui vẻ thì
những việc tham, sân, si, nghi, mạn, đấu tranh, tư riêng, sợ sệt, khẩn trương,
giận, buồn phiền, lo nghĩ, tính toán… sẽ mất thôi, tâm tình có thể mở mang
thoải mái trở lại! Đâu phải có tiền, có danh, có thế lực, ăn ngon, mặc đẹp, ở
cao sang, mà không có tâm tình thoải mái để hưởng thụ, thì đâu phải là vui vẻ!
những việc tham, sân, si, nghi, mạn, đấu tranh, tư riêng, sợ sệt, khẩn trương,
giận, buồn phiền, lo nghĩ, tính toán… sẽ mất thôi, tâm tình có thể mở mang
thoải mái trở lại! Đâu phải có tiền, có danh, có thế lực, ăn ngon, mặc đẹp, ở
cao sang, mà không có tâm tình thoải mái để hưởng thụ, thì đâu phải là vui vẻ!
Người nghèo mà biết thiểu dục tri túc
thì là đầy đủ, biết nhân quảø, rõ thị phi, không bạo ngược, không tự ti, không
thèm muốn của người, không tham, không sân, không oán, không tranh, không ghét,
không sợ thẹn, không so sánh nhà người, tự mình buôn bán bao nhiêu ăn bấy
nhiêu, không tủi hổ hình vóc xấu, lại không vì không có tiền mà buồn rầu làm
tổn thương gân não, mặc áo vải, ăn cơm hẩm, ở nhà tranh, đầy đủ với hiện thực,
không kêu ca khuất phục, lại còn mừng vui hạnh phúc, không có lạnh lẽo đói rét
thì tự mình được cái vui.
thì là đầy đủ, biết nhân quảø, rõ thị phi, không bạo ngược, không tự ti, không
thèm muốn của người, không tham, không sân, không oán, không tranh, không ghét,
không sợ thẹn, không so sánh nhà người, tự mình buôn bán bao nhiêu ăn bấy
nhiêu, không tủi hổ hình vóc xấu, lại không vì không có tiền mà buồn rầu làm
tổn thương gân não, mặc áo vải, ăn cơm hẩm, ở nhà tranh, đầy đủ với hiện thực,
không kêu ca khuất phục, lại còn mừng vui hạnh phúc, không có lạnh lẽo đói rét
thì tự mình được cái vui.
Đời người lạc quan, biết sống vui, tâm
não rộng rãi, quán xem các pháp, ít ham muốn và biết đủ thì sẽ đầy đủ. Giàu từ
người khác mà giàu, nghèo từ người khác mà nghèo, là vật ngoài thân, thuận với
tự nhiên, không cưỡng cầu, tốt hoại, đắc thất, khổ vui, chê khen, vinh nhục,
không so tính, phàm việc gì chỉ hỏi tâm không hổ thẹn, tùy gặp cảnh mà an, tâm
an thì lý được, không bị hai cảnh thuận nghịch chi phối. Bình thường đời sống
bất hạnh bị nghèo thiếu vây quanh, cũng có thể an bần lạc đạo, không oán trời
trách người, chẳng vì nghèo khổ mà tự ti, thản nhiên mà tiếp nhận những ngằn mé
bất hạnh, quên đi cái khổ nghèo thiếu, mạnh khỏe, mẻ sứt hoặc tàn phế, cũng có
thể vui sống hằng ngày, chẳng thể nhân nơi bệnh khổ mà lẩn quẩn rên la, trên
tâm linh là: an tường, tự tại và vui sướng.
não rộng rãi, quán xem các pháp, ít ham muốn và biết đủ thì sẽ đầy đủ. Giàu từ
người khác mà giàu, nghèo từ người khác mà nghèo, là vật ngoài thân, thuận với
tự nhiên, không cưỡng cầu, tốt hoại, đắc thất, khổ vui, chê khen, vinh nhục,
không so tính, phàm việc gì chỉ hỏi tâm không hổ thẹn, tùy gặp cảnh mà an, tâm
an thì lý được, không bị hai cảnh thuận nghịch chi phối. Bình thường đời sống
bất hạnh bị nghèo thiếu vây quanh, cũng có thể an bần lạc đạo, không oán trời
trách người, chẳng vì nghèo khổ mà tự ti, thản nhiên mà tiếp nhận những ngằn mé
bất hạnh, quên đi cái khổ nghèo thiếu, mạnh khỏe, mẻ sứt hoặc tàn phế, cũng có
thể vui sống hằng ngày, chẳng thể nhân nơi bệnh khổ mà lẩn quẩn rên la, trên
tâm linh là: an tường, tự tại và vui sướng.
Thật sự mà nói, vui vẻ do sự kích thích
của vật bên ngoài sản sinh phần nhiều thuộc về khoái lạc cảm quan; sự vui vẻ
xuất phát từ nội tâm thì là khoái lạc của tâm linh. Nguồn gốc của hai sự khoái
lạc ấy không đồng, thứ lớp cũng có sai khác. Đứng một phía mà nói, sự vui vẻ
của cảm quan – đến vui đi cũng vui, như ngày mùa hạ mây tụ, lại vẹt tan ngay mà
qua đi; sự vui vẻ của tâm linh thì sanh lần hồi rồi chậm chạp đầy lên, giống
như nước suối của núi mùa xuân nhởn nhơ chẳng khô. Ngài Trí Giả nói: “ Biết đủ
có thể đem niềm vui chất chồng thành núi, càng chứa càng dày; không biết đủ,
thì sẽ đem niềm vui đục khoét thành vực, càng khoét càng sâu”.
của vật bên ngoài sản sinh phần nhiều thuộc về khoái lạc cảm quan; sự vui vẻ
xuất phát từ nội tâm thì là khoái lạc của tâm linh. Nguồn gốc của hai sự khoái
lạc ấy không đồng, thứ lớp cũng có sai khác. Đứng một phía mà nói, sự vui vẻ
của cảm quan – đến vui đi cũng vui, như ngày mùa hạ mây tụ, lại vẹt tan ngay mà
qua đi; sự vui vẻ của tâm linh thì sanh lần hồi rồi chậm chạp đầy lên, giống
như nước suối của núi mùa xuân nhởn nhơ chẳng khô. Ngài Trí Giả nói: “ Biết đủ
có thể đem niềm vui chất chồng thành núi, càng chứa càng dày; không biết đủ,
thì sẽ đem niềm vui đục khoét thành vực, càng khoét càng sâu”.
Con người, cuối cùng một đời, tìm tìm
kiếm kiếm, tranh tranh nghiệp nghiệp, tóm lại chỗ truy cầu thoát ly không được
sự hào hoa nơi vật chất và sự rõ ràng nơi danh lợi, chỉ tất cả cần thấu rõ
lương tâm, đạo đức, nhân nghĩa, tâm mới an, tâm an! Để được vui vẻ, nếu chỉ vì
thỏa mãn đầy đủ lòng ham muốn của mình, tha hồ làm điều trái lẽ, thì có cái gì
mà chẳng thể làm; chẳng phải chờ đợi báo ứng đời sau mà thọ khổ, đời này cũng
có thể hiển hiện tai họa trùng trùng, như thế có thể vui vẻ được chăng!
kiếm kiếm, tranh tranh nghiệp nghiệp, tóm lại chỗ truy cầu thoát ly không được
sự hào hoa nơi vật chất và sự rõ ràng nơi danh lợi, chỉ tất cả cần thấu rõ
lương tâm, đạo đức, nhân nghĩa, tâm mới an, tâm an! Để được vui vẻ, nếu chỉ vì
thỏa mãn đầy đủ lòng ham muốn của mình, tha hồ làm điều trái lẽ, thì có cái gì
mà chẳng thể làm; chẳng phải chờ đợi báo ứng đời sau mà thọ khổ, đời này cũng
có thể hiển hiện tai họa trùng trùng, như thế có thể vui vẻ được chăng!
Rất nhiều người không được vui vẻ là
bởi do từ lòng ham muốn ngóc ngách sâu xa. Nếu hay xem phú quý như mây nổi,
danh lợi như khói sương, được mất không vinh ở nơi tâm, tự nhiên, gió mưa buồn
rầu cũng chẳng xâm phạm ở trong lòng, huống gì, tiếng buồn khí thảm không giúp
được đối với công việc. Sao chẳng lấy riêng một món tâm tình xem cho tất cả.
bởi do từ lòng ham muốn ngóc ngách sâu xa. Nếu hay xem phú quý như mây nổi,
danh lợi như khói sương, được mất không vinh ở nơi tâm, tự nhiên, gió mưa buồn
rầu cũng chẳng xâm phạm ở trong lòng, huống gì, tiếng buồn khí thảm không giúp
được đối với công việc. Sao chẳng lấy riêng một món tâm tình xem cho tất cả.
Người học Phật tu hành chuyên nhất chí
thành ở nơi chân tâm, tin thọ vưng làm, chẳng cầu điều kiện hư vinh trước mắt,
mà cầu ở nơi chỗ sâu xa của nội tâm, dứt bỏ dục vọng chính mình và chấp trước,
giữ gìn tâm thanh tịnh. Từ việc hành trì không gián đoạn, tự nhiên được an
ninh, đầy đủ và vui vẻ trong tâm linh. Nhân người tu hành có chánh kiến, chánh
tư duy, tâm từ bi, làm việc thiện, không làm ác, thiểu dục tri túc, ít phiền
não, có sự ký thác trên tinh thần là: Tin Phật. Có lý tưởng: Thành Phật, tự
nhiên cuộc sống được vui vẻ nhiều.
thành ở nơi chân tâm, tin thọ vưng làm, chẳng cầu điều kiện hư vinh trước mắt,
mà cầu ở nơi chỗ sâu xa của nội tâm, dứt bỏ dục vọng chính mình và chấp trước,
giữ gìn tâm thanh tịnh. Từ việc hành trì không gián đoạn, tự nhiên được an
ninh, đầy đủ và vui vẻ trong tâm linh. Nhân người tu hành có chánh kiến, chánh
tư duy, tâm từ bi, làm việc thiện, không làm ác, thiểu dục tri túc, ít phiền
não, có sự ký thác trên tinh thần là: Tin Phật. Có lý tưởng: Thành Phật, tự
nhiên cuộc sống được vui vẻ nhiều.
Đương nhiên chẳng phải ngay khi mới bắt
đầu tu thì có thể được sự vui vẻ trên tâm linh, quyết cần phải thanh trừ tập
khí vô minh chính mình: tham, sân, si… Cải chánh hành vi hư hoại, sự vui vẻ
mới có thể hưởng thọ được.
đầu tu thì có thể được sự vui vẻ trên tâm linh, quyết cần phải thanh trừ tập
khí vô minh chính mình: tham, sân, si… Cải chánh hành vi hư hoại, sự vui vẻ
mới có thể hưởng thọ được.
ĐỜI NGƯỜI VUI VẺ
Vui vẻ là hạnh phúc có thể đánh giá là
vô giá.
vô giá.
Cuộc sống của đời người là tìm cầu sự
vui vẻ.
vui vẻ.
Con người có quyền tìm cầu sự vui vẻ,
nhưng vị tất có may mắn tìm được nó.
nhưng vị tất có may mắn tìm được nó.
Cuộc sống của con người có hai việc:
Một là cuộc sống vật chất, hai là cuộc sống tinh thần. Cuộc sống vật chất càng
tìm cầu thì càng đau khổ, vĩnh viễn không thể đầy đủ. Nhưng nếu hướng về phương
diện cuộc sống tinh thần để tìm cầu, thì tâm tình có thể thoải mái, tâm lý an
ổn, thì sẽ được cuộc sống vui vẻ.
Một là cuộc sống vật chất, hai là cuộc sống tinh thần. Cuộc sống vật chất càng
tìm cầu thì càng đau khổ, vĩnh viễn không thể đầy đủ. Nhưng nếu hướng về phương
diện cuộc sống tinh thần để tìm cầu, thì tâm tình có thể thoải mái, tâm lý an
ổn, thì sẽ được cuộc sống vui vẻ.
Vui vẻ là thứ cảm thọ vô hình, sâu sắc
của tâm linh. Nó là một món cảm thọ kì diệu sâu sắc trong lòng của nhân loại.
Nó là một đồ vật mà ta nhìn không thấy, nghe không được, sờ không đụng. Nó là
một món tâm cảnh bất định tùy theo thời gian ảnh hưởng chúng ta mà hiện khởi
hay ẩn mất. Kỳ thật, sự vui vẻ không chỉ đầy đủ ở trên cảm quan, nó là sự vui
sướng không dứt đến từ nguồn nội tâm, đầy đủ có thật và yên bình; Song có một
vài người trên xã hội, ý đồ của họ đem những cuồng vui gợi tình làm tê mê, đem
những sự huyên náo xướng lên những điều trái lẽ để làm cho trống vắng nội tâm.
Con người, duy có lúc thanh bần, muốn cầu giàu có, cho là sau khi giàu đủ nhất
định vui vẻ; Lúc thấp hèn, muốn cầu vinh hiển quyền quý, cho là sau khi được
quyền quý vinh hiển thì nhất định vui vẻ. Chỉ ngay sau khi có đủ tiền bạc, giàu
co,ù danh lợi, địa vị thì ban đầu sẽ có cảm giác cuồng vui hưng phấn, nhưng không
lâu cái đầy đủ tốt đẹp này cũng rất tiêu mau mất không hình không dấu.
của tâm linh. Nó là một món cảm thọ kì diệu sâu sắc trong lòng của nhân loại.
Nó là một đồ vật mà ta nhìn không thấy, nghe không được, sờ không đụng. Nó là
một món tâm cảnh bất định tùy theo thời gian ảnh hưởng chúng ta mà hiện khởi
hay ẩn mất. Kỳ thật, sự vui vẻ không chỉ đầy đủ ở trên cảm quan, nó là sự vui
sướng không dứt đến từ nguồn nội tâm, đầy đủ có thật và yên bình; Song có một
vài người trên xã hội, ý đồ của họ đem những cuồng vui gợi tình làm tê mê, đem
những sự huyên náo xướng lên những điều trái lẽ để làm cho trống vắng nội tâm.
Con người, duy có lúc thanh bần, muốn cầu giàu có, cho là sau khi giàu đủ nhất
định vui vẻ; Lúc thấp hèn, muốn cầu vinh hiển quyền quý, cho là sau khi được
quyền quý vinh hiển thì nhất định vui vẻ. Chỉ ngay sau khi có đủ tiền bạc, giàu
co,ù danh lợi, địa vị thì ban đầu sẽ có cảm giác cuồng vui hưng phấn, nhưng không
lâu cái đầy đủ tốt đẹp này cũng rất tiêu mau mất không hình không dấu.
Có một câu chuyện Nhi Đồøng kể rằng:
“Có một người giàu có sau khi có đủ tất cả những gì anh ta muốn, ngược lại phát
hiện chính mình chẳng có sự vui vẻ; mà một người dân bình thường không giàu có,
ngược lại hay bình thản đạm bạc vui vẻ một đời. Người dân đó so với người giàu
có vui vẻ hơn, đó là vì anh ta hiểu được tìm kiếm sự vui vẻ như thế nào, như
thế nào khiến cho đời người chính mình giữ gìn được sự thoải mái; Người giàu có
thì ngược lại cho là sự vui vẻ quyết cần phải tiêu hao tinh thần và sức lực mới
có thể được, do đó phung phí hết tâm tư nhào vào danh lợi, vật chất mà hưởng
thụ cho là sự vui vẻ, nên là như vậy!
“Có một người giàu có sau khi có đủ tất cả những gì anh ta muốn, ngược lại phát
hiện chính mình chẳng có sự vui vẻ; mà một người dân bình thường không giàu có,
ngược lại hay bình thản đạm bạc vui vẻ một đời. Người dân đó so với người giàu
có vui vẻ hơn, đó là vì anh ta hiểu được tìm kiếm sự vui vẻ như thế nào, như
thế nào khiến cho đời người chính mình giữ gìn được sự thoải mái; Người giàu có
thì ngược lại cho là sự vui vẻ quyết cần phải tiêu hao tinh thần và sức lực mới
có thể được, do đó phung phí hết tâm tư nhào vào danh lợi, vật chất mà hưởng
thụ cho là sự vui vẻ, nên là như vậy!
Người hiện tại mỗi việc lấy nhẹ – nặng
của lợi ích làm việc đong đo tiêu chuẩn nguyên tắc trong sinh hoạt, do đó, tuy
là hưởng dụng không thiếu, trong tâm cũng khó khỏi sự mất mát. Đây cũng chính
là chỗ khổ thân chẳng do mình.
của lợi ích làm việc đong đo tiêu chuẩn nguyên tắc trong sinh hoạt, do đó, tuy
là hưởng dụng không thiếu, trong tâm cũng khó khỏi sự mất mát. Đây cũng chính
là chỗ khổ thân chẳng do mình.
Cái hoạn của con người, cho là tất cả
đều là cái lý đương nhiên như vậy, mà không yêu tiếc tất cả đã có. Có rồi lại
muốn thêm nhiều, tốt rồi lại muốn càng tốt, lại cố trèo lên, cố nhiên là tốt,
nhưng nếu không thể lãnh hội được cảnh giới bình ổn chắc thật, có lẽ toàn thế
giới vẫn vậy, không thể vui vẻ!
đều là cái lý đương nhiên như vậy, mà không yêu tiếc tất cả đã có. Có rồi lại
muốn thêm nhiều, tốt rồi lại muốn càng tốt, lại cố trèo lên, cố nhiên là tốt,
nhưng nếu không thể lãnh hội được cảnh giới bình ổn chắc thật, có lẽ toàn thế
giới vẫn vậy, không thể vui vẻ!
Bản chất của cuộc sống, kỳ thật rất đơn
giản. Con người, sở dĩ không vui vẻ là do dục vọng, tham niệm quá nhiều. Con
người ở trong cuộc sống vật chất càng tốt càng nhiều cũng chẳng đủ cho lòng dục
vọng, dục vọng không đủ tâm sẽ không yên tịnh, tâm không yên tịnh thì không tự
tại, dẫu rằng danh lợi đã được, vật chất không thiếu, cũng chưa chắc có tâm
cảnh vui vẻ.
giản. Con người, sở dĩ không vui vẻ là do dục vọng, tham niệm quá nhiều. Con
người ở trong cuộc sống vật chất càng tốt càng nhiều cũng chẳng đủ cho lòng dục
vọng, dục vọng không đủ tâm sẽ không yên tịnh, tâm không yên tịnh thì không tự
tại, dẫu rằng danh lợi đã được, vật chất không thiếu, cũng chưa chắc có tâm
cảnh vui vẻ.
Con người cần phải đơn thuần trong cuộc
sống vật chất, cần phải giản dị, mộc mạc, càng đơn thuần giản dị càng tốt, sự
vui vẻ tự nhiên đến. Sự vui vẻ là tự mình tìm lấy, không thể nói trong hoàn cảnh
ác liệt chịu đựng như thế nào, chỉ cần nhìn trên phương diện tốt, nghĩ rằng, có
thể tri túc, thỏa mãn với hiện thực, tùy cảnh ngộ mà an, vui vẻ sẽ đến ngay.
Như thế nào cuộc sống được vui vẻ? Đó hoàn toàn nắm trong tay chính mình.
sống vật chất, cần phải giản dị, mộc mạc, càng đơn thuần giản dị càng tốt, sự
vui vẻ tự nhiên đến. Sự vui vẻ là tự mình tìm lấy, không thể nói trong hoàn cảnh
ác liệt chịu đựng như thế nào, chỉ cần nhìn trên phương diện tốt, nghĩ rằng, có
thể tri túc, thỏa mãn với hiện thực, tùy cảnh ngộ mà an, vui vẻ sẽ đến ngay.
Như thế nào cuộc sống được vui vẻ? Đó hoàn toàn nắm trong tay chính mình.
Cuộc sống con người thoải mái đều chẳng
khó, song anh phải cần: thiểu dục tri túc thì sẽ đầy đủ. Cuộc sống đạm bạc giản
đơn, có tấm lòng bao dung rộng lớn, thái độ thành ý khiêm nhường, lại cần giả
điếc làm câm, không tham, không sân, hay nhẫn nhượng, hay ăn thiếu, vô ngã, không
riêng tư, đối việc không ngã chấp, đối người không so tính, phàm sự việc nghịch
đến thì thuận chịu, việc không ở nơi ý vả phải coi cho rõ, hết lòng giảng giải
giáo hóa phương pháp thấy được đối với vật, việc, người gặp xung quanh, gánh
vác giảm nhẹ đi áp lực tâm lý, có thể yên ổn đối với tình trạng hiện tại, tiếp
nạp tất cả, nội tâm tự được đầy đủ. Duy có như vậy, cuộc sống mới có thể đầy đủ
thật sự, cuộc sống dạt dào, lý do: cảnh từ tâm sanh. Con người vui vẻ hay không
ở nơi cảnh chẳng phải là chỉ một điều kiện, gặp cảnh tâm cảnh phản ứng, mới là
mấu chốt quyết định vui vẻ hay không. Tiếp nạp tất cả một cách đầy đủ: ăn cho
khỏe mạnh, mặc cho thỏa mãn, ở cho thoải mái. Người tri túc nằm ở địa ngục cũng
như ở thiên đàng; người không tri túc, ở thiên đàng cũng như ở địa ngục. Đồ đạc
đồng dạng với nhau, do con người không giống nhau ăn vào sẽ có mùi vị không
đồng, nhà thì giống nhau, do tâm tình của con người không đồng, ở vào thì sẽ có
sự khác nhau thiên đường và địa ngục. Người tri túc, một bữa một hai món đồ ăn,
thì bữa bữa đều có đồ để ăn; Người không tri túc, mỗi bữa đồ ăn bày đầy bàn, mà
không phải là những món kiểu này thì sẽ thấy không ngon, tóm lại là những món
đó không thích thì cho là không có đồ ăn. Con người có thể yên ổn ở nơi tình
trạng hiện tại, tiếp nạp tất cả, nội tâm tự đầy đủ, chỉ có như vậy cuộc sống
mới có thể sung túc thật sự, cuộc đời mới dạt dào niềm vui.
khó, song anh phải cần: thiểu dục tri túc thì sẽ đầy đủ. Cuộc sống đạm bạc giản
đơn, có tấm lòng bao dung rộng lớn, thái độ thành ý khiêm nhường, lại cần giả
điếc làm câm, không tham, không sân, hay nhẫn nhượng, hay ăn thiếu, vô ngã, không
riêng tư, đối việc không ngã chấp, đối người không so tính, phàm sự việc nghịch
đến thì thuận chịu, việc không ở nơi ý vả phải coi cho rõ, hết lòng giảng giải
giáo hóa phương pháp thấy được đối với vật, việc, người gặp xung quanh, gánh
vác giảm nhẹ đi áp lực tâm lý, có thể yên ổn đối với tình trạng hiện tại, tiếp
nạp tất cả, nội tâm tự được đầy đủ. Duy có như vậy, cuộc sống mới có thể đầy đủ
thật sự, cuộc sống dạt dào, lý do: cảnh từ tâm sanh. Con người vui vẻ hay không
ở nơi cảnh chẳng phải là chỉ một điều kiện, gặp cảnh tâm cảnh phản ứng, mới là
mấu chốt quyết định vui vẻ hay không. Tiếp nạp tất cả một cách đầy đủ: ăn cho
khỏe mạnh, mặc cho thỏa mãn, ở cho thoải mái. Người tri túc nằm ở địa ngục cũng
như ở thiên đàng; người không tri túc, ở thiên đàng cũng như ở địa ngục. Đồ đạc
đồng dạng với nhau, do con người không giống nhau ăn vào sẽ có mùi vị không
đồng, nhà thì giống nhau, do tâm tình của con người không đồng, ở vào thì sẽ có
sự khác nhau thiên đường và địa ngục. Người tri túc, một bữa một hai món đồ ăn,
thì bữa bữa đều có đồ để ăn; Người không tri túc, mỗi bữa đồ ăn bày đầy bàn, mà
không phải là những món kiểu này thì sẽ thấy không ngon, tóm lại là những món
đó không thích thì cho là không có đồ ăn. Con người có thể yên ổn ở nơi tình
trạng hiện tại, tiếp nạp tất cả, nội tâm tự đầy đủ, chỉ có như vậy cuộc sống
mới có thể sung túc thật sự, cuộc đời mới dạt dào niềm vui.
Giàu và nghèo, vui vẻ hay thống khổ
cũng chẳng qua là trong một niệm, tư tưởng thông rồi, rất là tự nhiên đều đem
làm cái sở hữu của ta, vật ở ngoài thân, lại tranh chấp có được gì! Sanh mệnh
như hoa Đàm một lần hiện ở trong vũ trụ, bực bội có được gì!
cũng chẳng qua là trong một niệm, tư tưởng thông rồi, rất là tự nhiên đều đem
làm cái sở hữu của ta, vật ở ngoài thân, lại tranh chấp có được gì! Sanh mệnh
như hoa Đàm một lần hiện ở trong vũ trụ, bực bội có được gì!
Đời người ở thế gian nên tự cầu phước
nhiều; Phần nhiều hay muốn tự mình hưởng có tất cả những điều không buồn lo,
không ai oán.
nhiều; Phần nhiều hay muốn tự mình hưởng có tất cả những điều không buồn lo,
không ai oán.
VÌ SAO CẦN HỌC PHẬT?
Mục đích học Phật là như thế nào? Nói
một cách đơn giản: tức là “chuyển mê thành ngộ”. Nhưng MÊ là mê cái gì? NGỘ là
ngộ cái gì?
một cách đơn giản: tức là “chuyển mê thành ngộ”. Nhưng MÊ là mê cái gì? NGỘ là
ngộ cái gì?
Mê, tức là mờ mịt đối với chân lí nhân
sinh vũ trụ, không rõ được chân tướng bản nhiên của nhân sinh, cũng không rõ
được sự tướng duyên khởi của vũ trụ. Chân tướng của nhân sinh vũ trụ là:Thế
gian vô thường, cõi nước nguy hiểm (nguy hiểm mỏng manh, dễ vỡ), bốn đại khổ –
không, năm uẩn không tướng.
sinh vũ trụ, không rõ được chân tướng bản nhiên của nhân sinh, cũng không rõ
được sự tướng duyên khởi của vũ trụ. Chân tướng của nhân sinh vũ trụ là:Thế
gian vô thường, cõi nước nguy hiểm (nguy hiểm mỏng manh, dễ vỡ), bốn đại khổ –
không, năm uẩn không tướng.
Mà chúng ta ngược lại có thói quen đối
với vọng tưởng chấp trước trên chủ quan, mờ mắt liều mạng tìm theo tất cả những
sự vật huyễn diệt, lầm nhận muôn pháp hư huyễn là thường trụ bất hại, và thân
tâm do năm uẩn hòa hợp làm chân ngã, cho đến chấp ngã, chấp pháp, khởi hoặc,
tạo nghiệp, rốt cuộc trôi chảy trong sinh tử, chìm đắm nơi biển khổ.
với vọng tưởng chấp trước trên chủ quan, mờ mắt liều mạng tìm theo tất cả những
sự vật huyễn diệt, lầm nhận muôn pháp hư huyễn là thường trụ bất hại, và thân
tâm do năm uẩn hòa hợp làm chân ngã, cho đến chấp ngã, chấp pháp, khởi hoặc,
tạo nghiệp, rốt cuộc trôi chảy trong sinh tử, chìm đắm nơi biển khổ.
Ngộ, tức là đối với chân như lí tánh
của nhân sinh, sự tướng duyên khởi của vũ trụ, có sự lí giải thấu triệt, biết
là duyên sinh tánh không, duyên khởi vô ngã (duyên sinh, là do các duyên hòa
hợp mà sinh – duyên khởi, là nói các pháp do các duyên hợp thành, tánh đó vốn
không, không có tự tánh chân thật). Do đó không thể chấp trước, tự tìm phiền
não, lại tạo nghiệp, để chuốc lấy quả khổ.
của nhân sinh, sự tướng duyên khởi của vũ trụ, có sự lí giải thấu triệt, biết
là duyên sinh tánh không, duyên khởi vô ngã (duyên sinh, là do các duyên hòa
hợp mà sinh – duyên khởi, là nói các pháp do các duyên hợp thành, tánh đó vốn
không, không có tự tánh chân thật). Do đó không thể chấp trước, tự tìm phiền
não, lại tạo nghiệp, để chuốc lấy quả khổ.
Nói một cách khác: Mê, tức là không rõ
chân tướng của nhân sinh, một người ở trong cuộc sống vài mươi năm, nói gần,
không hiểu được chính mình sinh ra như thế nào, mỗi khi lộn xộn rối rắm, giống
như bịt mắt đi đường; đến già, lại không hiểu rõ lúc chết; Chết rồi, đến chỗ
nào? Cho đến tất cả vạn vật bên ngoài con người là làm sao mà đến, chỗ có tất
cả đây, đều là chẳng rõ sự kì diệu. Nói xa hơn, tất cả vạn hữu trong vũ trụ tại
sao lại tồn tại? Phàm là không rõ được những đạo lí này, gọi là mê.
chân tướng của nhân sinh, một người ở trong cuộc sống vài mươi năm, nói gần,
không hiểu được chính mình sinh ra như thế nào, mỗi khi lộn xộn rối rắm, giống
như bịt mắt đi đường; đến già, lại không hiểu rõ lúc chết; Chết rồi, đến chỗ
nào? Cho đến tất cả vạn vật bên ngoài con người là làm sao mà đến, chỗ có tất
cả đây, đều là chẳng rõ sự kì diệu. Nói xa hơn, tất cả vạn hữu trong vũ trụ tại
sao lại tồn tại? Phàm là không rõ được những đạo lí này, gọi là mê.
Ngộ, là rõ ràng chơn tướng sự thật,
hiểu được thân thể của nó chỉ là giả tướng hòa hiệp của bốn đại: đất, nước,
lửa, gió (tức là tám đại hệ thống của thân thể con người giải phẫu ra, nhục thể
tổ hợp mà thành). Nhục thể giả tướng này, trải qua: trẻ nhỏ, thiếu niên, trung
niên, già, có một ngày bốn đại không đều hòa thì bệnh, bệnh nặng mà chết, sau
khi chết từ từ dần về tiêu diệt. Chỉ có còn trong nơi nhục thể, thật tướng con
mắt kia nhìn không thấy, lại gọi là chân như (tục gọi là linh hồn) hoặc gọi là
Phật tánh là vĩnh viễn tồn tại, là không sinh, không diệt. Một người như thế
này, vạn vật cũng là thế này, người nếu hiểu được đạo lí này gọi là Ngộ. Học
Phật tức là đem cảnh Mê của ngươi chuyển đổi đi, mà mở ra một con đường khiến
ngươi đi vào cảnh Ngộ.
hiểu được thân thể của nó chỉ là giả tướng hòa hiệp của bốn đại: đất, nước,
lửa, gió (tức là tám đại hệ thống của thân thể con người giải phẫu ra, nhục thể
tổ hợp mà thành). Nhục thể giả tướng này, trải qua: trẻ nhỏ, thiếu niên, trung
niên, già, có một ngày bốn đại không đều hòa thì bệnh, bệnh nặng mà chết, sau
khi chết từ từ dần về tiêu diệt. Chỉ có còn trong nơi nhục thể, thật tướng con
mắt kia nhìn không thấy, lại gọi là chân như (tục gọi là linh hồn) hoặc gọi là
Phật tánh là vĩnh viễn tồn tại, là không sinh, không diệt. Một người như thế
này, vạn vật cũng là thế này, người nếu hiểu được đạo lí này gọi là Ngộ. Học
Phật tức là đem cảnh Mê của ngươi chuyển đổi đi, mà mở ra một con đường khiến
ngươi đi vào cảnh Ngộ.
Nhưng mục đích của học Phật còn chưa
sáng sủa là vì chưa giải thoát đau khổ cho chính mình. Càng phải vì tất cả
chúng sinh mà bài trừ khổ nạn, được vui vẻ mà nỗ lực.
sáng sủa là vì chưa giải thoát đau khổ cho chính mình. Càng phải vì tất cả
chúng sinh mà bài trừ khổ nạn, được vui vẻ mà nỗ lực.
VÌ SAO CẦN TU HÀNH?
Vì sao cần phải tu hành? Tu hành là thế
nào? Rõ được đạo lí này thì tốt rồi, tu được rồi.
nào? Rõ được đạo lí này thì tốt rồi, tu được rồi.
Vì sao cần tu hành ư? Là vì cần: Lìa
khổ được vui. Thế giới ta bà là biển khổ, người đời là kẻ khổ, khổ nhiều vui
ít, người nghèo khổ, người giàu cũng khổ, lúc bận rộn khổ, lúc nhàn rỗi cũng
khổ. Khổ mỗi dạng mỗi việc, mỗi loại rất nhiều rất nhiều trong cuộc sống hàng
ngày thường thường gặp đến, tóm lại: không hợp với lòng không yên, không tự
tại, không vui thì là khổ! Anh cho là sinh hoạt hiện tại được rất xứng tâm như
ý, rất vui; Vậy anh có thể giữ đời này kiếp này đều xứng tâm như ý và vui vẻ
không? Muốn lìa khổ được vui, chỉ một niềm tin là tin Phật, một việc làm là làm
thiện, mà chẳng chịu học Phật tu hành thì không ra khỏi luân hồi sáu đường, lìa
không được khổ, chẳng được chơn lạc.
khổ được vui. Thế giới ta bà là biển khổ, người đời là kẻ khổ, khổ nhiều vui
ít, người nghèo khổ, người giàu cũng khổ, lúc bận rộn khổ, lúc nhàn rỗi cũng
khổ. Khổ mỗi dạng mỗi việc, mỗi loại rất nhiều rất nhiều trong cuộc sống hàng
ngày thường thường gặp đến, tóm lại: không hợp với lòng không yên, không tự
tại, không vui thì là khổ! Anh cho là sinh hoạt hiện tại được rất xứng tâm như
ý, rất vui; Vậy anh có thể giữ đời này kiếp này đều xứng tâm như ý và vui vẻ
không? Muốn lìa khổ được vui, chỉ một niềm tin là tin Phật, một việc làm là làm
thiện, mà chẳng chịu học Phật tu hành thì không ra khỏi luân hồi sáu đường, lìa
không được khổ, chẳng được chơn lạc.
Tu hành là thế nào? Là phải ra khỏi ba
cõi luân hồi sáu đường, lìa khổ được vui thành Phật. Thành Phật, đầu tiên cần
phải biết TIN nhân quả, dứt ác tu thiện, tu thân dưỡng tánh, rõ sanh tử, chuyển
mê khai ngộ. Thế gian là cuộc vô thường, không có sự vật hằng thường bất biến,
đại địa và thân tâm chúng ta, mỗi một phút, mỗi một giây đều ở nơi biến thiên,
ở trong thân tâm bất định biến thiên ảo huyễn này, anh có thể tìm được một cái
CHƠN NGÃ bất biến hằng thường không? Thế giới ta bà là các hành (pháp) vô
thường, tất cả hiện tượng đều là dời đổi biến hóa, sinh diệt từng sát na, mọi
sự mọi vật thiên biến vạn hóa, dơ nhuốc khổ đau, khổ não lớp lớp, gọi là: uế độ
(cõi dơ nhớp).
cõi luân hồi sáu đường, lìa khổ được vui thành Phật. Thành Phật, đầu tiên cần
phải biết TIN nhân quả, dứt ác tu thiện, tu thân dưỡng tánh, rõ sanh tử, chuyển
mê khai ngộ. Thế gian là cuộc vô thường, không có sự vật hằng thường bất biến,
đại địa và thân tâm chúng ta, mỗi một phút, mỗi một giây đều ở nơi biến thiên,
ở trong thân tâm bất định biến thiên ảo huyễn này, anh có thể tìm được một cái
CHƠN NGÃ bất biến hằng thường không? Thế giới ta bà là các hành (pháp) vô
thường, tất cả hiện tượng đều là dời đổi biến hóa, sinh diệt từng sát na, mọi
sự mọi vật thiên biến vạn hóa, dơ nhuốc khổ đau, khổ não lớp lớp, gọi là: uế độ
(cõi dơ nhớp).
Đời người là khổ, khổ của sinh, lão,
bệnh, tử trên nhục thể, trên tinh thần từng loại từng món, khổ nhiều vui ít;
lấy khổ làm vui thành thói quen, cho là bình thường. Người đời phần nhiều lấy
dục lạc của năm căn làm vui, khổ vui do nơi cái nhìn về nhân sinh không đồng ở
mỗi người, đối với sự nhận biết và thứ lớp của bản chất khổ vui, mỗi việc cũng
khác nhau, khổ vui vốn là do sự hỗ tương đối đãi mà an lập. Người đời nhân đó
mà truy cầu sự vui vẻ, nhân vui vẻ mà duyên đến khổ đau; người đời, tóm lại là
một cái vòng trong dòng chảy sinh tử, khổ đau và vui vẻ xen nhau mà thành. Khổ,
là chỗ nhàm bỏ của người đời, nhưng người đời rốt cuộc không khỏi khổ đau rất
nhiều; Vui, là chỗ tìm cầu của người đời, nhưng cái vui mà mọi người tìm cầu,
ngược lại là ít ỏi mà ngắn ngủi tạm bợ như thế, ai chẳng muốn lìa khổ được vui!
Hầu hết con người trên đời cái khổ thì muốn rời xa, cái vui thì muốn được, Phật
dạy chúng ta, rốt ráo có gì chẳng đồng ư? Đây là nguyên ở cái nhìn của nhân
sinh có chỗ không đồng, là cạn cợt và sâu sắc. Người đời cảm thọ khổ và vui
chẳng qua là y cứ trên sự thuận và nghịch của thân tâm, tổn hại hay ích lợi mà
nói thôi. Y cứ theo Phật Đà mà nhìn, khổ mà người đời nói, đổi lại là cái khổ
chân chánh; Nói là vui, ngược lại chưa chắc là thật vui. Thường nghe mọi người
nói “Tôi muốn tìm vui”. Rồi tìm cầu cả một đời, được chăng cũng chỉ bất quá là
dục lạc của năm căn, nhưng ngược lại chút ít ở trong chút ít. Đức Phật đã khẳng
định rằng đời người là khổ, có khổ đương nhiên cần phải xuất ly, lìa khổ thế
gian, cầu vui giải thoát, xa lìa luân hồi ở ba cõi sáu đường, đây là sự nỗ lực
và nhận thức nên có của nhân sinh, cũng là mục đích của Đức Phật xuất hiện ở
thế gian, ở đây lấy việc lìa khổ được vui làm tiền đề của Phật pháp. Chúng ta
chỉ hiểu rằng: Khổ – chơn thật là khổ, Vui – chơn thật là vui, mới có thể sanh
khởi yêu thích và qui hướng chân chánh đối với Phật pháp. Phật pháp là phương
pháp đứng trên căn bản khiến chúng ta có thể dẹp trừ khổ đau, mà thu được khoái
lạc chân thật. Chỉ có tu trì Phật pháp, tin thọ phụng hành, hành trì không gián
đoạn, tự nhiên sẽ đạt được sự đầy đủ và vui vẻ của tâm cảnh.
bệnh, tử trên nhục thể, trên tinh thần từng loại từng món, khổ nhiều vui ít;
lấy khổ làm vui thành thói quen, cho là bình thường. Người đời phần nhiều lấy
dục lạc của năm căn làm vui, khổ vui do nơi cái nhìn về nhân sinh không đồng ở
mỗi người, đối với sự nhận biết và thứ lớp của bản chất khổ vui, mỗi việc cũng
khác nhau, khổ vui vốn là do sự hỗ tương đối đãi mà an lập. Người đời nhân đó
mà truy cầu sự vui vẻ, nhân vui vẻ mà duyên đến khổ đau; người đời, tóm lại là
một cái vòng trong dòng chảy sinh tử, khổ đau và vui vẻ xen nhau mà thành. Khổ,
là chỗ nhàm bỏ của người đời, nhưng người đời rốt cuộc không khỏi khổ đau rất
nhiều; Vui, là chỗ tìm cầu của người đời, nhưng cái vui mà mọi người tìm cầu,
ngược lại là ít ỏi mà ngắn ngủi tạm bợ như thế, ai chẳng muốn lìa khổ được vui!
Hầu hết con người trên đời cái khổ thì muốn rời xa, cái vui thì muốn được, Phật
dạy chúng ta, rốt ráo có gì chẳng đồng ư? Đây là nguyên ở cái nhìn của nhân
sinh có chỗ không đồng, là cạn cợt và sâu sắc. Người đời cảm thọ khổ và vui
chẳng qua là y cứ trên sự thuận và nghịch của thân tâm, tổn hại hay ích lợi mà
nói thôi. Y cứ theo Phật Đà mà nhìn, khổ mà người đời nói, đổi lại là cái khổ
chân chánh; Nói là vui, ngược lại chưa chắc là thật vui. Thường nghe mọi người
nói “Tôi muốn tìm vui”. Rồi tìm cầu cả một đời, được chăng cũng chỉ bất quá là
dục lạc của năm căn, nhưng ngược lại chút ít ở trong chút ít. Đức Phật đã khẳng
định rằng đời người là khổ, có khổ đương nhiên cần phải xuất ly, lìa khổ thế
gian, cầu vui giải thoát, xa lìa luân hồi ở ba cõi sáu đường, đây là sự nỗ lực
và nhận thức nên có của nhân sinh, cũng là mục đích của Đức Phật xuất hiện ở
thế gian, ở đây lấy việc lìa khổ được vui làm tiền đề của Phật pháp. Chúng ta
chỉ hiểu rằng: Khổ – chơn thật là khổ, Vui – chơn thật là vui, mới có thể sanh
khởi yêu thích và qui hướng chân chánh đối với Phật pháp. Phật pháp là phương
pháp đứng trên căn bản khiến chúng ta có thể dẹp trừ khổ đau, mà thu được khoái
lạc chân thật. Chỉ có tu trì Phật pháp, tin thọ phụng hành, hành trì không gián
đoạn, tự nhiên sẽ đạt được sự đầy đủ và vui vẻ của tâm cảnh.
Đời người không có sự nhẹ nhàng và
thoải mái tuyệt đối, cũng không có sự thống khổ và phiền não vĩnh hằng, có lúc
“lạc cực sanh bi, khổ tận cam lai”; người đời nhân nơi khổ mà tìm cầu vui,
ngược lại nhân nơi vui mà duyên đến khổ đau. Đời người gặp gỡ thường xuyên là
vui vẻ ít mà buồn đau thì nhiều, lý do khổ não của đời người cũng vô cùng, vô
tận.
thoải mái tuyệt đối, cũng không có sự thống khổ và phiền não vĩnh hằng, có lúc
“lạc cực sanh bi, khổ tận cam lai”; người đời nhân nơi khổ mà tìm cầu vui,
ngược lại nhân nơi vui mà duyên đến khổ đau. Đời người gặp gỡ thường xuyên là
vui vẻ ít mà buồn đau thì nhiều, lý do khổ não của đời người cũng vô cùng, vô
tận.
Đời người có mấy cái khổ ư? Bao gồm có:
Khổ của việc sanh ra (sanh khổ), khổ của già suy (lão khổ), khổ lúc gặp chết
mất (tử khổ), khổ lúc gặp người mình oán hận (oán tắng hội khổ), khổ lúc cùng
người yêu thương chia rời (ái biệt ly khổ), khổ vì sự vật muốn được ngược lại
không thể đến tay (cầu bất đắc khổ)… Tóm lại, khổ về các loại, các dạng rất
nhiều, chẳng an, chẳng vui vẻ cũng là khổ!
Khổ của việc sanh ra (sanh khổ), khổ của già suy (lão khổ), khổ lúc gặp chết
mất (tử khổ), khổ lúc gặp người mình oán hận (oán tắng hội khổ), khổ lúc cùng
người yêu thương chia rời (ái biệt ly khổ), khổ vì sự vật muốn được ngược lại
không thể đến tay (cầu bất đắc khổ)… Tóm lại, khổ về các loại, các dạng rất
nhiều, chẳng an, chẳng vui vẻ cũng là khổ!
Người đời ở trên con đường đời người
thoạt muôn biến đổi này, khổ bị gặp thật là khó mà tính toán hết. Đây giống như
ăn một con gà kim loại lăn áo đường ở bên ngoài, bên ngoài thì ngọt, bên trong
thì đắng chẳng giống sao? Mà Phật pháp chỉ ra mấy cái khổ này, đều chẳng phải
ai đó đem đến cho chúng ta, mà là tự mình không rõ thị phi, mờ mắt tìm cầu, gom
lấy tham ái thì quả khổ đến.
thoạt muôn biến đổi này, khổ bị gặp thật là khó mà tính toán hết. Đây giống như
ăn một con gà kim loại lăn áo đường ở bên ngoài, bên ngoài thì ngọt, bên trong
thì đắng chẳng giống sao? Mà Phật pháp chỉ ra mấy cái khổ này, đều chẳng phải
ai đó đem đến cho chúng ta, mà là tự mình không rõ thị phi, mờ mắt tìm cầu, gom
lấy tham ái thì quả khổ đến.
Người có trí tuệ, trước khi làm một
việc, tóm lại, phải hiểu rõ trước, vì sao nên làm thế này? Sau khi hiểu rõ, mới
khẳng định sự việc nên làm, tự nhiên ý nghĩ sẽ không ngược lại, bắt tay vào
việc mà không có một chút e dè lo sợ. Đối với mọi người, công việc cứ y trên
đạo đức mà làm, y cứ trên trí tuệ mà xử lý tất cả công việc, tức là HỌC PHẬT.
việc, tóm lại, phải hiểu rõ trước, vì sao nên làm thế này? Sau khi hiểu rõ, mới
khẳng định sự việc nên làm, tự nhiên ý nghĩ sẽ không ngược lại, bắt tay vào
việc mà không có một chút e dè lo sợ. Đối với mọi người, công việc cứ y trên
đạo đức mà làm, y cứ trên trí tuệ mà xử lý tất cả công việc, tức là HỌC PHẬT.
Thái độ này cũng là chỗ chú trọng
củaPhật giáo. Phật giáo yêu cầu tín đồ là: TRÍ TÍN, tức là tín ngưỡng trên lý
trí, không phải là mờ mắt dùng cảm tình mà tín ngưỡng. Lý do, trước khi giảng
nói đạo ly ùcần phải tu hành, cần phải hiểu rõ trước: Vì sao cần phải tu hành?
củaPhật giáo. Phật giáo yêu cầu tín đồ là: TRÍ TÍN, tức là tín ngưỡng trên lý
trí, không phải là mờ mắt dùng cảm tình mà tín ngưỡng. Lý do, trước khi giảng
nói đạo ly ùcần phải tu hành, cần phải hiểu rõ trước: Vì sao cần phải tu hành?
Con người, vì sao cần phải tu hành?
Phật giáo lấy “đời người là khổ” ra nói rõ, ắt cần phải tu hành. Vì sao nhân
sinh là khổ ư? Trong “bốn thánh đế” Phật dạy có sự giải thoát khái lược cần
thiết, tức là đời người có: sanh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, cầu bất đắc
khổ… Tóm lại, trong một đời người đầy đủ các loại dạng khổ!
Phật giáo lấy “đời người là khổ” ra nói rõ, ắt cần phải tu hành. Vì sao nhân
sinh là khổ ư? Trong “bốn thánh đế” Phật dạy có sự giải thoát khái lược cần
thiết, tức là đời người có: sanh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, cầu bất đắc
khổ… Tóm lại, trong một đời người đầy đủ các loại dạng khổ!
Hoặc có người sẽ phản đối, hiện tại ta
đang cảm thọ được rất vui vẻ, sự vui vẻ này vì sao có thể là khổ ư? Kỳ thật
kiến giải của người đời phần nhiều có sai lệch, thậm chí điên đảo; đối với
chúng ta cho là vui, nhưng trong con mắt người có trí tuệ nhìn, tức chính là
khổ! Sau khi vui vẻ qua đi, khổ sẽ đến. Vì vui và khổ nối nhau mà đến, cũng như
ban ngày và ban đêm, sau khi ngày qua đi đêm tối sẽ đến, do dó, đời người là
khổ, xác thật là không thể phủ nhận. Vậy thì như thế nào mà thoát ly được khổ,
đó chính là việc gấp rút trước tiên con người phải làm.
đang cảm thọ được rất vui vẻ, sự vui vẻ này vì sao có thể là khổ ư? Kỳ thật
kiến giải của người đời phần nhiều có sai lệch, thậm chí điên đảo; đối với
chúng ta cho là vui, nhưng trong con mắt người có trí tuệ nhìn, tức chính là
khổ! Sau khi vui vẻ qua đi, khổ sẽ đến. Vì vui và khổ nối nhau mà đến, cũng như
ban ngày và ban đêm, sau khi ngày qua đi đêm tối sẽ đến, do dó, đời người là
khổ, xác thật là không thể phủ nhận. Vậy thì như thế nào mà thoát ly được khổ,
đó chính là việc gấp rút trước tiên con người phải làm.
Khổ cần phải như thế nào mới thoát ly
ư? Đức Phật ở trong bốn thánh đế, dạy rằng KHỔ do TẬP mà có. Tập chính là ý tứ
các món phiền não, hoặc và nghiệp; do nơi nghiệp con người mới có khổ. Nghiệp
tuy là vô hình, nhìn không thấy, rờ không được, ngược lại là chủ tể của nhân
sinh. Sở dĩ cần lìa khổ, quyết cần phải đoạn TẬP. Muốn đoạn tập lại cần phải
không tạo nghiệp, không có nghiệp bèn không có tập.
ư? Đức Phật ở trong bốn thánh đế, dạy rằng KHỔ do TẬP mà có. Tập chính là ý tứ
các món phiền não, hoặc và nghiệp; do nơi nghiệp con người mới có khổ. Nghiệp
tuy là vô hình, nhìn không thấy, rờ không được, ngược lại là chủ tể của nhân
sinh. Sở dĩ cần lìa khổ, quyết cần phải đoạn TẬP. Muốn đoạn tập lại cần phải
không tạo nghiệp, không có nghiệp bèn không có tập.
Như thế Nghiệp là thế nào? Nghiệp là
hành vi của chúng ta, làm nên một cá nhân, thân tâm không thể không có hoạt
động, có hoạt động rồi thì có hành vi, có hành vi rồi thì có nghiệp. Sở dĩ
không tạo nghiệp là không làm ác nghiệp, và chẳng liên quan đến thiện nghiệp
thì không làm. Vì không tạo ác nghiệp, hành thiện là điều tất yếu. Chúng ta hy
vọng hành vi chính mình là hành vi thiện. Tiến đến có thể làm được điều không
tạo ác nghiệp, đối với thiện nghiệp cũng không chấp trước. Như vậy thì có thể
lần lượt thoát ly khổ. Y cứ Phật pháp mà nói: Giải thoát phiền não, trong tâm
thanh tịnh, an tường, tự tại, tinh thần thoải mái, tương lai khả năng thoát
khỏi sinh tử.
hành vi của chúng ta, làm nên một cá nhân, thân tâm không thể không có hoạt
động, có hoạt động rồi thì có hành vi, có hành vi rồi thì có nghiệp. Sở dĩ
không tạo nghiệp là không làm ác nghiệp, và chẳng liên quan đến thiện nghiệp
thì không làm. Vì không tạo ác nghiệp, hành thiện là điều tất yếu. Chúng ta hy
vọng hành vi chính mình là hành vi thiện. Tiến đến có thể làm được điều không
tạo ác nghiệp, đối với thiện nghiệp cũng không chấp trước. Như vậy thì có thể
lần lượt thoát ly khổ. Y cứ Phật pháp mà nói: Giải thoát phiền não, trong tâm
thanh tịnh, an tường, tự tại, tinh thần thoải mái, tương lai khả năng thoát
khỏi sinh tử.
Phật pháp dạy con người cần phải dùng
nhãn quan đạm bạc mà xem tình đời, thì phú quý như khói mây qua nơi mắt, dùng
tâm tri túc để lấy và bỏ muôn vật, tâm thanh tịnh này không bị sự trói buộc của
vật bên ngoài. Đây là dùng tâm tuỳ duyên hành xử với nghịch cảnh. Tâm địa tự
bình ổn thì không bị lụy đối với vật bên ngoài. Lại tiến một bước chí thành tu
hành, thì có thể đạt được niềm vui lớn Niết bàn.
nhãn quan đạm bạc mà xem tình đời, thì phú quý như khói mây qua nơi mắt, dùng
tâm tri túc để lấy và bỏ muôn vật, tâm thanh tịnh này không bị sự trói buộc của
vật bên ngoài. Đây là dùng tâm tuỳ duyên hành xử với nghịch cảnh. Tâm địa tự
bình ổn thì không bị lụy đối với vật bên ngoài. Lại tiến một bước chí thành tu
hành, thì có thể đạt được niềm vui lớn Niết bàn.
Vậy quyết cần phải tu hành! Chỉ cần
nương nơi Phật pháp tu hành, sửa đổi hành vi không tốt đẹp của chúng ta. Trong
hành vi của chúng ta không tạo nhân khổ (ác nghiệp), mà đối với việc thiện lại
không chấp trước, hơn nữa thịên – ác không lập, trong tâm không có nghiệp, tự
tánh hiện tiền, khổ tức thì tiêu mất. Như vậy mới là cứu cánh. Tu hành là mỗi
một người quyết cần theo sự việc mà khởi tưởng lìa khổ được vui. Đây cũng là
chỗ Phật pháp khác thế pháp. Tín ngưỡng Phật giáo, như chẳng tu hành, chỉ trồng
nhân thiện, không phải là pháp được lợi ích cho Phật pháp.
nương nơi Phật pháp tu hành, sửa đổi hành vi không tốt đẹp của chúng ta. Trong
hành vi của chúng ta không tạo nhân khổ (ác nghiệp), mà đối với việc thiện lại
không chấp trước, hơn nữa thịên – ác không lập, trong tâm không có nghiệp, tự
tánh hiện tiền, khổ tức thì tiêu mất. Như vậy mới là cứu cánh. Tu hành là mỗi
một người quyết cần theo sự việc mà khởi tưởng lìa khổ được vui. Đây cũng là
chỗ Phật pháp khác thế pháp. Tín ngưỡng Phật giáo, như chẳng tu hành, chỉ trồng
nhân thiện, không phải là pháp được lợi ích cho Phật pháp.
Lời Phật dạy và sự tu hành là không
phân chia ra được, tu hành là cơ sở của tín ngưỡng, có tín ngưỡng cơ sở mới giữ
gìn được lâu, nếu bỏ đi vấn đề tu hành thì Phật pháp trở thành là bàn suông
thôi.
phân chia ra được, tu hành là cơ sở của tín ngưỡng, có tín ngưỡng cơ sở mới giữ
gìn được lâu, nếu bỏ đi vấn đề tu hành thì Phật pháp trở thành là bàn suông
thôi.
TU HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Xác định tính trọng yếu của vấn đề tu
hành, tiếp theo, thì cần phải xét nét ý nghĩa tu hành, cũng tức là nói: Tu hành
là thế nào?
hành, tiếp theo, thì cần phải xét nét ý nghĩa tu hành, cũng tức là nói: Tu hành
là thế nào?
Trước khi xét nét tu hành, trước tiên
đối với mặt trái của tu hành, đời người là khổ, làm một phen giải thoát, tin
tưởng đối với ý nghĩa của tu hành sẽ có sự hiểu rõ càng lớn, liên đới, cũng sẽ
dễ hiểu rõ thế nào là tu hành rồi.
đối với mặt trái của tu hành, đời người là khổ, làm một phen giải thoát, tin
tưởng đối với ý nghĩa của tu hành sẽ có sự hiểu rõ càng lớn, liên đới, cũng sẽ
dễ hiểu rõ thế nào là tu hành rồi.
Khổ ở nơi nhân sinh, đều chẳng phải
hoàn toàn do trời sinh mới có, mà là sau khi tạo nghiệp mà thành, rồi lớn lên,
do nghiệp cảm báo mà có. Đã vậy, khổ là do chính mình tạo nghiệp bị cảm báo mà
có. Vì sao loài người lệch lạc cần thiết đi tạo các nhân ác, nhóm các nghiệp ác
đến nỗi cảm thọ quả khổ ư? Mỗi cá nhân đều không thích khổ, đã không thích vì
sao lại lệch lạc đi tìm? Mười hai nhân duyên phần lớn dùng để nói nguyên rõ do
và hình thành sinh mệnh của loài người, nhưng cũng có thể dùng để mà giải thích
làm sao biết nguyên nhân tạo nghiệp của con người.
hoàn toàn do trời sinh mới có, mà là sau khi tạo nghiệp mà thành, rồi lớn lên,
do nghiệp cảm báo mà có. Đã vậy, khổ là do chính mình tạo nghiệp bị cảm báo mà
có. Vì sao loài người lệch lạc cần thiết đi tạo các nhân ác, nhóm các nghiệp ác
đến nỗi cảm thọ quả khổ ư? Mỗi cá nhân đều không thích khổ, đã không thích vì
sao lại lệch lạc đi tìm? Mười hai nhân duyên phần lớn dùng để nói nguyên rõ do
và hình thành sinh mệnh của loài người, nhưng cũng có thể dùng để mà giải thích
làm sao biết nguyên nhân tạo nghiệp của con người.
Mười hai nhân duyên là: vô minh, hành,
thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Trong mười hai
chi này lấy “vô minh” làm đầu, nhân vô minh mà vọng có: sanh mạng của chúng
sanh và thế giới vũ trụ, nhân tạo các nghiệp ác, theo nghiệp trôi chảy mà chịu
báo, mới có sáu nẻo luân hồi _ sanh tử tử sanh, trôi nổi nơi ba cõi, vĩnh viễn
không có kỳ hạn.
thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Trong mười hai
chi này lấy “vô minh” làm đầu, nhân vô minh mà vọng có: sanh mạng của chúng
sanh và thế giới vũ trụ, nhân tạo các nghiệp ác, theo nghiệp trôi chảy mà chịu
báo, mới có sáu nẻo luân hồi _ sanh tử tử sanh, trôi nổi nơi ba cõi, vĩnh viễn
không có kỳ hạn.
Vô minh, tức là ý nghĩ không hiểu rõ,
ngằn mé chân chánh của đời người cũng không hiểu rõ, không biết tin nhân quả,
không biết rằng tạo nghiệp ác nhóm gom lại có thể sanh khổ… Nhân nơi vô minh
mà sinh vọng động, cái vọng động này tức là “hành”, kết quả, sau một bước đi
sai, theo nơi tập quán tánh (cũng gọi là “tập khí”) thì từng bước sai lầm. Cho
nên từ “hành”, “thức” cho đến “lão tử”, không món nào chẳng sai lầm. Xưa nay ở
nơi chân tánh, trong đó có “hành”, “thức” vốn không có “sinh”, trong đó có “lão
tử” không?
ngằn mé chân chánh của đời người cũng không hiểu rõ, không biết tin nhân quả,
không biết rằng tạo nghiệp ác nhóm gom lại có thể sanh khổ… Nhân nơi vô minh
mà sinh vọng động, cái vọng động này tức là “hành”, kết quả, sau một bước đi
sai, theo nơi tập quán tánh (cũng gọi là “tập khí”) thì từng bước sai lầm. Cho
nên từ “hành”, “thức” cho đến “lão tử”, không món nào chẳng sai lầm. Xưa nay ở
nơi chân tánh, trong đó có “hành”, “thức” vốn không có “sinh”, trong đó có “lão
tử” không?
Nhân đây, trong mười hai chi không có
món nào chẳng phải là vọng, hành vọng, thức vọng, cho đến lão tử là những món
hư vọng không thật; nhưng con người ngược lại chấp lấy những cái hư vọng lưu
chuyển làm NGÃ, quên mất “chơn ngã”, thật tướng, bất sinh, bất diệt, thường tự
như; Do đây mà có khổ: trong khổ tạo nhân khổ, lấy khổ làm vui, giữ chặt khổ
không bỏ. Đây là nguyên nhân khổ đầy đủ của đời người.
món nào chẳng phải là vọng, hành vọng, thức vọng, cho đến lão tử là những món
hư vọng không thật; nhưng con người ngược lại chấp lấy những cái hư vọng lưu
chuyển làm NGÃ, quên mất “chơn ngã”, thật tướng, bất sinh, bất diệt, thường tự
như; Do đây mà có khổ: trong khổ tạo nhân khổ, lấy khổ làm vui, giữ chặt khổ
không bỏ. Đây là nguyên nhân khổ đầy đủ của đời người.
Truy cứu nguồn cội của khổ là “vô
minh”; vô minh là đầu của họa, cho nên cần phải dứt khổ, thoát khổ, quyết cần
phải đem vô minh mà chặt đứt hoàn toàn, chuyển vô minh làm “linh minh” mới
được.
minh”; vô minh là đầu của họa, cho nên cần phải dứt khổ, thoát khổ, quyết cần
phải đem vô minh mà chặt đứt hoàn toàn, chuyển vô minh làm “linh minh” mới
được.
Như thế phải như thế nào chuyển “vô
minh” làm “linh minh” được? Kỳ thật, vô minh cũng là món hư vọng. Đứng trên bản
thể mà nhìn, cội gốc của vô minh không tồn tại, nhưng đối với chúng sinh mới
hiểu và chưa hiểu mà nói, do ở chỗ chưa lìa khỏi hư vọng, cũng sẽ có sự tồn tại
của vô minh; cũng như trong hư không vốn không có bông hoa, mà cái hoạn do có
người bệnh nhãn hoa, ngược lại, thấy trong hư không đầy tràn bông hoa; ở trước
mắt anh ta, bệnh hoạn hoa chưa tiêu trừ, nói với anh ta trong hư không không có
bông hoa, thì không thể khiến anh ta tin được. Trước tiên cần phải trị bệnh cho
con mắt của anh ta, nhiên hậu bệnh tiêu thì tướng huyễn mới được trừ. Cũng
giống vậy, tất cần phải có phương pháp có khả năng khiến chúng sinh thoát ly hư
vọng, trong tâm không có vọng niệm làm chướng ngại, lại như mây tiêu sương tan,
ánh sáng mặt trời sẽ hiện ra. Linh minh là chơn tâm, từ trước về sau, mới có
thể thấy được gốc của vô minh không tồn tại. Như đây chính là chuyển “vô minh”
làm “linh minh”, hoàn toàn thoát ly khổ.
minh” làm “linh minh” được? Kỳ thật, vô minh cũng là món hư vọng. Đứng trên bản
thể mà nhìn, cội gốc của vô minh không tồn tại, nhưng đối với chúng sinh mới
hiểu và chưa hiểu mà nói, do ở chỗ chưa lìa khỏi hư vọng, cũng sẽ có sự tồn tại
của vô minh; cũng như trong hư không vốn không có bông hoa, mà cái hoạn do có
người bệnh nhãn hoa, ngược lại, thấy trong hư không đầy tràn bông hoa; ở trước
mắt anh ta, bệnh hoạn hoa chưa tiêu trừ, nói với anh ta trong hư không không có
bông hoa, thì không thể khiến anh ta tin được. Trước tiên cần phải trị bệnh cho
con mắt của anh ta, nhiên hậu bệnh tiêu thì tướng huyễn mới được trừ. Cũng
giống vậy, tất cần phải có phương pháp có khả năng khiến chúng sinh thoát ly hư
vọng, trong tâm không có vọng niệm làm chướng ngại, lại như mây tiêu sương tan,
ánh sáng mặt trời sẽ hiện ra. Linh minh là chơn tâm, từ trước về sau, mới có
thể thấy được gốc của vô minh không tồn tại. Như đây chính là chuyển “vô minh”
làm “linh minh”, hoàn toàn thoát ly khổ.
Vậy thì chúng sinh cần phải như thế nào
mới có thể thoát ly hư vọng?
mới có thể thoát ly hư vọng?
Hư vọng từ tâm sinh, tâm vì sao phải hư
vọng? Do ở nơi tâm vô chủ, mất đi sự khống chế, cho nên vọng tưởng lăng xăng.
Xưa nay sản sinh ra vọng tưởng là tác dụng của tâm thể, thì chẳng phải là việc
xấu, vấn đề ở nơi trong tâm vô chủ, không có khả năng tác dụng khống chế, làm
được việc đáng nên dùng thì dùng, đáng nên dừng thì dừng. Ở nơi vọng tưởng hỗn
loạn không thể đình chỉ được, không những chướng ngại mà chúng ta nhận thức đối
với chính mình, mà còn khiến cho tâm mất đi công năng chánh thường. Cũng như
một món đồ chơi điện tử, nó từ trước đến nay lúc đáng nên động thì động, lúc
đáng phát sinh sóng điện từ thì phát sinh sóng điện từ, để chỉ huy thao tác máy
móc của nó; bỗng nhiên khoảng thời gian bị thất thường, chuyển động không dừng,
luôn luôn phát sinh ra sóng điện, không những ảnh hưởng thao tác bình thường
máy móc của anh ta, mà còn khiến cho người làm không hiểu nó là cái gì. Do đó
chẳng thể làm cho nó hoàn toàn đình chỉ được. Ngay lúc hư vọng tiêu trừ, tác
dụng của tâm sau khi đình chỉ, tâm thể lại không bị chướng ngại, lúc đó chúng
ta mới có thể nhận biết nơi tâm.
vọng? Do ở nơi tâm vô chủ, mất đi sự khống chế, cho nên vọng tưởng lăng xăng.
Xưa nay sản sinh ra vọng tưởng là tác dụng của tâm thể, thì chẳng phải là việc
xấu, vấn đề ở nơi trong tâm vô chủ, không có khả năng tác dụng khống chế, làm
được việc đáng nên dùng thì dùng, đáng nên dừng thì dừng. Ở nơi vọng tưởng hỗn
loạn không thể đình chỉ được, không những chướng ngại mà chúng ta nhận thức đối
với chính mình, mà còn khiến cho tâm mất đi công năng chánh thường. Cũng như
một món đồ chơi điện tử, nó từ trước đến nay lúc đáng nên động thì động, lúc
đáng phát sinh sóng điện từ thì phát sinh sóng điện từ, để chỉ huy thao tác máy
móc của nó; bỗng nhiên khoảng thời gian bị thất thường, chuyển động không dừng,
luôn luôn phát sinh ra sóng điện, không những ảnh hưởng thao tác bình thường
máy móc của anh ta, mà còn khiến cho người làm không hiểu nó là cái gì. Do đó
chẳng thể làm cho nó hoàn toàn đình chỉ được. Ngay lúc hư vọng tiêu trừ, tác
dụng của tâm sau khi đình chỉ, tâm thể lại không bị chướng ngại, lúc đó chúng
ta mới có thể nhận biết nơi tâm.
Tâm, là chủ của con người cho đến tất
cả, nhận thức rõ tâm là đời người có chủ. Từ sự nhận thức về tâm, cũng biết
được nguyên nhân tâm mất đi sự mẫu mực ở chỗ nào, ở đó, sau khi đem chỗ mất mẫu
mực điều chỉnh sửa đổi, tâm vẫn vậy, ắt cần phải hồi phục hoạt động và công tác
từ trước. Chỉ là tâm lúc này và từ trước tuy là đồng một cái tâm, ngược lại
cùng với từ trước không đồng; Thiền tông nói: Người khai ngộ không khác người
ngày cũ, nhưng khác hành vi ngày cũ. Tâm lúc này là tâm chánh thường, việc đáng
nên dùng thì dùng, đáng nên dừng thì dừng, hoàn toàn có thể làm chủ. Đối ở việc
tiếp xúc được tất cả, nó đều rõ ràng trong sáng, tuyệt không thể bị dối lừa; nó
biết thế nào nên làm, làm việc đáng làm, hành việc đáng hành, không thể làm sai
lầm, cho nên có thể không khổ, biết sâu xa qua các hoạt động tự chủ.
cả, nhận thức rõ tâm là đời người có chủ. Từ sự nhận thức về tâm, cũng biết
được nguyên nhân tâm mất đi sự mẫu mực ở chỗ nào, ở đó, sau khi đem chỗ mất mẫu
mực điều chỉnh sửa đổi, tâm vẫn vậy, ắt cần phải hồi phục hoạt động và công tác
từ trước. Chỉ là tâm lúc này và từ trước tuy là đồng một cái tâm, ngược lại
cùng với từ trước không đồng; Thiền tông nói: Người khai ngộ không khác người
ngày cũ, nhưng khác hành vi ngày cũ. Tâm lúc này là tâm chánh thường, việc đáng
nên dùng thì dùng, đáng nên dừng thì dừng, hoàn toàn có thể làm chủ. Đối ở việc
tiếp xúc được tất cả, nó đều rõ ràng trong sáng, tuyệt không thể bị dối lừa; nó
biết thế nào nên làm, làm việc đáng làm, hành việc đáng hành, không thể làm sai
lầm, cho nên có thể không khổ, biết sâu xa qua các hoạt động tự chủ.
Do đó tiêu trừ tưởng niệm hư vọng trong
tâm, bèn là chuyển “vô minh” làm “linh minh”, giai đoạn lìa khổ được vui chắc
chắc trải qua.
tâm, bèn là chuyển “vô minh” làm “linh minh”, giai đoạn lìa khổ được vui chắc
chắc trải qua.
Như thế, vọng niệm trong tâm có phương
pháp gì tiêu trừ? Thế này cần phải dùng phương pháp tu trì rồi, tức là trì tụng
một pháp ở trong tâm không gián đoạn, thí như: kinh giáo, tham thiền, chỉ quán,
quán tưởng, trì chú, niệm Phật,… Lấy nhất niệm thống suất vạn niệm, khiến cho
số đông vọng niệm quy về ở nơi “nhất vọng niệm”, nhiên hậu, đem một vọng niệm
này cũng xả đi, như vậy, trong tâm lại hoàn toàn thoát ly hư vọng. Chỉ là ý
nghĩ và việc làm thuần lương, thiện căn sâu dày, ý chí kiên cường có thể không
khó; nhưng đối với con người đại đa số mà nói thì không phải là dễ như thế đâu.
pháp gì tiêu trừ? Thế này cần phải dùng phương pháp tu trì rồi, tức là trì tụng
một pháp ở trong tâm không gián đoạn, thí như: kinh giáo, tham thiền, chỉ quán,
quán tưởng, trì chú, niệm Phật,… Lấy nhất niệm thống suất vạn niệm, khiến cho
số đông vọng niệm quy về ở nơi “nhất vọng niệm”, nhiên hậu, đem một vọng niệm
này cũng xả đi, như vậy, trong tâm lại hoàn toàn thoát ly hư vọng. Chỉ là ý
nghĩ và việc làm thuần lương, thiện căn sâu dày, ý chí kiên cường có thể không
khó; nhưng đối với con người đại đa số mà nói thì không phải là dễ như thế đâu.
Xưa nay hư vọng tức là chẳng thật có,
vì sao sẽ trừ không được? Đây lại là vấn đề của tập khí. Nhiều năm cho đến
nhiều đời trở lại, đều là tập quán đối với tâm mà sinh ra niệm tưởng hư vọng;
chính như một con chó hoang lưu lạc, một lúc nào đó bắt về nuôi dưỡng ở trong
nhà, nó làm sao có được thói quen? Trừ phi chủ nhân là người có năng lực thuần
phục cực lớn, có thể chế phục tánh hoang của con chó. Tu hành cũng là như vậy,
đầu mối ở tại phách lực của hành giả, có thể nhất thời khắc phục được tập khí,
lại có thể đốn ngộ thành tựu, chẳng vậy thì duy có tu lần hồi (tiệm tu) thôi.
Tất cần phải biết phối hợp giữa sinh hoạt thường ngày và công tác tu hành, hết
một thời gian dài, từng bước từng bước bỏ đi tập khí cải chánh lỗi lầm, đợi gồm
các hành vi được thuần nhất, tu trì mới dễ thành tựu. Đem tính toán nhất thời
không thể thành tựu; nhưng đối với việc không tái tạo nghiệp, lại không tái cảm
thọ quả khổ, đời người cũng sẽ an lạc rất nhiều rồi.
vì sao sẽ trừ không được? Đây lại là vấn đề của tập khí. Nhiều năm cho đến
nhiều đời trở lại, đều là tập quán đối với tâm mà sinh ra niệm tưởng hư vọng;
chính như một con chó hoang lưu lạc, một lúc nào đó bắt về nuôi dưỡng ở trong
nhà, nó làm sao có được thói quen? Trừ phi chủ nhân là người có năng lực thuần
phục cực lớn, có thể chế phục tánh hoang của con chó. Tu hành cũng là như vậy,
đầu mối ở tại phách lực của hành giả, có thể nhất thời khắc phục được tập khí,
lại có thể đốn ngộ thành tựu, chẳng vậy thì duy có tu lần hồi (tiệm tu) thôi.
Tất cần phải biết phối hợp giữa sinh hoạt thường ngày và công tác tu hành, hết
một thời gian dài, từng bước từng bước bỏ đi tập khí cải chánh lỗi lầm, đợi gồm
các hành vi được thuần nhất, tu trì mới dễ thành tựu. Đem tính toán nhất thời
không thể thành tựu; nhưng đối với việc không tái tạo nghiệp, lại không tái cảm
thọ quả khổ, đời người cũng sẽ an lạc rất nhiều rồi.
Như thế tu hành là thế nào? Tu thế nào?
Đem hai chữ tu hành chẻ ra mà nói: Tu tức là ý nghĩ sửa đổi. Hành tức là hành
vi của chúng ta. Hành vi này bao quát có: hữu hình và vô hình; cũng tức là ba
nghiệp: thân, khẩu, ý. Tu hành lại là tu chánh lại hành vi hư hoại của thân,
khẩu, ý chúng ta.
Đem hai chữ tu hành chẻ ra mà nói: Tu tức là ý nghĩ sửa đổi. Hành tức là hành
vi của chúng ta. Hành vi này bao quát có: hữu hình và vô hình; cũng tức là ba
nghiệp: thân, khẩu, ý. Tu hành lại là tu chánh lại hành vi hư hoại của thân,
khẩu, ý chúng ta.
Hành vi của thân, khẩu, ý sao cần cải
chánh? Vì hành vi của con người, có vài lúc làm tổn thương và hại người khác
hoặc sinh linh khác, trong vô hình cũng tổn hại chính mình, khiến tự mình và
người khác đều cảm thọ thống khổ. Những hành vi này tức là ác nghiệp.
chánh? Vì hành vi của con người, có vài lúc làm tổn thương và hại người khác
hoặc sinh linh khác, trong vô hình cũng tổn hại chính mình, khiến tự mình và
người khác đều cảm thọ thống khổ. Những hành vi này tức là ác nghiệp.
Ngay trong hành vi của thân, khẩu, ý
con người, những cái đó thuộc ở nơi ác ư?
con người, những cái đó thuộc ở nơi ác ư?
Phương diện thân nghiệp có: giết, đánh,
tịch thu, ăn cắp và tà dâm.
tịch thu, ăn cắp và tà dâm.
Phương diện khẩu nghiệp có: nói láo,
nói hai chiều, nói ác, nói chiều uốn…
nói hai chiều, nói ác, nói chiều uốn…
Phương diện ý nghiệp: tóm lại nhiều
rồi. Duy thức học phân tích tâm niệm của chúng ta đem ra đại để chính yếu quy
nạp làm ba mươi bảy món, trong khi đó THIỆN chỉ có mười một món; ngược lại ÁC
có tới hai mươi sáu món, cũng tức là đem: tham, sân, si làm đầu; sau đó là mạn,
nghi, ác kiến, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán
loạn, bất chánh tri, vô tàm, vô quý, phẫn nộ, oán hận, phú tàng, ác nghiệp, não
loạn, tật đố, gian lận, hư cuống, siểm mị, hại, kiêu. Như nếu lại đem chẻ chiết
nhỏ nhặt ra nữa, thì lại càng nhiều. Tóm lại nói đó, phàm là hành vi làm tổn
thương hại đến chúng sinh thì là ác, quyết cần phải hơn thế nữa để tu chánh.
rồi. Duy thức học phân tích tâm niệm của chúng ta đem ra đại để chính yếu quy
nạp làm ba mươi bảy món, trong khi đó THIỆN chỉ có mười một món; ngược lại ÁC
có tới hai mươi sáu món, cũng tức là đem: tham, sân, si làm đầu; sau đó là mạn,
nghi, ác kiến, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán
loạn, bất chánh tri, vô tàm, vô quý, phẫn nộ, oán hận, phú tàng, ác nghiệp, não
loạn, tật đố, gian lận, hư cuống, siểm mị, hại, kiêu. Như nếu lại đem chẻ chiết
nhỏ nhặt ra nữa, thì lại càng nhiều. Tóm lại nói đó, phàm là hành vi làm tổn
thương hại đến chúng sinh thì là ác, quyết cần phải hơn thế nữa để tu chánh.
Có thể tu được thân, khẩu, ý nghiệp đều
không ác, tự nhiên thân tâm thanh tiïnh an lạc, tình huống ở thân tâm yên ổn
rồi, vọng niệm lại ít hơn. Nếu như có thể tiến đến mà niệm niệm ở nơi thiện,
thân hành ở nơi thiện, miệng nói ở nơi thiện, ý tưởng ở nơi thiện, thì là từ
“tu hành” tiến đến “tu trì” rồi. Do đã đem các món tập khí bất lương cải chánh
lỗi lầm rồi, tâm đã thuần nhất, chướng ngại cũng đã giảm thiểu hoặc tiêu trừ,
lại thêm niệm chẳng gián đoạn danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”, vọng tưởng tạp
niệm giảm thiểu hoặc tiêu trừ, tình đời xem đã rõ, muôn duyên thế tục buông đi,
việc vãng sanh thế giơÙi Cực lạc ở Tây Phương thì nắm chắc.
không ác, tự nhiên thân tâm thanh tiïnh an lạc, tình huống ở thân tâm yên ổn
rồi, vọng niệm lại ít hơn. Nếu như có thể tiến đến mà niệm niệm ở nơi thiện,
thân hành ở nơi thiện, miệng nói ở nơi thiện, ý tưởng ở nơi thiện, thì là từ
“tu hành” tiến đến “tu trì” rồi. Do đã đem các món tập khí bất lương cải chánh
lỗi lầm rồi, tâm đã thuần nhất, chướng ngại cũng đã giảm thiểu hoặc tiêu trừ,
lại thêm niệm chẳng gián đoạn danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”, vọng tưởng tạp
niệm giảm thiểu hoặc tiêu trừ, tình đời xem đã rõ, muôn duyên thế tục buông đi,
việc vãng sanh thế giơÙi Cực lạc ở Tây Phương thì nắm chắc.
CHỖ TỐT ĐẸP CỦA PHÁP MÔN TRÌ DANH NIỆM
PHẬT
PHẬT
Thứ nhất, rõ được sanh tử, ra khỏi luân
hồi sáu nẻo, vãng sinh Cực Lạc thế giới, lìa khổ được vui – chơn lạc – thành
Phật.
hồi sáu nẻo, vãng sinh Cực Lạc thế giới, lìa khổ được vui – chơn lạc – thành
Phật.
Thứ hai, lúc người đời chết, chết bị
đau đớn khổ sở, hay chết không đau đớn khổ sở, muôn nghìn người khó được một
người, càng không thể nói đứng hoặc ngồi chết được, có thể đến lúc mệnh chung
biết trước giờ chết càng không thể được.
đau đớn khổ sở, hay chết không đau đớn khổ sở, muôn nghìn người khó được một
người, càng không thể nói đứng hoặc ngồi chết được, có thể đến lúc mệnh chung
biết trước giờ chết càng không thể được.
Niệm Phật tu hành đến lúc mệnh chung,
thân không bệnh khổ, biết trước giờ chết, chánh niệm hiện tiền, tâm không điên
đảo, đang đứng hoặc đang ngồi mà niệm Phật vãng sinh về thế giới Cực lạc; nếu
công phu niệm Phật sâu, thì ở hiện đời được nhất tâm bất lọan, căn lành sâu
dày, lại có thể thân chứng niệm Phật tam muội (chứng ngộ).
thân không bệnh khổ, biết trước giờ chết, chánh niệm hiện tiền, tâm không điên
đảo, đang đứng hoặc đang ngồi mà niệm Phật vãng sinh về thế giới Cực lạc; nếu
công phu niệm Phật sâu, thì ở hiện đời được nhất tâm bất lọan, căn lành sâu
dày, lại có thể thân chứng niệm Phật tam muội (chứng ngộ).
Thứ ba, trên sinh hoạt tinh thần có chỗ
ký thác: “tin Phật”; có lý tuởng: “thành Phật”. Sống đuơc vui vẻ, tự tại.
ký thác: “tin Phật”; có lý tuởng: “thành Phật”. Sống đuơc vui vẻ, tự tại.
Thứ tư, biết tin nhân quả (thiện có
thiện báo, ác có ác báo), rõ thị phi, dừng ác tu thiện, thiểu dục tri túc, cuộc
sống yên ổn đạm bạc giản dị, tâm cảnh khai mở, nhìn rõ tình đời, muôn duyên thế
tục buông đi, công tác hiểu rõ nợ nần mà dốt hết bổn phận, không ưa cao chạy
xa, công việc được thì thoải mái, trân trọng nghề, vui với tập thể, giữ bổn
phận, giao tế với người quan hệ hài hòa, ngước lên không thẹn với trời, cuối
xuống không tủi với đất, phần lớn giảm nhẹ đi những việc nhọc sức trên xã hội,
gia đình và công việc, tự nhiên được yên ổn, tốt đẹp, tự tại, vui sướng, nhìn
các việc đều thoải mái thích hợp thuận mắt.
thiện báo, ác có ác báo), rõ thị phi, dừng ác tu thiện, thiểu dục tri túc, cuộc
sống yên ổn đạm bạc giản dị, tâm cảnh khai mở, nhìn rõ tình đời, muôn duyên thế
tục buông đi, công tác hiểu rõ nợ nần mà dốt hết bổn phận, không ưa cao chạy
xa, công việc được thì thoải mái, trân trọng nghề, vui với tập thể, giữ bổn
phận, giao tế với người quan hệ hài hòa, ngước lên không thẹn với trời, cuối
xuống không tủi với đất, phần lớn giảm nhẹ đi những việc nhọc sức trên xã hội,
gia đình và công việc, tự nhiên được yên ổn, tốt đẹp, tự tại, vui sướng, nhìn
các việc đều thoải mái thích hợp thuận mắt.
Thứ năm, nương giáo lý của Đức Phật mà
chiếu xét tư tưởng và hành vi của chính mình, như có cái gì bất chánh thì đưa
vào chỗ chánh, không nề nếp thì đưa vào nề nếp, tu dưỡng ở nơi thân tâm chính
mình, rất có bổ ích, là triết học nhu yếu của xử thế; đối với chân tướng của
nhân sinh có chỗ nhận thức, có nhận thức ắt có chỗ chứa nuôi, có chứa nuôi ắt
không gấp rút ồn ào, không biến động giận dữ, tâm tình tốt; khi gặp vấn đề khó
khăn ngay trước mặt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu về hoàn cảnh, thiếu
sót hạn chế của xã hội hiện thực, việc con người phiền não xấu xa, các việc đều
có thể mở dắt từ “thánh trí”, điều chỉnh tâm cảnh bất bình chính mình, trong
tâm bình hòa, bình thuận, bình tĩnh, bình đạm. Tình tự không thể theo sự vui
giận mà chìm nổi, xem phú quý như khói mây qua mắt, lấy tâm tri túc để thủ xả
muôn vật. Không vọng cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, không bị sự trói
buộc của vật bên ngoài, tâm an lý được, tùy duyên qua ngày, cuộc sống sẽ được
hạnh phúc vui vẻ.
chiếu xét tư tưởng và hành vi của chính mình, như có cái gì bất chánh thì đưa
vào chỗ chánh, không nề nếp thì đưa vào nề nếp, tu dưỡng ở nơi thân tâm chính
mình, rất có bổ ích, là triết học nhu yếu của xử thế; đối với chân tướng của
nhân sinh có chỗ nhận thức, có nhận thức ắt có chỗ chứa nuôi, có chứa nuôi ắt
không gấp rút ồn ào, không biến động giận dữ, tâm tình tốt; khi gặp vấn đề khó
khăn ngay trước mặt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu về hoàn cảnh, thiếu
sót hạn chế của xã hội hiện thực, việc con người phiền não xấu xa, các việc đều
có thể mở dắt từ “thánh trí”, điều chỉnh tâm cảnh bất bình chính mình, trong
tâm bình hòa, bình thuận, bình tĩnh, bình đạm. Tình tự không thể theo sự vui
giận mà chìm nổi, xem phú quý như khói mây qua mắt, lấy tâm tri túc để thủ xả
muôn vật. Không vọng cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, không bị sự trói
buộc của vật bên ngoài, tâm an lý được, tùy duyên qua ngày, cuộc sống sẽ được
hạnh phúc vui vẻ.
GIẢI THÍCH NGHI NGỜ
A. PHẬT GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ MÊ TÍN
Nói “mê tín” là tự mình chưa xét qua
hiểu rõ ràng thì đã chạy theo và nói pháp cho người khác, tin một cách mù
quáng. Bất kỳ giáo pháp nào, không có chỗ gọi là mê tín hay chẳng mê tín. Mê
tín hay không là thái độ tín ngưỡng của anh. Nếu như anh đã thâm nhập và hiểu
rõ, trải qua sự quan sát và suy nghĩ, cho là giáo pháp đó không có sai lầm và
quan niệm của anh ăn khớp nhau, mà sản sinh tín ngưỡng, đó lại là tín ngưỡng
của lý trí. Nếu như chưa rõ hiểu, chỉ nghe người khác nói là rất tốt, hoặc giả
nương nơi truyền thống của gia tộc mà tín ngưỡng theo, sau khi tín ngưỡng còn
chưa thâm nhập hiểu rõ, chỉ thuần túy ngay trên việc làm là “tín ngưỡng”, như
thế tức là giáo pháp bị tín ngưỡng khiến anh có nhiều tốt đẹp, bản thân của anh
cũng là mê tín. Nếu như anh không hiểu rõ Phật giáo, chỉ nghe người khác nói
Phật giáo là mê tín, hoặc nhìn thấy một vài nghi thức biểu tượng của Phật giáo,
mà chưa trải qua sự thâm nhập rõ hiểu ở nghĩa lý, thì đã bình đoán Phật giáo là
mê tín, như thế thật anh mới là mê tín, rồi nói pháp mê tín cho người khác,
thành kiến chấp mê tín chính mình.
hiểu rõ ràng thì đã chạy theo và nói pháp cho người khác, tin một cách mù
quáng. Bất kỳ giáo pháp nào, không có chỗ gọi là mê tín hay chẳng mê tín. Mê
tín hay không là thái độ tín ngưỡng của anh. Nếu như anh đã thâm nhập và hiểu
rõ, trải qua sự quan sát và suy nghĩ, cho là giáo pháp đó không có sai lầm và
quan niệm của anh ăn khớp nhau, mà sản sinh tín ngưỡng, đó lại là tín ngưỡng
của lý trí. Nếu như chưa rõ hiểu, chỉ nghe người khác nói là rất tốt, hoặc giả
nương nơi truyền thống của gia tộc mà tín ngưỡng theo, sau khi tín ngưỡng còn
chưa thâm nhập hiểu rõ, chỉ thuần túy ngay trên việc làm là “tín ngưỡng”, như
thế tức là giáo pháp bị tín ngưỡng khiến anh có nhiều tốt đẹp, bản thân của anh
cũng là mê tín. Nếu như anh không hiểu rõ Phật giáo, chỉ nghe người khác nói
Phật giáo là mê tín, hoặc nhìn thấy một vài nghi thức biểu tượng của Phật giáo,
mà chưa trải qua sự thâm nhập rõ hiểu ở nghĩa lý, thì đã bình đoán Phật giáo là
mê tín, như thế thật anh mới là mê tín, rồi nói pháp mê tín cho người khác,
thành kiến chấp mê tín chính mình.
Phật giáo từ chỗ không thể đồng với
người mê tín, trái lại, khuyến khích con người hoài nghi, đều đem việc hoài
nghi đề xuất ra để mà thảo luận. Duy có biết hoài nghi, mới có thể nhận chân để
bàn xét mà có được đáp án, như đây mới có thể sản sinh ra tín tâm chân chính.
Trên sự thật, không có bất kỳ tôn giáo nào như là Phật giáo chịu cho con người
hoài nghi kiểu này, khai phóng kiểu này và không mê tín kiểu này.
người mê tín, trái lại, khuyến khích con người hoài nghi, đều đem việc hoài
nghi đề xuất ra để mà thảo luận. Duy có biết hoài nghi, mới có thể nhận chân để
bàn xét mà có được đáp án, như đây mới có thể sản sinh ra tín tâm chân chính.
Trên sự thật, không có bất kỳ tôn giáo nào như là Phật giáo chịu cho con người
hoài nghi kiểu này, khai phóng kiểu này và không mê tín kiểu này.
B. PHẬT GIÁO KHÔNG ĐỒNG VỚI SỰ THẦN KỲ
CỦA TRỜI ĐẤT
CỦA TRỜI ĐẤT
Kẻ sĩ trong xã hội đối với Phật giáo
hiểu lầm rất là sâu nặng, chẳng qua ở nơi hai chữ “mê tín”, phần nhiều con
người chịu ảnh hưởng qua “tân giáo dục” mà đối với Phật giáo không có chỗ hiểu
rõ; lúc bàn đến vấn đề tín ngưỡng, quan niệm thứ nhất nhận xét là: “đây là cử
động mê tín”. Trên sự thật, đều chẳng phải là Phật giáo mê tín, mà là bị kẻ sĩ
có ý và người truyền đạo ngoại đạo, vì sự tiến bộ và khoa học của tôn giáo
mình, vì là tự thân đánh giá, chẳng tiếc lời cố ý vu báng miệt thị, điên đảo
trắng đen, đối với Phật giáo thêm lên cái mũ: lạc bầy, tiêu cực, mê tín… và
một bộ phận tín đồ ngoại giáo, cho rằng “mặt trăng là vòng tròn của nước
ngoài”, đã vậy, Mục sư và Thần phụ đều nói Phật giáo lạc bầy mê tín, nghĩ rằng Phật
giáo đại khái là tôn giáo lạc bầy mê tín, rồi đem bao nhiêu là sự tình mê tín
thêm vào ở mặt trong của Phật giáo, mới khiến cho Phật giáo bị trùm lên một lớp
sắc thái mê tín. Riêng Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, nhẫn nhục
làm hành động, mặc dù giới bên ngoài nói như thế nào, tín đồ Phật giáo đã không
biện bác, cũng không giải thích. Đây cũng khiến cho trên xã hội hiểu lầm đối
với Phật giáo càng lúc càng sâu.
hiểu lầm rất là sâu nặng, chẳng qua ở nơi hai chữ “mê tín”, phần nhiều con
người chịu ảnh hưởng qua “tân giáo dục” mà đối với Phật giáo không có chỗ hiểu
rõ; lúc bàn đến vấn đề tín ngưỡng, quan niệm thứ nhất nhận xét là: “đây là cử
động mê tín”. Trên sự thật, đều chẳng phải là Phật giáo mê tín, mà là bị kẻ sĩ
có ý và người truyền đạo ngoại đạo, vì sự tiến bộ và khoa học của tôn giáo
mình, vì là tự thân đánh giá, chẳng tiếc lời cố ý vu báng miệt thị, điên đảo
trắng đen, đối với Phật giáo thêm lên cái mũ: lạc bầy, tiêu cực, mê tín… và
một bộ phận tín đồ ngoại giáo, cho rằng “mặt trăng là vòng tròn của nước
ngoài”, đã vậy, Mục sư và Thần phụ đều nói Phật giáo lạc bầy mê tín, nghĩ rằng Phật
giáo đại khái là tôn giáo lạc bầy mê tín, rồi đem bao nhiêu là sự tình mê tín
thêm vào ở mặt trong của Phật giáo, mới khiến cho Phật giáo bị trùm lên một lớp
sắc thái mê tín. Riêng Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, nhẫn nhục
làm hành động, mặc dù giới bên ngoài nói như thế nào, tín đồ Phật giáo đã không
biện bác, cũng không giải thích. Đây cũng khiến cho trên xã hội hiểu lầm đối
với Phật giáo càng lúc càng sâu.
Vấn đề rất dễ cùng với Phật giáo lộn
xộn không trong sáng đó là “thần kỳ”. Thần kỳ trong dân tộc ở các nước trên thế
giới đều có lịch sử sâu xa, nước chúng ta cũng không ngoại lệ. Nguyên lai nhân
loại cổ đại, hiểu biết chưa mở mang, đối với các món hiện tượng của cõi tự
nhiên, cảm được thần kỳ chẳng trắc trở. Cho là ắt phải có một loại Thần oai lực
không thể so sánh hiện đang thao túng khống chế, nhơn đó thì do sợ sệt mà cầu
đảo lạy lục. Họ cho là sự sống, chết, thọ, yểu của con người, họa phước tai
hoạn, chẳng việc gì chẳng do Thần kỳ nắm lấy. Những Thần kỳ này, cung kính cầu
đảo đó thì được phước, nghịch lại hay xúc phạm đó thì bị họa; người đời vì cầu
phước diệt họa, do đó lấy lễ “tam sanh” mà cúng tế Thần kỳ, hiến thì dùng giấy
tiền vàng bạc, để rộng lấy được tâm vui của Thần kỳ. Xuống đến đời sau, thần
càng lúc càng nhiều. Một nhà trong nông dân Thần kỳ được kính phụng có: hoàng
thiên, thổ địa, môn thần, táo thần,… đều ở trên nhà chiếm chỗ một ghế. Kiểu
này trở xuống khiến trong đời người bao nhiêu trong thiên hạ thành Thần kỳ.
xộn không trong sáng đó là “thần kỳ”. Thần kỳ trong dân tộc ở các nước trên thế
giới đều có lịch sử sâu xa, nước chúng ta cũng không ngoại lệ. Nguyên lai nhân
loại cổ đại, hiểu biết chưa mở mang, đối với các món hiện tượng của cõi tự
nhiên, cảm được thần kỳ chẳng trắc trở. Cho là ắt phải có một loại Thần oai lực
không thể so sánh hiện đang thao túng khống chế, nhơn đó thì do sợ sệt mà cầu
đảo lạy lục. Họ cho là sự sống, chết, thọ, yểu của con người, họa phước tai
hoạn, chẳng việc gì chẳng do Thần kỳ nắm lấy. Những Thần kỳ này, cung kính cầu
đảo đó thì được phước, nghịch lại hay xúc phạm đó thì bị họa; người đời vì cầu
phước diệt họa, do đó lấy lễ “tam sanh” mà cúng tế Thần kỳ, hiến thì dùng giấy
tiền vàng bạc, để rộng lấy được tâm vui của Thần kỳ. Xuống đến đời sau, thần
càng lúc càng nhiều. Một nhà trong nông dân Thần kỳ được kính phụng có: hoàng
thiên, thổ địa, môn thần, táo thần,… đều ở trên nhà chiếm chỗ một ghế. Kiểu
này trở xuống khiến trong đời người bao nhiêu trong thiên hạ thành Thần kỳ.
Mục đích của việc kính phụng Thần kỳ,
mặt tiêu cực là cầu khỏi họa, mặt tích cực là cầu ban phước… trở xuống, người
mê của thì cầu bằng chứng khen ngợi trong sự bảo hộ giúp đỡ của thần, như phát
hoạnh tài, không nhọc sức mà được; người mê quan chức cầu giúp đỡ của thần được
thăng liền ba cấp, lại có phần tử chẳng có phép tắc cầu sự giúp đỡ của thần để
được bình an không xảy ra sự cố. Những người này chẳng trồng nhân thiện, mà
vọng cầu quả thiện, thần nếu có linh, lại có thể nào theo chỗ ham muốn của con
người cho lấy cho cầu ư?
mặt tiêu cực là cầu khỏi họa, mặt tích cực là cầu ban phước… trở xuống, người
mê của thì cầu bằng chứng khen ngợi trong sự bảo hộ giúp đỡ của thần, như phát
hoạnh tài, không nhọc sức mà được; người mê quan chức cầu giúp đỡ của thần được
thăng liền ba cấp, lại có phần tử chẳng có phép tắc cầu sự giúp đỡ của thần để
được bình an không xảy ra sự cố. Những người này chẳng trồng nhân thiện, mà
vọng cầu quả thiện, thần nếu có linh, lại có thể nào theo chỗ ham muốn của con
người cho lấy cho cầu ư?
Cần biết muôn hình tượng trong vũ trụ,
mỗi cái đều có nhân quả của nó. Muốn cầu ngũ cốc được mùa, cần phải ra công
canh tác. Muốn cầu nhân khẩu bình an không bệnh hoạn, cần phải cẩn thận ăn uống
vệ sinh. Trong những bằng chứng khen ngợi của thần linh thì “hoặc nhiên” có thể
trúng, mà chẳng phải “quyết nhiên” phải trúng; cầu thăng quan cần phải lấy
trung. Cầu làm nhân, để đợi duyên cơ gặp gỡ; kẻ chẳng có phép tắc, hễ làm là
việc phạm pháp, thì làm sao chẳng có việc phát ra ở cửa đông. Chẳng phải cầu
thần là có thể đạt được mục đích.
mỗi cái đều có nhân quả của nó. Muốn cầu ngũ cốc được mùa, cần phải ra công
canh tác. Muốn cầu nhân khẩu bình an không bệnh hoạn, cần phải cẩn thận ăn uống
vệ sinh. Trong những bằng chứng khen ngợi của thần linh thì “hoặc nhiên” có thể
trúng, mà chẳng phải “quyết nhiên” phải trúng; cầu thăng quan cần phải lấy
trung. Cầu làm nhân, để đợi duyên cơ gặp gỡ; kẻ chẳng có phép tắc, hễ làm là
việc phạm pháp, thì làm sao chẳng có việc phát ra ở cửa đông. Chẳng phải cầu
thần là có thể đạt được mục đích.
Luận ngữ nói rằng: “Thông minh chánh
trực chi vị thần”. Người thông minh chánh trực hãy còn không chấp nhận đối với
kẻ tiểu nhân dối trá siểm mị giả dùng sắc thái, huống đâu có thần nào có thể
tham đồ tam sanh tế phẩm mà làm cho nhân gian điên đảo thị phi ư? Người đời
không rõ lý nhân quả mà vọng cầu không nhân mà được quả, thật là ngu si tột
cùng. hành động ngu si này tức là mê tín. Bất hạnh cho kẻ sĩ trên xã hội lầm
đem ngòi bút này đoán tính đến Phật giáo, thậm chí có người đem đồng cốt, tướng
sao, xem phong thủy, lựa ngày tốt, những việc làm này hoàn toàn cùng với Phật
giáo phải được kéo rời ra; Đây chính là giải thích sự gặp gỡ lầm lạc không
trong sáng.
trực chi vị thần”. Người thông minh chánh trực hãy còn không chấp nhận đối với
kẻ tiểu nhân dối trá siểm mị giả dùng sắc thái, huống đâu có thần nào có thể
tham đồ tam sanh tế phẩm mà làm cho nhân gian điên đảo thị phi ư? Người đời
không rõ lý nhân quả mà vọng cầu không nhân mà được quả, thật là ngu si tột
cùng. hành động ngu si này tức là mê tín. Bất hạnh cho kẻ sĩ trên xã hội lầm
đem ngòi bút này đoán tính đến Phật giáo, thậm chí có người đem đồng cốt, tướng
sao, xem phong thủy, lựa ngày tốt, những việc làm này hoàn toàn cùng với Phật
giáo phải được kéo rời ra; Đây chính là giải thích sự gặp gỡ lầm lạc không
trong sáng.
Phật giáo không đồng với thần đạo, chỗ
tin và phụng thờ của Phật giáo là: PHẬT. Phật nghĩa là người giác ngộ; người mà
tự mình giác ngộ và giác ngộ cho người khác, giác hạnh tròn đầy gọi là Phật.
Thứ đến quả vị của Phật là Bồ tát; Bồ tát nghĩa là “giác hữu tình”, là giác ngộ
cho tất cả chúng sinh hữu tình. Bồ tát là trên cầu pháp Đại giác, dưới độ tất
cả hữu tình. Bồ tát tu thành công đức tròn đầy, cũng tức là Phật. Trong chùa
viện hoặc ở gia đình ở nước ta chỗ kính thờ là Phật, có: Đức Phật là giáo chủ
Thích Ca Mâu Ni, có Đức Phật là Đức A Di Đà ở tây phương Cực Lạc thế giới… Bồ
tát kính thờ có: Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát
Đại Thế Chí, Bồ tát Địa tạng… Ngoài ra đây, cung nào, cảnh nào mà chỗ kính
thờ là: thiên đế, đại đế, thiên hậu, nương nương cho đến tiên cô, chân nhân…
có thể nói cùng với Phật giáo hoàn toàn tách rời không có quan hệ.
tin và phụng thờ của Phật giáo là: PHẬT. Phật nghĩa là người giác ngộ; người mà
tự mình giác ngộ và giác ngộ cho người khác, giác hạnh tròn đầy gọi là Phật.
Thứ đến quả vị của Phật là Bồ tát; Bồ tát nghĩa là “giác hữu tình”, là giác ngộ
cho tất cả chúng sinh hữu tình. Bồ tát là trên cầu pháp Đại giác, dưới độ tất
cả hữu tình. Bồ tát tu thành công đức tròn đầy, cũng tức là Phật. Trong chùa
viện hoặc ở gia đình ở nước ta chỗ kính thờ là Phật, có: Đức Phật là giáo chủ
Thích Ca Mâu Ni, có Đức Phật là Đức A Di Đà ở tây phương Cực Lạc thế giới… Bồ
tát kính thờ có: Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát
Đại Thế Chí, Bồ tát Địa tạng… Ngoài ra đây, cung nào, cảnh nào mà chỗ kính
thờ là: thiên đế, đại đế, thiên hậu, nương nương cho đến tiên cô, chân nhân…
có thể nói cùng với Phật giáo hoàn toàn tách rời không có quan hệ.
Hơn hai ngàn rưỡi năm trước, Đức thế
tôn Thích Ca đã bảo rằng đệ tử không được mê tín. Trong kinh Bát Nhã tam muội
nói rằng: “không được làm việc các đạo khác, không được lạy trời, không được
cúng tế quỷ thần, không đuợc xem ngày tốt”. Lại nói rằng: “không được bói hỏi
thỉnh thờ, phù chú yểm quái, tế tự giải tấu”.
tôn Thích Ca đã bảo rằng đệ tử không được mê tín. Trong kinh Bát Nhã tam muội
nói rằng: “không được làm việc các đạo khác, không được lạy trời, không được
cúng tế quỷ thần, không đuợc xem ngày tốt”. Lại nói rằng: “không được bói hỏi
thỉnh thờ, phù chú yểm quái, tế tự giải tấu”.
Người đời cúng tế thần kỳ, tuy thuộc về
mê tín, nhưng trong mắt trong tâm của họ rốt cuộc còn có quan niệm thần quỷ và
nhân quả báo ứng. Sở dĩ người mê tín, là không gặp được thiện tri thức cửa Phật
để khai mở chánh tín cho họ. Kẻ mà rất đáng thương xót, là những người căn bản
họ không có quan niệm thần quỷ, họ không tin nhân quả, không sợ quỷ thần, làm
việc hồ đồ vọng tưởng, chẳng sợ báo ứng. Bọn người này sau khi chết đọa lạc,
không biết kiếp nào mới ra khỏi ba đường!
mê tín, nhưng trong mắt trong tâm của họ rốt cuộc còn có quan niệm thần quỷ và
nhân quả báo ứng. Sở dĩ người mê tín, là không gặp được thiện tri thức cửa Phật
để khai mở chánh tín cho họ. Kẻ mà rất đáng thương xót, là những người căn bản
họ không có quan niệm thần quỷ, họ không tin nhân quả, không sợ quỷ thần, làm
việc hồ đồ vọng tưởng, chẳng sợ báo ứng. Bọn người này sau khi chết đọa lạc,
không biết kiếp nào mới ra khỏi ba đường!
C. PHẬT GIÁO CHẲNG PHẢI LÀ TIÊU CỰC –
TRỐN ĐỜI
TRỐN ĐỜI
Tín đồ Phật giáo lấy từ bi làm gốc,
nhẫn nhục làm hành động. Đối với sắc – thanh món lợi, năm dục sáu trần, rất xa
tránh. Không giống như tâm người đời không có nhàm đủ, càng nhiều càng tốt. Đây
là một hạng người tự cho là tích cực tiền tiến, cho thêm lên cái mũ tiêu cực,
nhận xét rằng Phật giáo không thích hợp đối với hiện tại loại cạnh tranh xã
hội, trời thì lựa chọn, vật thì giành giựt này. Nhưng Phật giáo là tôn giáo tiêu
cực trốn đời thật không? Không, chỉ cần con người đối với Phật pháp có chút ít
hiểu rõ thì có thể biết được tinh thần tích cực nhập thế của Phật giáo. So sánh
phương diện đồng nhất cách nhìn đối với sinh lão bệnh tử, bèn có sự “thanh tịnh
vô vi” của Huỳnh lão ở Trung Quốc, sự “buông trôi hình hài” của các danh sĩ đời
Ngụy Tấn; Mà ở nơi Phật giáo, ngược lại từ bi dũng mãnh, tinh tấn không giãi
đãi. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo, cũng biểu thị tánh tích cực của Phật
giáo.
nhẫn nhục làm hành động. Đối với sắc – thanh món lợi, năm dục sáu trần, rất xa
tránh. Không giống như tâm người đời không có nhàm đủ, càng nhiều càng tốt. Đây
là một hạng người tự cho là tích cực tiền tiến, cho thêm lên cái mũ tiêu cực,
nhận xét rằng Phật giáo không thích hợp đối với hiện tại loại cạnh tranh xã
hội, trời thì lựa chọn, vật thì giành giựt này. Nhưng Phật giáo là tôn giáo tiêu
cực trốn đời thật không? Không, chỉ cần con người đối với Phật pháp có chút ít
hiểu rõ thì có thể biết được tinh thần tích cực nhập thế của Phật giáo. So sánh
phương diện đồng nhất cách nhìn đối với sinh lão bệnh tử, bèn có sự “thanh tịnh
vô vi” của Huỳnh lão ở Trung Quốc, sự “buông trôi hình hài” của các danh sĩ đời
Ngụy Tấn; Mà ở nơi Phật giáo, ngược lại từ bi dũng mãnh, tinh tấn không giãi
đãi. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo, cũng biểu thị tánh tích cực của Phật
giáo.
Cũng cho rằng có người sẽ hỏi: “tôi
thường nhìn thấy hòa thượng hoặc người tin Phật, chỉ ở trong núi thẳm hoặc
trong tự viện tụng kinh niệm Phật, cuộc sống này sao có thể nói là tích cực
ư?”. Đây cũng là chỉ biết một mà không biết hai. Tinh thần của đại thừa Phật
pháp là khắp độ chúng sinh, nếu độ chúng sinh thì cần phải học tập phương pháp
độ sinh. Thí dụ như có người bị chìm trong nước, anh dẫu có lòng cứu người,
nhưng do không biết bơi lội, chỉ đứng yên trên bờ hô hoán. Có người ngoài khác
tuy biết bơi lội, nhưng ngược lại không muốn quản ngại nhiều đến việc nhàn nhã,
anh ta chỉ đứng khoanh tay, bàng quan. Lúc này nếu có một người đã có tâm cứu
người lại biết kỹ thuật bơi lội, nhảy vào trong nước thì có thể cứu được người
chìm trong nước lên. Đệ tử của Phật, không câu nệ là tỳ kheo xuất gia hoặc tín
chúng tại gia, những người tụng kinh niệm Phật đó, đều là người phát nguyện
rộng cứu người, đang luyện tập kỹ thuật bơi lội. Không có kỹ thuật làm sao cứu
người? Rất không phải là đem những lời này ra làm lời biện hộ cho đệ tử cửa
Phật, trên sự thật, tinh thần của Phật giáo xưa nay như vậy.
thường nhìn thấy hòa thượng hoặc người tin Phật, chỉ ở trong núi thẳm hoặc
trong tự viện tụng kinh niệm Phật, cuộc sống này sao có thể nói là tích cực
ư?”. Đây cũng là chỉ biết một mà không biết hai. Tinh thần của đại thừa Phật
pháp là khắp độ chúng sinh, nếu độ chúng sinh thì cần phải học tập phương pháp
độ sinh. Thí dụ như có người bị chìm trong nước, anh dẫu có lòng cứu người,
nhưng do không biết bơi lội, chỉ đứng yên trên bờ hô hoán. Có người ngoài khác
tuy biết bơi lội, nhưng ngược lại không muốn quản ngại nhiều đến việc nhàn nhã,
anh ta chỉ đứng khoanh tay, bàng quan. Lúc này nếu có một người đã có tâm cứu
người lại biết kỹ thuật bơi lội, nhảy vào trong nước thì có thể cứu được người
chìm trong nước lên. Đệ tử của Phật, không câu nệ là tỳ kheo xuất gia hoặc tín
chúng tại gia, những người tụng kinh niệm Phật đó, đều là người phát nguyện
rộng cứu người, đang luyện tập kỹ thuật bơi lội. Không có kỹ thuật làm sao cứu
người? Rất không phải là đem những lời này ra làm lời biện hộ cho đệ tử cửa
Phật, trên sự thật, tinh thần của Phật giáo xưa nay như vậy.
Phật giáo không phải là chủ nghĩa chán
mặt tự càn, pháp lục độ của đại thừa tuy trọng về nhẫn nhục, nhưng xả thân vì
pháp, cũng là giáo nghĩa Phật giáo. Vì khiến bạo lực xâm lăng, chánh pháp có
cái lo sắp diệt, lúc giáo lý ví như cảm hóa không hiệu quả, Phật tử cũng sẽ
phấn khởi đại lực dõng mãnh, đứng dậy chống đối với bạo lực. Như trong kinh
“Nhân duyên tăng hộ” chép rằng: “Vì hộ sinh mệnh của Phật pháp, thà bỏ tiền
tài; vì cứu hộ một nhà, thà bỏ một người; vì cứu hộ một thôn thà bỏ một nhà; vì
cứu hộ một nước thà bỏ một thôn”. Rắn độc cắn tay thì tráng sĩ chặt đứt cổ tay.
Đoạn kinh văn ở trên, là những gì mạnh mẽ và quả cảm.
mặt tự càn, pháp lục độ của đại thừa tuy trọng về nhẫn nhục, nhưng xả thân vì
pháp, cũng là giáo nghĩa Phật giáo. Vì khiến bạo lực xâm lăng, chánh pháp có
cái lo sắp diệt, lúc giáo lý ví như cảm hóa không hiệu quả, Phật tử cũng sẽ
phấn khởi đại lực dõng mãnh, đứng dậy chống đối với bạo lực. Như trong kinh
“Nhân duyên tăng hộ” chép rằng: “Vì hộ sinh mệnh của Phật pháp, thà bỏ tiền
tài; vì cứu hộ một nhà, thà bỏ một người; vì cứu hộ một thôn thà bỏ một nhà; vì
cứu hộ một nước thà bỏ một thôn”. Rắn độc cắn tay thì tráng sĩ chặt đứt cổ tay.
Đoạn kinh văn ở trên, là những gì mạnh mẽ và quả cảm.
Tích cực tiến thủ của người đời nói,
chẳng ngoài sự tranh đuổi trên danh lợi, say đắm trên thinh sắc. Ai đã từng
nghĩ đến hy sinh chính ta, phổ độ chúng sinh, trên thì cầu Đại giác, tinh tấn
không biếng nhác mới gọi là tích cực đó vậy!
chẳng ngoài sự tranh đuổi trên danh lợi, say đắm trên thinh sắc. Ai đã từng
nghĩ đến hy sinh chính ta, phổ độ chúng sinh, trên thì cầu Đại giác, tinh tấn
không biếng nhác mới gọi là tích cực đó vậy!
D. PHẬT GIÁO LÀ TRÍ TÍN KHÔNG PHẢI MÊ
TÍN
TÍN
Phật pháp là pháp lớn cần con người
chuyển mê khai ngộ, chuyển si sanh huệ, chuyển phàm thành thánh; nếu có người
đối với Phật pháp một điều cũng không biết, hoặc chỉ hạn chế ở nơi nghe đạo nói
lại, hiểu biết phân nửa, tức nhận định Phật giáo là mê tín, đây không khác nào
như người mù rờ voi, ngồi dưới giếng dòm trời.
chuyển mê khai ngộ, chuyển si sanh huệ, chuyển phàm thành thánh; nếu có người
đối với Phật pháp một điều cũng không biết, hoặc chỉ hạn chế ở nơi nghe đạo nói
lại, hiểu biết phân nửa, tức nhận định Phật giáo là mê tín, đây không khác nào
như người mù rờ voi, ngồi dưới giếng dòm trời.
Trên sự thật, thế gian cũng có tôn giáo
mê tín _ là những tín ngưỡng ngoại lực đó, đem tất cả chính mình giao phó cho
tôn giáo, cho thần ở bên ngoài. Mà chẳng tín ngưỡng tự lực _ Phật giáo tin
tưởng tất cả chúng sinh đều đủ Phật tánh, chúng sinh đều có thể tu trì thành
Phật. Tôn giáo tín ngưỡng ngoại lực là tin thần ở ngoài loài người, đang là chủ
tể tất cả nhân loại. Các việc cát, hung, họa, phước của người có thể xin cầu
sức lực của thần, cầu bảo hộ cải tạo. Loại tôn giáo này có thể phân làm hai
loại nguyên thỉ và tiến bộ.
mê tín _ là những tín ngưỡng ngoại lực đó, đem tất cả chính mình giao phó cho
tôn giáo, cho thần ở bên ngoài. Mà chẳng tín ngưỡng tự lực _ Phật giáo tin
tưởng tất cả chúng sinh đều đủ Phật tánh, chúng sinh đều có thể tu trì thành
Phật. Tôn giáo tín ngưỡng ngoại lực là tin thần ở ngoài loài người, đang là chủ
tể tất cả nhân loại. Các việc cát, hung, họa, phước của người có thể xin cầu
sức lực của thần, cầu bảo hộ cải tạo. Loại tôn giáo này có thể phân làm hai
loại nguyên thỉ và tiến bộ.
Nhân loại nguyên thỉ, trí thức chưa mở
mang, đối với hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ như: trời lấy gì lập, đất lấy gì
chở, oai lực của điển chớp, lúc tai hại của nước lửa, đều cảm thấy sợ sệt. Ở
trong sự khốn đốn mê mờ sợ sệt, huyễn tưởng đến chắc có một loại thần đủ có oai
lực không thể so sánh, kẻ thao túng đang khống chế tất cả vũ trụ. Những thần
này đụng đến hay nghịch đến thì chịu tai hại họa ương, thuận đó theo đó thì
được tha thứ giúp đỡ. Đối với việc cúng tế thần kỳ thì thành một việc đại sự
trong cuộc sống loài người, mà đa thần giáo cũng sản sinh việc này.
mang, đối với hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ như: trời lấy gì lập, đất lấy gì
chở, oai lực của điển chớp, lúc tai hại của nước lửa, đều cảm thấy sợ sệt. Ở
trong sự khốn đốn mê mờ sợ sệt, huyễn tưởng đến chắc có một loại thần đủ có oai
lực không thể so sánh, kẻ thao túng đang khống chế tất cả vũ trụ. Những thần
này đụng đến hay nghịch đến thì chịu tai hại họa ương, thuận đó theo đó thì
được tha thứ giúp đỡ. Đối với việc cúng tế thần kỳ thì thành một việc đại sự
trong cuộc sống loài người, mà đa thần giáo cũng sản sinh việc này.
Nhất thần tôn giáo tiến bộ hơn so với
tôn giáo đa thần. Do ở nơi kết quả sự tăng tiến trí huệ của loài người khiến
cho bộ phận kẻ sĩ cảm thấy tôn giáo đa thần với sự bất hợp lý của nó. Những bí
mật sâu xa của vũ trụ như: sự sanh diệt của muôn vật, đầu mối thời gian dời
trôi và chân đế của nhân sinh; như sinh già bệnh chết; cùng tột sự yểu và thọ,
xem ra giống biến huyễn chẳng so tính, trên thực tế lại giống như lần lượt phép
tắc vận hành nhất định. Ở đó khiến người cho là trên vũ trụ, trong cái mờ mịt
ấy có một cái chủ tể vạn năng là “thượng đế”. Kẻ chi phối là chủ tể của tất cả
thế gian; gồm lại thì vũ trụ vạn hữu, đều là chỗ sáng tạo của thượng đế. Đây
cũng là do nơi đa thần mà biến đến nhất thần. Bà la môn giáo cuả Ấn Độ, cũng
như thiên chúa giáo của người Do Thái, Gia tô giáo cho đến Hồi giáo của Ả Rập
đều thuộc một loại này. Xem hết giáo nghĩa của những tôn giáo này, hình thái và
nghi thức có chỗ không đồng, chỉ lấy một món đối tượng làm việc sùng bái thì là
một. Chẳng qua do ở nơi nhân loại tư tưởng tiến bộ, khoa học xương minh, vạn
vật là chẳng phải do thượng đế tạo, thế giới là chẳng phải do thượng đế chủ tể;
ở trong tâm mục của những người có lý trí có tư tưởng này đã chẳng có bất cứ
giá trị nào có thể nói được.
tôn giáo đa thần. Do ở nơi kết quả sự tăng tiến trí huệ của loài người khiến
cho bộ phận kẻ sĩ cảm thấy tôn giáo đa thần với sự bất hợp lý của nó. Những bí
mật sâu xa của vũ trụ như: sự sanh diệt của muôn vật, đầu mối thời gian dời
trôi và chân đế của nhân sinh; như sinh già bệnh chết; cùng tột sự yểu và thọ,
xem ra giống biến huyễn chẳng so tính, trên thực tế lại giống như lần lượt phép
tắc vận hành nhất định. Ở đó khiến người cho là trên vũ trụ, trong cái mờ mịt
ấy có một cái chủ tể vạn năng là “thượng đế”. Kẻ chi phối là chủ tể của tất cả
thế gian; gồm lại thì vũ trụ vạn hữu, đều là chỗ sáng tạo của thượng đế. Đây
cũng là do nơi đa thần mà biến đến nhất thần. Bà la môn giáo cuả Ấn Độ, cũng
như thiên chúa giáo của người Do Thái, Gia tô giáo cho đến Hồi giáo của Ả Rập
đều thuộc một loại này. Xem hết giáo nghĩa của những tôn giáo này, hình thái và
nghi thức có chỗ không đồng, chỉ lấy một món đối tượng làm việc sùng bái thì là
một. Chẳng qua do ở nơi nhân loại tư tưởng tiến bộ, khoa học xương minh, vạn
vật là chẳng phải do thượng đế tạo, thế giới là chẳng phải do thượng đế chủ tể;
ở trong tâm mục của những người có lý trí có tư tưởng này đã chẳng có bất cứ
giá trị nào có thể nói được.
Trừ ngoài tôn giáo tín ngưỡng về tha
lực, hãy còn có tôn giáo tín ngưỡng về tự lực, đó chính là Phật giáo. Phật giáo
chẳng cho là vũ trụ là do thần sáng tạo hoặc chủ tể. Đối với vũ trụ vạn hữu,
hiện tượng sanh diệt đổi khác, Đức Thế tôn Thích Ca thường nói: “Pháp nhĩ như
thị”; ý nghĩa là những hiện tượng này, ở nơi phép tắc tự nhiên thì xưa nay cũng
đều là như đây. Phép tắc tự nhiên là cái gì? Tức là luật nhân quả của vạn hữu.
Muôn pháp từ nhân duyên mà sinh, muôn pháp cũng từ nhân duyên mà diệt. Đây
sinh, đây diệt, đều là quả của nhân duyên sinh. Tinh thể vận hành, đầu mối thời
gian dời trôi trong đó có nhân quả; sinh lão bệnh tử, cùng tột được yểu _ thọ,
trong đó cũng có nhân quả. Nhân như vậy, quả như vậy, mảy tơ sợi lông chẳng
chịu mượn nhờ. Nhân đây, hiện tượng tự nhiên chắc chắn không có đủ Thần chưởng
quản, nhân sinh gặp gỡ cũng chẳng phải do Thượng đế chủ tể. Tục ngữ xưa nói
rằng: “họa phước không cửa, chỉ người tự chuốc”. Tự mình cũng là chủ tể chính
mình, không có thần nào, có thể lấy làm chủ tể con người, cũng không có thần
nào có thể đối với con người mà ban phước giáng họa.
lực, hãy còn có tôn giáo tín ngưỡng về tự lực, đó chính là Phật giáo. Phật giáo
chẳng cho là vũ trụ là do thần sáng tạo hoặc chủ tể. Đối với vũ trụ vạn hữu,
hiện tượng sanh diệt đổi khác, Đức Thế tôn Thích Ca thường nói: “Pháp nhĩ như
thị”; ý nghĩa là những hiện tượng này, ở nơi phép tắc tự nhiên thì xưa nay cũng
đều là như đây. Phép tắc tự nhiên là cái gì? Tức là luật nhân quả của vạn hữu.
Muôn pháp từ nhân duyên mà sinh, muôn pháp cũng từ nhân duyên mà diệt. Đây
sinh, đây diệt, đều là quả của nhân duyên sinh. Tinh thể vận hành, đầu mối thời
gian dời trôi trong đó có nhân quả; sinh lão bệnh tử, cùng tột được yểu _ thọ,
trong đó cũng có nhân quả. Nhân như vậy, quả như vậy, mảy tơ sợi lông chẳng
chịu mượn nhờ. Nhân đây, hiện tượng tự nhiên chắc chắn không có đủ Thần chưởng
quản, nhân sinh gặp gỡ cũng chẳng phải do Thượng đế chủ tể. Tục ngữ xưa nói
rằng: “họa phước không cửa, chỉ người tự chuốc”. Tự mình cũng là chủ tể chính
mình, không có thần nào, có thể lấy làm chủ tể con người, cũng không có thần
nào có thể đối với con người mà ban phước giáng họa.
Hơn hai nghìn năm trăm năm trước, lúc
Đức Thế tôn Thích Ca ở dưới cội bồ đề mắt thấy sao sáng ngộ đạo, câu nói thứ
nhất mà ngài mở miệng để nói: “Kỳ thay kỳ thay, tất cả chúng sinh đều đủ đức
tướng Như Lai trí huệ, nhưng nhân vì vọng tưởng chấp trước, không thể chứng
được, nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí tức được hiện tiền”.
Đức tướng Như Lai trí huệ là cái gì? Tức là Phật tánh, là người người đều có;
tánh này ở nơi thánh không tăng, ở nơi phàm không giảm. Người người nương nơi
pháp tu trì, chuyển mê khai ngộ, đều có thể thành Phật. Nhưng nương nơi pháp tu
trì chuyển mê khai ngộ hoàn toàn cần dựa vào lực hành thật tiễn chính mình,
không phải là dựa vào sự ban phát của Thần. Phật tánh _ người người đều đủ, do
vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể chứng được. Đây được so sánh trên cái
guơng phủ bụi, quyết cần tự mình nương phương pháp tu trì, lau chùi đi bụi bặm,
khôi phục lại tánh gốc _ ánh sáng nguyên có. Đây hoàn toàn dựa vào sự tu trì
của chính mình, chẳng đồng với Gia tô mong nhờ tha lực nói là: “tin chúa được
cứu rỗi”. Người đời không hiểu lý này, lấy tôn giáo mong nhờ thần lực giúp cứu,
cho là khoa học; đem tôn giáo nhờ dựa vào sự tu trì chính mình cho là mê tín;
đây há chẳng phải là điên đảo đen trắng, không rõ thị phi sao? Cái nào là trí
tín? Cái nào là mê tín? Người mắt sáng đủ có chỗ lựa chọn rồi.
Đức Thế tôn Thích Ca ở dưới cội bồ đề mắt thấy sao sáng ngộ đạo, câu nói thứ
nhất mà ngài mở miệng để nói: “Kỳ thay kỳ thay, tất cả chúng sinh đều đủ đức
tướng Như Lai trí huệ, nhưng nhân vì vọng tưởng chấp trước, không thể chứng
được, nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí tức được hiện tiền”.
Đức tướng Như Lai trí huệ là cái gì? Tức là Phật tánh, là người người đều có;
tánh này ở nơi thánh không tăng, ở nơi phàm không giảm. Người người nương nơi
pháp tu trì, chuyển mê khai ngộ, đều có thể thành Phật. Nhưng nương nơi pháp tu
trì chuyển mê khai ngộ hoàn toàn cần dựa vào lực hành thật tiễn chính mình,
không phải là dựa vào sự ban phát của Thần. Phật tánh _ người người đều đủ, do
vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể chứng được. Đây được so sánh trên cái
guơng phủ bụi, quyết cần tự mình nương phương pháp tu trì, lau chùi đi bụi bặm,
khôi phục lại tánh gốc _ ánh sáng nguyên có. Đây hoàn toàn dựa vào sự tu trì
của chính mình, chẳng đồng với Gia tô mong nhờ tha lực nói là: “tin chúa được
cứu rỗi”. Người đời không hiểu lý này, lấy tôn giáo mong nhờ thần lực giúp cứu,
cho là khoa học; đem tôn giáo nhờ dựa vào sự tu trì chính mình cho là mê tín;
đây há chẳng phải là điên đảo đen trắng, không rõ thị phi sao? Cái nào là trí
tín? Cái nào là mê tín? Người mắt sáng đủ có chỗ lựa chọn rồi.
E. PHẬT PHÁP VÀ KHOA HỌC
Khoa học hiện đại rất là thích hợp với
nhân loại; vì nó có thể đem cái học vấn trên sách vở, thực dụng vào việc hưởng
thụ vật chất được cải tiến trên cuộc sống nhân loại. Trong quan niệm ở nơi con
người, cho rằng khoa học là một điều mới mẻ, tiến bộ, thiết thực. Cho nên lời
nói về khoa học của các nhà khoa học, và những lời khác ở trong các sách là
không có giống nhau. Điểm cần yếu của nhà khoa học có ba:
nhân loại; vì nó có thể đem cái học vấn trên sách vở, thực dụng vào việc hưởng
thụ vật chất được cải tiến trên cuộc sống nhân loại. Trong quan niệm ở nơi con
người, cho rằng khoa học là một điều mới mẻ, tiến bộ, thiết thực. Cho nên lời
nói về khoa học của các nhà khoa học, và những lời khác ở trong các sách là
không có giống nhau. Điểm cần yếu của nhà khoa học có ba:
Một là luật NHÂN QUẢ, là kết luận từ lý
luận đến thực tại, sự tương truyền cùng giống nòi – trồng đậu được đậu.
luận đến thực tại, sự tương truyền cùng giống nòi – trồng đậu được đậu.
Hai là KINH NGHIỆM THỰC TẾ, là sau khi
thu nhập tài liệu, nghiên cứu chín chắn, mới viết ra lý luận để giải thích,
chẳng thêm bất kỳ “không tưởng” nào.
thu nhập tài liệu, nghiên cứu chín chắn, mới viết ra lý luận để giải thích,
chẳng thêm bất kỳ “không tưởng” nào.
Ba là PHÂN TÍCH, là dùng thực tế kinh
nghiệm qua nhiều ngày tháng để phân tích và quan sát sự biến hóa từng cái cá
thể; hoặc mổ xẻ từng cái cá thể mà xem xét cái tổ hợp đó.
nghiệm qua nhiều ngày tháng để phân tích và quan sát sự biến hóa từng cái cá
thể; hoặc mổ xẻ từng cái cá thể mà xem xét cái tổ hợp đó.
Khoa học dùng ba phương pháp này để
nghiên cứu vạn vật, nhiên hậu biết được sự tồn tại của vật, vì hai món: sự liên
tục của thời gian và sự hòa hợp của không gian, giả tướng cấu thành, đây cùng
với Phật học rất giống nhau.
nghiên cứu vạn vật, nhiên hậu biết được sự tồn tại của vật, vì hai món: sự liên
tục của thời gian và sự hòa hợp của không gian, giả tướng cấu thành, đây cùng
với Phật học rất giống nhau.
Sự tổ chức của Kinh Phật chia làm ba
phần lớn: Phần tựa – phần chánh tông – phần lưu thông; mỗi đại đoạn lại phân ra
làm bao nhiêu tiểu đoạn, thứ lớp, sự phân chia nghiêm cẩn này cũng hợp với tinh
thần khoa học.
phần lớn: Phần tựa – phần chánh tông – phần lưu thông; mỗi đại đoạn lại phân ra
làm bao nhiêu tiểu đoạn, thứ lớp, sự phân chia nghiêm cẩn này cũng hợp với tinh
thần khoa học.
Mỗi một bộ Kinh Phật bắt đầu đều có sáu
món chứng tín đầu mối: TÍN, VĂN, THỜI, CHỦ, XỨ, CHÚNG, lại nói rõ điểm trọng
yếu về thời gian, địa điểm, thính chúng… mà Phật nói kinh đó, đây họp với
“lục hà” (sáu việc được hỏi) trên tân văn học ngày nay: – hà nhơn (người nào?)
– hà sự (việc gì?) – hà thời (lúc nào?) – hà địa (chỗ nào?) – vi hà (làm gì?) –
như hà tương tự (giống cái gì?). Lại tương đồng với người làm công tác khoa học
viết về báo cáo thực nghiệm. Báo cáo thực nghiệm bắt đầu cần phải viết: Người
chủ trì, những người cộng đồng thực nghiệm, thời gian, điạ điểm, mục tiêu thực
nghiệm, phương tiện sử dụng (đồ vật sử dụng).
món chứng tín đầu mối: TÍN, VĂN, THỜI, CHỦ, XỨ, CHÚNG, lại nói rõ điểm trọng
yếu về thời gian, địa điểm, thính chúng… mà Phật nói kinh đó, đây họp với
“lục hà” (sáu việc được hỏi) trên tân văn học ngày nay: – hà nhơn (người nào?)
– hà sự (việc gì?) – hà thời (lúc nào?) – hà địa (chỗ nào?) – vi hà (làm gì?) –
như hà tương tự (giống cái gì?). Lại tương đồng với người làm công tác khoa học
viết về báo cáo thực nghiệm. Báo cáo thực nghiệm bắt đầu cần phải viết: Người
chủ trì, những người cộng đồng thực nghiệm, thời gian, điạ điểm, mục tiêu thực
nghiệm, phương tiện sử dụng (đồ vật sử dụng).
Quá trình của con người học Phật, có
bốn phương pháp hợp với khoa học: 1. – tin, 2. – hiểu, 3. – thực hành, 4. –
chứng.
bốn phương pháp hợp với khoa học: 1. – tin, 2. – hiểu, 3. – thực hành, 4. –
chứng.
TIN, là tin phương pháp Đức Phật dạy
cho con người là CHƠN CHÁNH. Đức Phật nói con người có Phật tánh, nhưng bị
phiền não ngăn che, cho nên ở nơi cảnh mê. Con người nếu dọn trừ mê vọng, thì
sanh khởi giác ngộ, tương lai cũng được thành Phật. Nếu anh đối với những lời
nói của Đức Phật mà không hoài nghi, thì anh tức là có chánh tín đối với Phật
giáo rồi.
cho con người là CHƠN CHÁNH. Đức Phật nói con người có Phật tánh, nhưng bị
phiền não ngăn che, cho nên ở nơi cảnh mê. Con người nếu dọn trừ mê vọng, thì
sanh khởi giác ngộ, tương lai cũng được thành Phật. Nếu anh đối với những lời
nói của Đức Phật mà không hoài nghi, thì anh tức là có chánh tín đối với Phật
giáo rồi.
HIỂU, là anh tuy tin những lời nói của
Đức Phật đúng, nhưng anh cần xác định thực tế có thể hiểu rõ ý nghĩa bao hàm
trong một câu nói đó hay không. Không có được hồ đồ không có chỗ rõ ràng, không
có thể hiểu một nửa hoặc không hiểu, hoặc là có chỗ hiểu lầm.
Đức Phật đúng, nhưng anh cần xác định thực tế có thể hiểu rõ ý nghĩa bao hàm
trong một câu nói đó hay không. Không có được hồ đồ không có chỗ rõ ràng, không
có thể hiểu một nửa hoặc không hiểu, hoặc là có chỗ hiểu lầm.
THỰC HÀNH, là đối với câu nói của Phật
“ngươi sẽ thành Phật” này, anh đã tin sâu sắc rồi; anh lại hiểu được làm thế
nào mới có thể thành Phật; như thế hiện tại là anh cần phải đem phương pháp
thành Phật của Đức Phật dạy, từng bước từng bước luyện tập một cách thiết tha
và chắc thật. Nhưng có nhiều đệ tử là tri thức cửa Phật, tin pháp của Phật
giảng, lại có thể hiểu rõ chân nghĩa của nó, song vì Phật pháp không dễ không
theo việc làm thế tục hoặc gấp rút công sức để mau gần cái lợi, thực hành được
một thời gian thấy không công hiệu thì chẳng làm nữa; kiểu này tuy là có tin có
hiểu, nhưng rốt cục là ngang bằng với sự chẳng tin chẳng hiểu; bởi vì học Phật
đối với TIN và HIỂU, thì HÀNH càng trọng yếu hơn.
“ngươi sẽ thành Phật” này, anh đã tin sâu sắc rồi; anh lại hiểu được làm thế
nào mới có thể thành Phật; như thế hiện tại là anh cần phải đem phương pháp
thành Phật của Đức Phật dạy, từng bước từng bước luyện tập một cách thiết tha
và chắc thật. Nhưng có nhiều đệ tử là tri thức cửa Phật, tin pháp của Phật
giảng, lại có thể hiểu rõ chân nghĩa của nó, song vì Phật pháp không dễ không
theo việc làm thế tục hoặc gấp rút công sức để mau gần cái lợi, thực hành được
một thời gian thấy không công hiệu thì chẳng làm nữa; kiểu này tuy là có tin có
hiểu, nhưng rốt cục là ngang bằng với sự chẳng tin chẳng hiểu; bởi vì học Phật
đối với TIN và HIỂU, thì HÀNH càng trọng yếu hơn.
CHỨNG, là phương pháp lúc Đức Phật còn
tại thế dạy người thành Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn, bất kỳ một pháp
nào, hễ có hằng tâm mà chí thành tu trì, có như vậy tức thân có thể thành A La
Hán, thành Bồ tát, thành Phật. Chỉ riêng đem nước Trung Quốc ra nói, caÙc bậc
cao tăng, đại đức, nhiều đời thành đạo (đắc đạo thành Bồ tát hoặc thành Phật),
như ở trong “Cao tăng truyện” hay “Hiền thánh lục” đã nói đến, trải qua rất
nhiều trong đây không nói lại.
tại thế dạy người thành Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn, bất kỳ một pháp
nào, hễ có hằng tâm mà chí thành tu trì, có như vậy tức thân có thể thành A La
Hán, thành Bồ tát, thành Phật. Chỉ riêng đem nước Trung Quốc ra nói, caÙc bậc
cao tăng, đại đức, nhiều đời thành đạo (đắc đạo thành Bồ tát hoặc thành Phật),
như ở trong “Cao tăng truyện” hay “Hiền thánh lục” đã nói đến, trải qua rất
nhiều trong đây không nói lại.
Nói một điểm thực tế hơn, ngày nay bao
nhiêu sự phát hiện trên khoa học, kinh Phật hơn hai nghìn năm trăm năm trước đã
sớm có ghi chép rồi.
nhiêu sự phát hiện trên khoa học, kinh Phật hơn hai nghìn năm trăm năm trước đã
sớm có ghi chép rồi.
Quá khứ, thế giới trong quan niệm của
người đời, chẳng ra khỏi phạm vi địa cầu, như bình thường được gọi là “đi vòng
quanh thế giới”, chẳng qua là nhiễu một vòng xung quanh địa cầu; gọi là “đại
chiến của thế giới”, cũng chẳng qua là chiến tranh quốc tế đại quy mô trên địa
cầu. Mà Đức Phật đã từng nói trong kinh: “tam thiên đại thiên thế giới”. Tam
thiên đại thiên thế giới, thật chẳng phải là ba nghìn cái thế giới, mà là tập hợp
một nghìn thế giới làm một tiểu thế giới, tập hợp một nghìn tiểu thế giới làm
một trung thế giới, tập hợp một nghìn trung thế giới làm một đại thế giới. Do
trong đó bao hàm bội số có ba cái nghìn, cho nên gọi là tam thiên đại thiên thế
giới”. Trong kinh nói rằng: “Hư không vô tận, thế giới vô lượng, quốc độ chúng
sanh vô lượng”, cho nên tam thiên đại thiên thế giới cũng rất vô lượng. Địa cầu
chỗ ở của chúng ta, chẳng qua là một hạt bụi trong không gian to lớn. Lời nói
của pháp này ở lúc trước khi khoa học chưa phát đạt, thật khó được con người
tiếp nhận. Nhưng do nơi sự phát triển của thiên văn học, đã chứng minh tinh cầu
trong hệ ngân hà nhiều đến nỗi không thể đếm hết, cự ly rộng của khoảng cách
tinh cầu cũng tính không hết. Ví dụ như địa cầu khoảng cách với thái dương là
tám phút rưỡi năm ánh sáng (cự ly của một năm ánh sáng, mỗi giây là ba mươi vạn
dặm, nhân lên số giây của một năm). Mà cự ly giữa sao Ngưu Lang và Chức nữ đến
mười hai ngàn năm ánh sáng. Lại có những tinh cầu cách địa cầu tới khoảng vài chục
năm ánh sáng… Do đây có thể biết so với khoa học, Phật pháp càng khoa học.
người đời, chẳng ra khỏi phạm vi địa cầu, như bình thường được gọi là “đi vòng
quanh thế giới”, chẳng qua là nhiễu một vòng xung quanh địa cầu; gọi là “đại
chiến của thế giới”, cũng chẳng qua là chiến tranh quốc tế đại quy mô trên địa
cầu. Mà Đức Phật đã từng nói trong kinh: “tam thiên đại thiên thế giới”. Tam
thiên đại thiên thế giới, thật chẳng phải là ba nghìn cái thế giới, mà là tập hợp
một nghìn thế giới làm một tiểu thế giới, tập hợp một nghìn tiểu thế giới làm
một trung thế giới, tập hợp một nghìn trung thế giới làm một đại thế giới. Do
trong đó bao hàm bội số có ba cái nghìn, cho nên gọi là tam thiên đại thiên thế
giới”. Trong kinh nói rằng: “Hư không vô tận, thế giới vô lượng, quốc độ chúng
sanh vô lượng”, cho nên tam thiên đại thiên thế giới cũng rất vô lượng. Địa cầu
chỗ ở của chúng ta, chẳng qua là một hạt bụi trong không gian to lớn. Lời nói
của pháp này ở lúc trước khi khoa học chưa phát đạt, thật khó được con người
tiếp nhận. Nhưng do nơi sự phát triển của thiên văn học, đã chứng minh tinh cầu
trong hệ ngân hà nhiều đến nỗi không thể đếm hết, cự ly rộng của khoảng cách
tinh cầu cũng tính không hết. Ví dụ như địa cầu khoảng cách với thái dương là
tám phút rưỡi năm ánh sáng (cự ly của một năm ánh sáng, mỗi giây là ba mươi vạn
dặm, nhân lên số giây của một năm). Mà cự ly giữa sao Ngưu Lang và Chức nữ đến
mười hai ngàn năm ánh sáng. Lại có những tinh cầu cách địa cầu tới khoảng vài chục
năm ánh sáng… Do đây có thể biết so với khoa học, Phật pháp càng khoa học.
ĐƠN GIẢN NÓI VỀ PHÁP NGHĨA GIÁC NGỘ
GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC VỀ PHẬT HỌC
A – Ý NGHĨA VÀ LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT
Phật, chữ này là tiếng Phạn, là tiếng
gọi tắt của hai chữ “Phật Đà” mà Hán văn đã dịch âm ra (lại gọi là Như Lai, Thế
Tôn…), ý nghĩa đó là bậc Giác ngộ. Giác ngộ nhân sinh và tất cả vạn vật khác,
xa cho đến thật tướng và chân lý của cái thể vũ trụ và chư thiên. Nhiên hậu đem
chân lý này nói cho những ngïười không hiểu được nghe, khiến người không hiểu
cũng hiểu. Mọi người hiểu rồi, mọi người sẽ nương theo phương pháp dạy ở trong
Phật học mà tiến đến thực hành, lấy việc liễu thoát tất cả khổ đau mà hưởng thọ
vui vẻ.
gọi tắt của hai chữ “Phật Đà” mà Hán văn đã dịch âm ra (lại gọi là Như Lai, Thế
Tôn…), ý nghĩa đó là bậc Giác ngộ. Giác ngộ nhân sinh và tất cả vạn vật khác,
xa cho đến thật tướng và chân lý của cái thể vũ trụ và chư thiên. Nhiên hậu đem
chân lý này nói cho những ngïười không hiểu được nghe, khiến người không hiểu
cũng hiểu. Mọi người hiểu rồi, mọi người sẽ nương theo phương pháp dạy ở trong
Phật học mà tiến đến thực hành, lấy việc liễu thoát tất cả khổ đau mà hưởng thọ
vui vẻ.
Người noi theo lời dạy trong Phật học
mà tu trì thành Phật rất nhiều. Đức Phật mà chúng ta đang nói là Đức Thích Ca
Mâu Ni Phật. Ngài đản sinh ở nước Ca Tì La Vệ, thuộc bắc Ấn Độ (ngày nay là
Nêpan), niên đại ngài đản sinh đến nay chưa có thuyết nhất định, nhân vì Ấn độ
xưa không chú trọng về việc lịch sử, đại khái suy định là sáu thế kỷ rưởi trước
kỷ nguyên. Lúc nhỏ tên là Tất Đạt Đa, là thái tử của vua Tịnh Phạn, mẹ Ngài là
Ma Gia phu nhân, khi Ngài sinh ra không lâu thì bà qua đời, nhờ di mẫu thay thế
nuôi Ngài thành người. Khoảng mười sáu tuổi, Ngài cùng với Da Du Đà La kết hôn
và sinh được một con trai là La Hầu La. Theo quá khứ thời gian, Ngài thấy được
những hình ảnh sanh, lão, bệnh, tử… các điều đau khổ và chúng sinh tàn sát
lẫn nhau của loài người, Ngài quyết ý cần phải tìm ra một phương pháp để giải
quyết các việc khổ đau của thế gian. Năm mười chín tuổi quyết chí xuất gia, tìm
kiếm đáp án, hỏi đạo sáu năm, tu trì sáu năm, dưới cây bồ đề của thành Già Da,
tinh tấn nhập thiền định khai sáng chính mình, cuối cùng được đại giác ngộ
chánh giác, bắt đầu giảng dạy. Một đời nói pháp bốn mươi chín năm, lúc viên
tịch là tám mươi tuổi. Hầu như Ngài đi khắp cả xứ bắc Ấn Độ, dạy dẫn dắt tất cả
nam – phụ – lão – ấu các giai tầng, ngài đều xem bình đẳng không khởi tâm phân
biệt, đả phá thành phần giai cấp của xã hội đương thời, đề xướng chúng sanh
bình đẳng.
mà tu trì thành Phật rất nhiều. Đức Phật mà chúng ta đang nói là Đức Thích Ca
Mâu Ni Phật. Ngài đản sinh ở nước Ca Tì La Vệ, thuộc bắc Ấn Độ (ngày nay là
Nêpan), niên đại ngài đản sinh đến nay chưa có thuyết nhất định, nhân vì Ấn độ
xưa không chú trọng về việc lịch sử, đại khái suy định là sáu thế kỷ rưởi trước
kỷ nguyên. Lúc nhỏ tên là Tất Đạt Đa, là thái tử của vua Tịnh Phạn, mẹ Ngài là
Ma Gia phu nhân, khi Ngài sinh ra không lâu thì bà qua đời, nhờ di mẫu thay thế
nuôi Ngài thành người. Khoảng mười sáu tuổi, Ngài cùng với Da Du Đà La kết hôn
và sinh được một con trai là La Hầu La. Theo quá khứ thời gian, Ngài thấy được
những hình ảnh sanh, lão, bệnh, tử… các điều đau khổ và chúng sinh tàn sát
lẫn nhau của loài người, Ngài quyết ý cần phải tìm ra một phương pháp để giải
quyết các việc khổ đau của thế gian. Năm mười chín tuổi quyết chí xuất gia, tìm
kiếm đáp án, hỏi đạo sáu năm, tu trì sáu năm, dưới cây bồ đề của thành Già Da,
tinh tấn nhập thiền định khai sáng chính mình, cuối cùng được đại giác ngộ
chánh giác, bắt đầu giảng dạy. Một đời nói pháp bốn mươi chín năm, lúc viên
tịch là tám mươi tuổi. Hầu như Ngài đi khắp cả xứ bắc Ấn Độ, dạy dẫn dắt tất cả
nam – phụ – lão – ấu các giai tầng, ngài đều xem bình đẳng không khởi tâm phân
biệt, đả phá thành phần giai cấp của xã hội đương thời, đề xướng chúng sanh
bình đẳng.
B – PHẬT CHẲNG PHẢI LÀ THẦN
Đức Phật THÍCH CA MÂU NI là nhân vật
chánh trên lịch sử, chẳng phải là vị thần mượn gá hoặc hóa thân của thần. Mười
phương ba đời tất cả chư Phật đều là từ con người ở tại nhân gian thành Phật, mà
không phải là ở trên trời hoặc chỗ nào khác mà thành Đẳng Chánh Giác, có thể
thấy địa vị của con người là tôn quý vô thượng. Do đó có thể nói rằng con người
có đầy đủ một cách hoàn toàn nhân cách tức là Phật đà, tức là Phật giáo lấy sự
“hoàn thành nhân cách” làm mục tiêu, nên nói rằng “nhân thành tức Phật thành”;
người người đều có thể thành Phật, tức là ý tứ của đạo lý này vậy. Thành Phật
hoàn toàn quy cả nơi trí tuệ và sự nỗ lực ở con người, mà không phải là chịu
nơi bất cứ thần linh nào hoặc sự cảm ứng của lực bên ngoài. Hoàn toàn nương nơi
tự lực và chân lý (chánh pháp) mà không nương gá ở nơi tha lực; chỉ cần chịu
phát nguyện, tinh tấn, cuối cùng đều có thể thành Phật; cho nên nói rằng Phật
giáo là nơi mọi người đều có thể dựa vào. Người người thành Phật rồi giáo hóa,
không phải là chỗ chuyên chỉ lợi phẩm của Đức Thích Ca Mâu Ni, cũng chẳng phải
là như thần tự xưng: “chỉ có ta là cao tột vô thượng, con người tuyệt đối không
thể đạt đến địa vị của ta”, nói pháp như thế cũng là phủ định quan niệm bình đẳng
“Người người đều có thể thành Phật”. Ấn Độ trong thời đại của Đức Phật, ngài
thấy được giai cấp của xã hội (Bà La Môn, quý tộc, bình dân, nô lệ), phân chia
um tùm không hợp lý; Ngài mạnh mẽ chủ trương đối lập phế trừ giai cấp, đề xướng
chúng sinh bình đẳng, trồng lên cái cây mà về sau này là sự tồn tại của tinh
thần Phật giáo, thẳng tắp lưu truyền về sau.
chánh trên lịch sử, chẳng phải là vị thần mượn gá hoặc hóa thân của thần. Mười
phương ba đời tất cả chư Phật đều là từ con người ở tại nhân gian thành Phật, mà
không phải là ở trên trời hoặc chỗ nào khác mà thành Đẳng Chánh Giác, có thể
thấy địa vị của con người là tôn quý vô thượng. Do đó có thể nói rằng con người
có đầy đủ một cách hoàn toàn nhân cách tức là Phật đà, tức là Phật giáo lấy sự
“hoàn thành nhân cách” làm mục tiêu, nên nói rằng “nhân thành tức Phật thành”;
người người đều có thể thành Phật, tức là ý tứ của đạo lý này vậy. Thành Phật
hoàn toàn quy cả nơi trí tuệ và sự nỗ lực ở con người, mà không phải là chịu
nơi bất cứ thần linh nào hoặc sự cảm ứng của lực bên ngoài. Hoàn toàn nương nơi
tự lực và chân lý (chánh pháp) mà không nương gá ở nơi tha lực; chỉ cần chịu
phát nguyện, tinh tấn, cuối cùng đều có thể thành Phật; cho nên nói rằng Phật
giáo là nơi mọi người đều có thể dựa vào. Người người thành Phật rồi giáo hóa,
không phải là chỗ chuyên chỉ lợi phẩm của Đức Thích Ca Mâu Ni, cũng chẳng phải
là như thần tự xưng: “chỉ có ta là cao tột vô thượng, con người tuyệt đối không
thể đạt đến địa vị của ta”, nói pháp như thế cũng là phủ định quan niệm bình đẳng
“Người người đều có thể thành Phật”. Ấn Độ trong thời đại của Đức Phật, ngài
thấy được giai cấp của xã hội (Bà La Môn, quý tộc, bình dân, nô lệ), phân chia
um tùm không hợp lý; Ngài mạnh mẽ chủ trương đối lập phế trừ giai cấp, đề xướng
chúng sinh bình đẳng, trồng lên cái cây mà về sau này là sự tồn tại của tinh
thần Phật giáo, thẳng tắp lưu truyền về sau.
C – PHẬT HỌC
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, với tâm đại
bi thiết tha, một đời Ngài cố gắng thuyết pháp độ sinh; xưa nay trong ngoài chỉ
có một Khổng Tử răn dạy người chẳng biết mỏi mệt giống như Ngài. Cái học của
Phật giảng đương thời chỉ dùng lời nói, không có viết thành văn chương. Sau khi
Phật diệt độ, chúng đệ tử sợ rằng thời gian trải qua lâu, học lý của Đức Phật
dạy sẽ từ từ bị loài người bỏ mất; cho nên chúng đệ tử, do Đại Ca Diếp lãnh
đạo, nhóm họp năm trăm người tại một nơi tên gọi là “Diệp thọ nghiêm”, khai ra
hội nghị kết tập. Trong hội do một người đệ tử của Phật có sức nhớ rất mạnh mẽ
và số lần nghe pháp cũng rất là nhiều, đó là: A Nan, tụng lại chân lý thật
tướng của nhân sinh và vũ trụ mà Đức Phật đã giảng, đó gọi là “Kinh tạng”. Tụng
ra phép tắc, quy củ hành trì của chúng đệ tử, Phật đặc biệt lập ra, gọi là “
Luật tạng”. Ngoài ra do Phú Lầu Na dùng phương thức vấn đáp, tụng ra giải thích
và phát huy chân lý của Phật, gọi là “Luận tạng”. Kinh, Luật, Luận này hợp lại
chung gọi là “Tam tạng”. Nhưng người học nhiều thời đó hãy còn có giới hạn,
chưa từng tham gia; bên ngoài hội (ở ngoài hang) do Bà Sư Bà lãnh tụ riêng kết
tập năm tạng: Kinh, Luật, Luận, Tạp và Chú cấm. Ngoài ra, hãy còn có các vị Bồ
tát như: Văn Thù, Di Lặc… và A Nan tôn giả kết tập Thánh điển “đại thừa tam
tạng”, tổng quát những sự kết tập ở trên gọi là “Đại tạng kinh”. Phật giáo với
sự viên mãn của giáo lý, sự tinh mật của luận bàn, trên thế giới bất luận kinh
điển của một tôn giáo nào không thể cùng với đó so sánh được.
bi thiết tha, một đời Ngài cố gắng thuyết pháp độ sinh; xưa nay trong ngoài chỉ
có một Khổng Tử răn dạy người chẳng biết mỏi mệt giống như Ngài. Cái học của
Phật giảng đương thời chỉ dùng lời nói, không có viết thành văn chương. Sau khi
Phật diệt độ, chúng đệ tử sợ rằng thời gian trải qua lâu, học lý của Đức Phật
dạy sẽ từ từ bị loài người bỏ mất; cho nên chúng đệ tử, do Đại Ca Diếp lãnh
đạo, nhóm họp năm trăm người tại một nơi tên gọi là “Diệp thọ nghiêm”, khai ra
hội nghị kết tập. Trong hội do một người đệ tử của Phật có sức nhớ rất mạnh mẽ
và số lần nghe pháp cũng rất là nhiều, đó là: A Nan, tụng lại chân lý thật
tướng của nhân sinh và vũ trụ mà Đức Phật đã giảng, đó gọi là “Kinh tạng”. Tụng
ra phép tắc, quy củ hành trì của chúng đệ tử, Phật đặc biệt lập ra, gọi là “
Luật tạng”. Ngoài ra do Phú Lầu Na dùng phương thức vấn đáp, tụng ra giải thích
và phát huy chân lý của Phật, gọi là “Luận tạng”. Kinh, Luật, Luận này hợp lại
chung gọi là “Tam tạng”. Nhưng người học nhiều thời đó hãy còn có giới hạn,
chưa từng tham gia; bên ngoài hội (ở ngoài hang) do Bà Sư Bà lãnh tụ riêng kết
tập năm tạng: Kinh, Luật, Luận, Tạp và Chú cấm. Ngoài ra, hãy còn có các vị Bồ
tát như: Văn Thù, Di Lặc… và A Nan tôn giả kết tập Thánh điển “đại thừa tam
tạng”, tổng quát những sự kết tập ở trên gọi là “Đại tạng kinh”. Phật giáo với
sự viên mãn của giáo lý, sự tinh mật của luận bàn, trên thế giới bất luận kinh
điển của một tôn giáo nào không thể cùng với đó so sánh được.
D – MỤC ĐÍCH HỌC PHẬT
Tam tạng kinh điển, không luận là nói
về lý, nói về hành, hoặc nói như thế nào đi nữa, mục đíchø ở chỗ là khiến chúng
sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui – khiến chúng sinh đồng thành Phật
đạo. Mà chúng sinh chúng ta, nghiên cứu kinh điển giáo lý, tụng kinh niệm Phật,
giữ năm giới mười thiện nghiệp, thực tiễn sáu pháp Ba La Mật, mục đích đó cũng
là mong cầu chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui, – cứu cánh sau cùng cũng là
mong cầu đồng thành Phật đạo.
về lý, nói về hành, hoặc nói như thế nào đi nữa, mục đíchø ở chỗ là khiến chúng
sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui – khiến chúng sinh đồng thành Phật
đạo. Mà chúng sinh chúng ta, nghiên cứu kinh điển giáo lý, tụng kinh niệm Phật,
giữ năm giới mười thiện nghiệp, thực tiễn sáu pháp Ba La Mật, mục đích đó cũng
là mong cầu chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui, – cứu cánh sau cùng cũng là
mong cầu đồng thành Phật đạo.
E – CHUYỂN MÊ KHAI NGỘ
Một con người ở trong cuộc sống vài
mươi năm, nói gần, không hiểu được đời mình như thế nào, cứ lộn xộn hồ đồ qua
đi, giống như người bịt mắt đi đường, đến lúc già rồi lại không rõ không hiểu
rồi chết đi, chết rồi đi đến chỗ nào? Cho đến tất cả vạn vật ở bên ngoài cá
nhân là thế nào mà đến, chỗ có tất cả này, đều thì chẳng rõ được sự kỳ diệu.
Nói xa, tất cả vũ trụ vạn hữu lại là thế nào mà tồn tại? Phàm không hiểu được đạo
lý này gọi là MÊ. Ngược lại, hiểu được thân thể của nó chỉ là giả tướng của bốn
đại hòa hợp: địa, thủy, hỏa, phong mà thành (tức là hệ thống tám đại của thân
người giải phẫu, nhục thể tổ hợp mà thành), nhục thể giả tướng này, trải qua
các giai đoạn: trẻ nhỏ, thiếu niên, trung niên, lão niên; rồi có một ngày bốn
đại không điều hòa mà bệnh, bệnh nặng mà chết, sau khi chết tạm quy về tiêu
diệt dần dần. Chỉ còn ở lại nơi nhục thể cái “thật tướng” con mắt nhìn không
thấy đó, lại gọi là chân như (tục gọi là linh hồn), hoặc gọi là Phật tánh là
vĩnh viễn tồn tại, là không sinh không diệt, một con người như thế này, vạn vật
cũng là như thế này, người nếu hiểu được đạo lý này, tức là trụ ở nơi cảnh Ngộ.
Phật học tức là đem cảnh Mê của anh, chuyển cho qua đi mà mở ra một con đường
khiến anh đi vào cảnh Ngộ làm mục đích thứ nhất.
mươi năm, nói gần, không hiểu được đời mình như thế nào, cứ lộn xộn hồ đồ qua
đi, giống như người bịt mắt đi đường, đến lúc già rồi lại không rõ không hiểu
rồi chết đi, chết rồi đi đến chỗ nào? Cho đến tất cả vạn vật ở bên ngoài cá
nhân là thế nào mà đến, chỗ có tất cả này, đều thì chẳng rõ được sự kỳ diệu.
Nói xa, tất cả vũ trụ vạn hữu lại là thế nào mà tồn tại? Phàm không hiểu được đạo
lý này gọi là MÊ. Ngược lại, hiểu được thân thể của nó chỉ là giả tướng của bốn
đại hòa hợp: địa, thủy, hỏa, phong mà thành (tức là hệ thống tám đại của thân
người giải phẫu, nhục thể tổ hợp mà thành), nhục thể giả tướng này, trải qua
các giai đoạn: trẻ nhỏ, thiếu niên, trung niên, lão niên; rồi có một ngày bốn
đại không điều hòa mà bệnh, bệnh nặng mà chết, sau khi chết tạm quy về tiêu
diệt dần dần. Chỉ còn ở lại nơi nhục thể cái “thật tướng” con mắt nhìn không
thấy đó, lại gọi là chân như (tục gọi là linh hồn), hoặc gọi là Phật tánh là
vĩnh viễn tồn tại, là không sinh không diệt, một con người như thế này, vạn vật
cũng là như thế này, người nếu hiểu được đạo lý này, tức là trụ ở nơi cảnh Ngộ.
Phật học tức là đem cảnh Mê của anh, chuyển cho qua đi mà mở ra một con đường
khiến anh đi vào cảnh Ngộ làm mục đích thứ nhất.
F – LÌA KHỔ ĐƯỢC VUI
Người đời nghèo cùng khổ, giàu có cũng
khổ, lấy khổ làm vui, quen rồi cho là thường! Một con người ở trong cuộc sống
vài mươi năm, sự tình lãnh thọ các loại, các dạng rất nhiều rất nhiều, trong
mười phần thì tám chín phần là không như ý. Việc bất như ý này khiến cho thân
thể và tinh thần của con người chịu lấy nhiều điều đau khổ, như: sanh, lão,
bệnh, tử, cầu không được, khốn đốn kinh tế, bất hòa nhân sự khó tìm kiếm… Cái
khổ của các kiểu các dạng rất là nhiều. Cần đối phó với những đau khổ phải chịu
trên tinh thần và thể xác, Phật học dạy con người nên dùng nhãn quang trí tuệ
xem thế tình, thì phú quý cũng như khói mây qua trước mắt, dùng tâm tri túc để
giữ và bỏ vạn vật, tâm thanh tịnh này sẽ không bị ngoại vật trói buộc. Đây là
dùng tâm tùy duyên ở nơi cảnh nghịch, tâm địa tự bình, chẳng bị ngoại vật làm
lụy, lại tiến đến một bước tu trì thì có thể đạt đến niềm vui lớn của Niết bàn.
khổ, lấy khổ làm vui, quen rồi cho là thường! Một con người ở trong cuộc sống
vài mươi năm, sự tình lãnh thọ các loại, các dạng rất nhiều rất nhiều, trong
mười phần thì tám chín phần là không như ý. Việc bất như ý này khiến cho thân
thể và tinh thần của con người chịu lấy nhiều điều đau khổ, như: sanh, lão,
bệnh, tử, cầu không được, khốn đốn kinh tế, bất hòa nhân sự khó tìm kiếm… Cái
khổ của các kiểu các dạng rất là nhiều. Cần đối phó với những đau khổ phải chịu
trên tinh thần và thể xác, Phật học dạy con người nên dùng nhãn quang trí tuệ
xem thế tình, thì phú quý cũng như khói mây qua trước mắt, dùng tâm tri túc để
giữ và bỏ vạn vật, tâm thanh tịnh này sẽ không bị ngoại vật trói buộc. Đây là
dùng tâm tùy duyên ở nơi cảnh nghịch, tâm địa tự bình, chẳng bị ngoại vật làm
lụy, lại tiến đến một bước tu trì thì có thể đạt đến niềm vui lớn của Niết bàn.
G – HỌC LÝ CỦA PHẬT HỌC
1. TAM PHÁP ẤN
Tam pháp ấn, là Đức Phật từ vấn đề:
sanh, lão, bệnh, tử, hiện thực đời người, nghiên cứu ra kết quả, xét nét ra
chân lý, chân lý hiện thực từ quan sát mà có; chân lý này tức là: chư hành vô
thường, chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh. Đây là nhân “tất cả hành khổ” có
thể được bao quát ở trong “chư hành vô thường”; nhưng vì chư hành vô thường rốt
cuộc sẽ phát sinh lý do đau khổ.
sanh, lão, bệnh, tử, hiện thực đời người, nghiên cứu ra kết quả, xét nét ra
chân lý, chân lý hiện thực từ quan sát mà có; chân lý này tức là: chư hành vô
thường, chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh. Đây là nhân “tất cả hành khổ” có
thể được bao quát ở trong “chư hành vô thường”; nhưng vì chư hành vô thường rốt
cuộc sẽ phát sinh lý do đau khổ.
Pháp ấn tức là: “ấn chứng chân lý” cũng
tức là “tiêu chí của Phật pháp”
tức là “tiêu chí của Phật pháp”
CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG; “Hành” của chư hành
là ý chỉ “hiện tượng” sanh diệt biến hóa. Chư hành vô thường là nói tất cả pháp
thế gian sanh, trụ, dị, diệt, sát na không trụ. Việc mà quá khứ có, hiện tại
khởi lên rồi biến khác; hiện tại có thì tương lai chung quy huyễn diệt. Tất cả
việc này đều thuộc vô thường. Chỗ có tất cả hiện tượng đều là đổi dời không
dứt, không có hằng hữu bất biến, xét cho cùng phải sinh diệt, hưng suy thôi!
Việc này ở trong sinh hoạt thường ngày, chư vị đều có thể kinh nghiệm được, cho
nên bất tất phải chứng minh mà tự rõ, Phật pháp tức là từ sự thật “tự rõ” này
mà xuất phát ra.
là ý chỉ “hiện tượng” sanh diệt biến hóa. Chư hành vô thường là nói tất cả pháp
thế gian sanh, trụ, dị, diệt, sát na không trụ. Việc mà quá khứ có, hiện tại
khởi lên rồi biến khác; hiện tại có thì tương lai chung quy huyễn diệt. Tất cả
việc này đều thuộc vô thường. Chỗ có tất cả hiện tượng đều là đổi dời không
dứt, không có hằng hữu bất biến, xét cho cùng phải sinh diệt, hưng suy thôi!
Việc này ở trong sinh hoạt thường ngày, chư vị đều có thể kinh nghiệm được, cho
nên bất tất phải chứng minh mà tự rõ, Phật pháp tức là từ sự thật “tự rõ” này
mà xuất phát ra.
Do nơi vô thường, con người sẽ sanh,
lão, bệnh, tử hoặc dẫn đến sự biến động sự vật mà hóa xấu; nhưng cũng nhân nơi
vô thường, sự vật cũng có hiện tượng chuyển tốt, ví dụ như người nghèo biến
thành kẻ giàu, người yếu biến thành kẻ mạnh mẽ, người ngu biến thành người
hiền, người mê khổ đạt được niềm vui tịnh ngộ, đây đều là vô thường của thế
gian. Nhưng vô thường trong Phật pháp chỉ là biến diệt, mà không phải là đoạn
diệt. Món biến diệt này là trước diệt sau sinh, nối nhau không dứt. Mà tình
huống sinh diệt thay thế, tương tục không dừng, tức là chân lý trong nhân sinh
và trong vũ trụ, tất cả hiện tượng.
lão, bệnh, tử hoặc dẫn đến sự biến động sự vật mà hóa xấu; nhưng cũng nhân nơi
vô thường, sự vật cũng có hiện tượng chuyển tốt, ví dụ như người nghèo biến
thành kẻ giàu, người yếu biến thành kẻ mạnh mẽ, người ngu biến thành người
hiền, người mê khổ đạt được niềm vui tịnh ngộ, đây đều là vô thường của thế
gian. Nhưng vô thường trong Phật pháp chỉ là biến diệt, mà không phải là đoạn
diệt. Món biến diệt này là trước diệt sau sinh, nối nhau không dứt. Mà tình
huống sinh diệt thay thế, tương tục không dừng, tức là chân lý trong nhân sinh
và trong vũ trụ, tất cả hiện tượng.
CHƯ PHÁP VÔ NGÃ, chữ “pháp” ở trong chư
pháp là ý chỉ sự vật tồn tại. Mà “ngã” của vô ngã là ý “thật thể vĩnh viễn bất
biến”. Chư pháp vô ngã là nói tất cả sự vật tồn tại đều không có thật thể vĩnh
cửu bất biến, sự vật thế gian có hiện tượng tồn tại, đều là nhân duyên hòa hợp
mà có, rồi đến lúc nhân duyên ly tán, thì lại tiêu mất không sót lại, cũng
không có thật thể thường trụ bất hoại.
pháp là ý chỉ sự vật tồn tại. Mà “ngã” của vô ngã là ý “thật thể vĩnh viễn bất
biến”. Chư pháp vô ngã là nói tất cả sự vật tồn tại đều không có thật thể vĩnh
cửu bất biến, sự vật thế gian có hiện tượng tồn tại, đều là nhân duyên hòa hợp
mà có, rồi đến lúc nhân duyên ly tán, thì lại tiêu mất không sót lại, cũng
không có thật thể thường trụ bất hoại.
Muôn pháp thế gian, trên thời gian mà
xét, thì sanh, trụ, dị, diệt, sát na chẳng thấy được, tìm không ra vĩnh hằng và
thường trụ; nơi không gian mà nhìn, pháp nhân duyên được sinh, nhờ các duyên
hòa hợp mà thành, muôn vật không chân thật, cũng không có “ngã” chân thật.
xét, thì sanh, trụ, dị, diệt, sát na chẳng thấy được, tìm không ra vĩnh hằng và
thường trụ; nơi không gian mà nhìn, pháp nhân duyên được sinh, nhờ các duyên
hòa hợp mà thành, muôn vật không chân thật, cũng không có “ngã” chân thật.
Đứng trên Phật pháp mà nói, chỗ gọi là
NGÃ, chỉ là cái thể hòa hợp của: địa, thủy, hỏa, phong – Năm uẩn là: sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Đại thể mà nói, chỗ gọi là Ngã, chẳng ra ngoài hai phần là
tinh thần và nhục thể. Mà ngã con người chấp trước đó, cũng tức là lấy cái giả
tướng tinh thần và nhục thể này làm Ngã. Nhưng chín chắn mà phân tích, ở trong
giả tướng này, rốt cuộc thì tinh thần là Ngã ư, hay nhục thể là Ngã?
NGÃ, chỉ là cái thể hòa hợp của: địa, thủy, hỏa, phong – Năm uẩn là: sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Đại thể mà nói, chỗ gọi là Ngã, chẳng ra ngoài hai phần là
tinh thần và nhục thể. Mà ngã con người chấp trước đó, cũng tức là lấy cái giả
tướng tinh thần và nhục thể này làm Ngã. Nhưng chín chắn mà phân tích, ở trong
giả tướng này, rốt cuộc thì tinh thần là Ngã ư, hay nhục thể là Ngã?
Ngã chơn chánh, chỉ là chơn như Phật
tánh của chúng ta, nhưng chơn như Phật tánh này bị vọng tưởng chấp trước ngăn
che, rồi chấp trước cái tướng giả hợp của năm uẩn này làm Ngã. Mà tướng giả hợp
của năm uẩn này, không thể thường trụ, không có tự thể, cho nên đối với bốn
đại, năm uẩn mà cầu Ngã ở trong đó, rốt cuộc chẳng thể có được.
tánh của chúng ta, nhưng chơn như Phật tánh này bị vọng tưởng chấp trước ngăn
che, rồi chấp trước cái tướng giả hợp của năm uẩn này làm Ngã. Mà tướng giả hợp
của năm uẩn này, không thể thường trụ, không có tự thể, cho nên đối với bốn
đại, năm uẩn mà cầu Ngã ở trong đó, rốt cuộc chẳng thể có được.
Vô ngã cùng với không, không tánh, vô,
là đồng nghĩa ngữ, chư vị lúc đọc tụng kinh điển Phật giáo, nghìn vạn chẳng nên
đem “không” cùng với “vô” mà giải thích là hư vô, mà nên lấy quan niệm của “vô
ngã” để mà tư duy về nó.
là đồng nghĩa ngữ, chư vị lúc đọc tụng kinh điển Phật giáo, nghìn vạn chẳng nên
đem “không” cùng với “vô” mà giải thích là hư vô, mà nên lấy quan niệm của “vô
ngã” để mà tư duy về nó.
Chư hành vô thường, mọi người đều rất
dễ tiếp thọ; nhưng chư pháp vô ngã thì là mọi người không thừa nhận, mà là học
thuyết riêng có của Phật pháp. Mọi người cho là tất cả sự vật, đều có bản thể
vĩnh cửu tồn tại, đây tức là “bản thể luận”; Phật pháp không bàn về bản thể luận,
nhân vì vô ích đối với tu hành giải thoát, cho nên đối với loại vấn đề này nói
là “vô ký” (không nhân duyên có thể nói).
dễ tiếp thọ; nhưng chư pháp vô ngã thì là mọi người không thừa nhận, mà là học
thuyết riêng có của Phật pháp. Mọi người cho là tất cả sự vật, đều có bản thể
vĩnh cửu tồn tại, đây tức là “bản thể luận”; Phật pháp không bàn về bản thể luận,
nhân vì vô ích đối với tu hành giải thoát, cho nên đối với loại vấn đề này nói
là “vô ký” (không nhân duyên có thể nói).
NIẾT BÀN TỊCH TỊNH, Niết bàn ý chỉ “sự
suy diệt” hoặc là “trạng thái suy diệt” tức là thổi tan diệt đi lửa phiền não.
Chỗ gọi là Niết bàn tịch tịnh, tức là đạt đến cảnh địa lý tưởng không khổ, an
ổn và tự tại.
suy diệt” hoặc là “trạng thái suy diệt” tức là thổi tan diệt đi lửa phiền não.
Chỗ gọi là Niết bàn tịch tịnh, tức là đạt đến cảnh địa lý tưởng không khổ, an
ổn và tự tại.
Chúng sanh vì lý do ngã chấp, khởi hoặc
tạo nghiệp, nhân nơi nghiệp mà thọ báo, cho nên ngã chấp là cái gốc của sinh tử
lưu chuyển. Nếu không có ngã chấp thì hoặc nghiệp không khởi, ngay sau đó có
thể hiểu chân chánh thật tướng các pháp, tất cả tức là Niết bàn tịch tịnh.
tạo nghiệp, nhân nơi nghiệp mà thọ báo, cho nên ngã chấp là cái gốc của sinh tử
lưu chuyển. Nếu không có ngã chấp thì hoặc nghiệp không khởi, ngay sau đó có
thể hiểu chân chánh thật tướng các pháp, tất cả tức là Niết bàn tịch tịnh.
“Chư hành vô thường”, “chư pháp vô
ngã”, hai pháp ấn đó là ấn chứng tất cả pháp hữu vi của thế gian đều là pháp
sinh diệt. Pháp ấn “Niết bàn tịch tịnh” là ấn chứng pháp vô vi của xuất thế
gian, đó là pháp bất sinh bất diệt.
ngã”, hai pháp ấn đó là ấn chứng tất cả pháp hữu vi của thế gian đều là pháp
sinh diệt. Pháp ấn “Niết bàn tịch tịnh” là ấn chứng pháp vô vi của xuất thế
gian, đó là pháp bất sinh bất diệt.
2. MƯỜI HAI DUYÊN KHỞI (Mười hai hữu chi)
Đem ba ấn tổng hợp lại tức là thuyết
duyên khởi. Duyên khởi (còn gọi là nhân duyên) tức là nương nơi duyên mà khởi;
nương duyên là chỉ sự chứa nhóm điều kiện. Khởi, là ý chỉ cho năng lực phát
sinh. Do đây, duyên khởi tức là chứa đựng các món điều kiện mà sản sinh ra
nguyên lý của hiện tượng. Hiện tượng là vô thường, thường hay sinh diệt biến
hóa, nhưng sự biến hóa của nó là sự biến hóa nhất định ở một điều kiện nhất
định, pháp biến hóa này thì cũng tức là duyên khởi.
duyên khởi. Duyên khởi (còn gọi là nhân duyên) tức là nương nơi duyên mà khởi;
nương duyên là chỉ sự chứa nhóm điều kiện. Khởi, là ý chỉ cho năng lực phát
sinh. Do đây, duyên khởi tức là chứa đựng các món điều kiện mà sản sinh ra
nguyên lý của hiện tượng. Hiện tượng là vô thường, thường hay sinh diệt biến
hóa, nhưng sự biến hóa của nó là sự biến hóa nhất định ở một điều kiện nhất
định, pháp biến hóa này thì cũng tức là duyên khởi.
Trung tâm của Phật pháp tức là duyên
khởi cũng gọi là nhân duyên, cũng là chỗ không đồng về triết học giữa Phật pháp
và các tôn giáo khác, đó là cái đặc sắc riêng có của Phật pháp.
khởi cũng gọi là nhân duyên, cũng là chỗ không đồng về triết học giữa Phật pháp
và các tôn giáo khác, đó là cái đặc sắc riêng có của Phật pháp.
Có thể đem duyên khởi (nhân duyên) nói
một cách rất cụ thể đó là thuyết mười hai duyên khởi; thế nào gọi là mười hai
duyên khởi, tức là: vô minh – hành – thức – danh sắc – lục nhập – xúc – thọ –
ái – thủ – hữu – sanh – lão tử, mười hai chi phần. Mỗi chi phần đều có sự quan
hệ hỗ tương ràng buộc thành vòng, tức là nói vô minh duyên với hành… sanh
duyên với lão tử, đây cũng tức là “lưu chuyển duyên khởi”, đau khổ tạo thành
phiền não mà sản sinh ra. Lại nói do vô minh diệt, thì hành diệt… cho đến
sanh diệt thì lão tử diệt, đây cũng tức là “hoàn diệt duyên khởi”, diệt hết
phiền não thì là cảnh giải thoát.
một cách rất cụ thể đó là thuyết mười hai duyên khởi; thế nào gọi là mười hai
duyên khởi, tức là: vô minh – hành – thức – danh sắc – lục nhập – xúc – thọ –
ái – thủ – hữu – sanh – lão tử, mười hai chi phần. Mỗi chi phần đều có sự quan
hệ hỗ tương ràng buộc thành vòng, tức là nói vô minh duyên với hành… sanh
duyên với lão tử, đây cũng tức là “lưu chuyển duyên khởi”, đau khổ tạo thành
phiền não mà sản sinh ra. Lại nói do vô minh diệt, thì hành diệt… cho đến
sanh diệt thì lão tử diệt, đây cũng tức là “hoàn diệt duyên khởi”, diệt hết
phiền não thì là cảnh giải thoát.
Mười hai duyên khởi (nhân duyên) là giáo lý của người học Phật rất phải nên xem
trọng, chín chắn mà xem xét mười hai duyên khởi, mới có thể ngộ được sự lưu
chuyển ba đời của sinh vật, chỉ là sự nhào lộn ở trong một cái lưới nghiệp lực.
Nay đem mười hai duyên khởi phân chia
đơn giản ranh giới như sau:
đơn giản ranh giới như sau:
2.1. Vô minh: tức là không hay biết. Chỉ trong tâm
con người không rõ phiền não, mờ mịt nơi cảnh không, không chỗ rõ hiểu, mê chấp
chấp tướng, bởi vì một niệm ban đầu của tâm tánh gọi là “sanh tướng vô minh”;
vô minh làm nguồn gốc của phiền não thô và tế mê hoặc vọng tâm, là nguồn gốc
của “phần đoạn sinh tử” và “biến dịch sinh tử”; đồng thời cũng là căn bản của
Niết bàn giải thoát và Bồ đề tịch tịnh.
con người không rõ phiền não, mờ mịt nơi cảnh không, không chỗ rõ hiểu, mê chấp
chấp tướng, bởi vì một niệm ban đầu của tâm tánh gọi là “sanh tướng vô minh”;
vô minh làm nguồn gốc của phiền não thô và tế mê hoặc vọng tâm, là nguồn gốc
của “phần đoạn sinh tử” và “biến dịch sinh tử”; đồng thời cũng là căn bản của
Niết bàn giải thoát và Bồ đề tịch tịnh.
2.2. Hành: tức là ba hành: thân – ngữ – ý, cũng
gọi là ba nghiệp. Nhân vì có vô minh mê hoặc vọng tâm, vô ngã vọng chấp có ngã,
bèn khởi hoặc tạo nghiệp, bèn có hành động của nghiệp, sản sinh ba nghiệp thân
– ngữ – ý sai lệch. Hành này không những là chỉ hành vi sai lầm, cũng là bao
quát tập quán lực của hành vi, nhân vì bất kỳ hành vi, kinh nghiệm nào của
chúng ta, rõ chẳng phải là sau hành vi thì sẽ tiêu diệt, mà là nhất định sẽ có
lực lưu giữ, tác động làm trí năng, tánh cách… Các tố chất mà bảo tồn, chứa
nhóm.
gọi là ba nghiệp. Nhân vì có vô minh mê hoặc vọng tâm, vô ngã vọng chấp có ngã,
bèn khởi hoặc tạo nghiệp, bèn có hành động của nghiệp, sản sinh ba nghiệp thân
– ngữ – ý sai lệch. Hành này không những là chỉ hành vi sai lầm, cũng là bao
quát tập quán lực của hành vi, nhân vì bất kỳ hành vi, kinh nghiệm nào của
chúng ta, rõ chẳng phải là sau hành vi thì sẽ tiêu diệt, mà là nhất định sẽ có
lực lưu giữ, tác động làm trí năng, tánh cách… Các tố chất mà bảo tồn, chứa
nhóm.
2.3. Thức: là ý chỉ “chủ thể nhận thức” tức là
tâm nhận thức chủ quan. Nhân do ở sự lưu chuyển của nghiệp lực mà hình thành
chủ thể sinh mệnh.
tâm nhận thức chủ quan. Nhân do ở sự lưu chuyển của nghiệp lực mà hình thành
chủ thể sinh mệnh.
2.4. Danh sắc: tức là năm uẩn. Thọ, tưởng, hành,
thức uẩn là chỉ phương diện tinh thần danh; sắc uẩn gọi là sắc, là chỉ phương
diện nhục thể hoặc vật chất. Tất cả hữu tình đều là do “danh – sắc” hòa hợp mà
thành, do sự phát triển và tích tụ của thức mà có sự tác dụng của sinh lý và
tác dụng của tinh thần.
thức uẩn là chỉ phương diện tinh thần danh; sắc uẩn gọi là sắc, là chỉ phương
diện nhục thể hoặc vật chất. Tất cả hữu tình đều là do “danh – sắc” hòa hợp mà
thành, do sự phát triển và tích tụ của thức mà có sự tác dụng của sinh lý và
tác dụng của tinh thần.
2.5. Lục nhập: chỉ sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý; ý tức là cảm giác, năng lực biết. Danh sắc tiếp tục phát đạt mà hoàn
thành nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, cảm thọ được cơ quan kích thích từ bên ngoài
đến.
thân, ý; ý tức là cảm giác, năng lực biết. Danh sắc tiếp tục phát đạt mà hoàn
thành nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, cảm thọ được cơ quan kích thích từ bên ngoài
đến.
2.6. Xúc: tức là sự hòa hợp của ba món: sáu
căn, sáu cảnh, sáu thức; cũng tức là do: căn, cảnh, thức mà có tác dụng nhận
thức cảm giác. Nhân vì có sáu căn, nó sẽ có thể cảm thọ và xúc đối cảnh giới
sáu trần; xúc là một chi trọng yếu mười phần trong mười hai duyên khởi. “Năng
xúc” là căn, “sở xúc” là cảnh, hoàn cảnh tốt xấu, thì sẽ liên hệ cảm thọ nơi
căn của chúng ta.
căn, sáu cảnh, sáu thức; cũng tức là do: căn, cảnh, thức mà có tác dụng nhận
thức cảm giác. Nhân vì có sáu căn, nó sẽ có thể cảm thọ và xúc đối cảnh giới
sáu trần; xúc là một chi trọng yếu mười phần trong mười hai duyên khởi. “Năng
xúc” là căn, “sở xúc” là cảnh, hoàn cảnh tốt xấu, thì sẽ liên hệ cảm thọ nơi
căn của chúng ta.
2.7. Thoï: Căn và trần xúc đối với nhau, nhất
định sẽ tiếp thọ cảnh trần bị xúc đối (sở xúc). Thí như “nhĩ căn” của chúng ta
đối với “thinh trần” thì sẽ tiếp thọ các thứ âm thinh, thân căn tiếp xúc lạnh
nóng (trần) thì biết cảm thọ lạnh nóng. Trở lên, thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ là năm chi quả khổ của đời hiện tại.
định sẽ tiếp thọ cảnh trần bị xúc đối (sở xúc). Thí như “nhĩ căn” của chúng ta
đối với “thinh trần” thì sẽ tiếp thọ các thứ âm thinh, thân căn tiếp xúc lạnh
nóng (trần) thì biết cảm thọ lạnh nóng. Trở lên, thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ là năm chi quả khổ của đời hiện tại.
2.8. Ái: Ái là tham ái, sáu căn lãnh thọ sáu
trần như vậy, đối với cảnh bị tiếp nhận, vọng sanh suy tính phân biệt, đối với
việc vui thích nơi tâm lại sinh tâm tham ái, không thích nơi tâm thì khởi tâm
nhàm ghét. Tâm tham ái và nhàm ghét này, nó là cội nguồn sanh tử luân hồi của
sáu đường chúng sinh. Phát tâm Phật học tu hành, tức là cần phải tu cái tâm
vọng tưởng. Tác dụng của ái rất là lớn, ái có bảy món tình niệm: hỉ (mừng), nộ
(giận), ai (buồn), lạc (vui), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn).
trần như vậy, đối với cảnh bị tiếp nhận, vọng sanh suy tính phân biệt, đối với
việc vui thích nơi tâm lại sinh tâm tham ái, không thích nơi tâm thì khởi tâm
nhàm ghét. Tâm tham ái và nhàm ghét này, nó là cội nguồn sanh tử luân hồi của
sáu đường chúng sinh. Phát tâm Phật học tu hành, tức là cần phải tu cái tâm
vọng tưởng. Tác dụng của ái rất là lớn, ái có bảy món tình niệm: hỉ (mừng), nộ
(giận), ai (buồn), lạc (vui), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn).
HỈ: thành tựu được việc ta yêu thích,
trong tâm sẽ hoan hỉ.
trong tâm sẽ hoan hỉ.
NỘ: bị tước đoạt việc ta yêu thích,
trong tâm sinh giận.
trong tâm sinh giận.
AI: bị mất đi cái ta yêu thích, trong
tâm sinh buồn rầu.
tâm sinh buồn rầu.
LẠC: được cái ta yêu thích, trong tâm
vui vẻ.
vui vẻ.
ÁI: tất cả hoàn cảnh hễ có lợi đối với
ta, thì trong tâm khởi sinh tham ái, vọng niệm tham đến mức không nhàm chán.
ta, thì trong tâm khởi sinh tham ái, vọng niệm tham đến mức không nhàm chán.
Ố: việc trái với sự yêu thích của ta,
trong tâm sinh nhàm ghét.
trong tâm sinh nhàm ghét.
DỤC: Thuận theo sự yêu thích của ta,
trong tâm sẽ sinh ham muốn.
trong tâm sẽ sinh ham muốn.
Nương đây mà xem, thì Ái đích xác là
căn bản của sinh tử, món ác hàng đầu của phiền não.
căn bản của sinh tử, món ác hàng đầu của phiền não.
2.9. Thuû: Đã Ái rồi cảnh giới năm dục bị tham,
thì nghĩ cho hết cách thu lấy nó về mình, theo sự ham muốn của tâm làm cho ta
được hưởng thụ, càng nhiều càng tốt, chẳng nghi vấn một chút nào, rồi sẽ làm ra
món món nghiệp ác, nếu như cảm thấy hoàn cảnh trái lại sự yêu thích của ta, thì
phát sanh phẫn hận, không kể gì cả, mặc ý vọng làm ra rất nhiều nghiệp tội lỗi;
cho nên nói rằng Thủ là đứng đầu của tội và là đầu mối của họa, chúng ta nên
từng giờ từng khắc nắm chặt lấy cái miệng cột của Thủ, có thể đoạn trừ được cái
nhân phiền não, khả dĩ khỏi thọ khổ sinh tử, Thủ này và Ái, cho đến Vô minh, ba
chi này gọi là “nhân mê hoặc của phiền não”.
thì nghĩ cho hết cách thu lấy nó về mình, theo sự ham muốn của tâm làm cho ta
được hưởng thụ, càng nhiều càng tốt, chẳng nghi vấn một chút nào, rồi sẽ làm ra
món món nghiệp ác, nếu như cảm thấy hoàn cảnh trái lại sự yêu thích của ta, thì
phát sanh phẫn hận, không kể gì cả, mặc ý vọng làm ra rất nhiều nghiệp tội lỗi;
cho nên nói rằng Thủ là đứng đầu của tội và là đầu mối của họa, chúng ta nên
từng giờ từng khắc nắm chặt lấy cái miệng cột của Thủ, có thể đoạn trừ được cái
nhân phiền não, khả dĩ khỏi thọ khổ sinh tử, Thủ này và Ái, cho đến Vô minh, ba
chi này gọi là “nhân mê hoặc của phiền não”.
2.10. Hữu: tức là cái hữu “bất muội của nhân
quả”, đối với cảnh bị ái, đem nó mà giữ gìn, đối với cảnh chẳng ái xả trừ nó
đi, nhân đó bèn làm ra các món nghiệp, thật là biển nghiệp mênh mông, khổ não
vô lượng, có nhân nghiệp nhất định báo cảm lấy quả nghiệp.
quả”, đối với cảnh bị ái, đem nó mà giữ gìn, đối với cảnh chẳng ái xả trừ nó
đi, nhân đó bèn làm ra các món nghiệp, thật là biển nghiệp mênh mông, khổ não
vô lượng, có nhân nghiệp nhất định báo cảm lấy quả nghiệp.
2.11. Sinh: Chỉ là do tình sanh đối với một bộ
loại hữu tình nào đó, hoặc chỉ cho luật sống ngày thường, có kinh nghiệm sinh
ý. Trước ấy là cậy các lực (tri năng, tính cách thể chất) toàn bộ kinh nghiệm
trong quá khứ của hữu tình mà sinh, cho nên mỗi con người đều đủ có tố chất
nhất định. Sau ấy là chỉ cái tố chất (hữu) của con người làm cơ sở, mà có kinh
nghiệm mới sẽ được phát sinh. Tóm lại, cả hai việc ấy đều là từ nơi Hữu mà sản
sinh ra sự sống mới.
loại hữu tình nào đó, hoặc chỉ cho luật sống ngày thường, có kinh nghiệm sinh
ý. Trước ấy là cậy các lực (tri năng, tính cách thể chất) toàn bộ kinh nghiệm
trong quá khứ của hữu tình mà sinh, cho nên mỗi con người đều đủ có tố chất
nhất định. Sau ấy là chỉ cái tố chất (hữu) của con người làm cơ sở, mà có kinh
nghiệm mới sẽ được phát sinh. Tóm lại, cả hai việc ấy đều là từ nơi Hữu mà sản
sinh ra sự sống mới.
2.12. Lão tưû: Từ Sinh về sau phát sinh ra lão,
bệnh, tử, buồn rầu khổ não,… cuối cùng bước lên con đường tử vong. Lão và tử
là đại biểu cho cái khổ não của tất cả.
bệnh, tử, buồn rầu khổ não,… cuối cùng bước lên con đường tử vong. Lão và tử
là đại biểu cho cái khổ não của tất cả.
Lợi dụng nguyên lý của 12 duyên khởi,
có thể giải dịch ra hiện tượng luân hồi của ba đời. Nói một cách tổng quát, tức
là HOẶC (duyên), NGHIỆP (báo), KHỔ (báo); tức là nhân nơi Hoặc (phiền não) ắt
tạo Nghiệp, do nơi tạo Nghiệp nhất định thọ báo mà sinh Khổ, nhân nơi Khổ mà
sinh ra phiền não mới. Như vậy ba món này xoay vần xen nhau làm nhân duyên, mãi
luân hồi trọn không dừng dứt. Cũng tức là nói, do nơi Vô minh, Ái, Thủ duyên
với các món phiền não, bèn có cái nhân đó mà tạo thành Thức, danh sắc, lục
nhập, xúc, thọ, lão và tử v.v… các khổ báo.
có thể giải dịch ra hiện tượng luân hồi của ba đời. Nói một cách tổng quát, tức
là HOẶC (duyên), NGHIỆP (báo), KHỔ (báo); tức là nhân nơi Hoặc (phiền não) ắt
tạo Nghiệp, do nơi tạo Nghiệp nhất định thọ báo mà sinh Khổ, nhân nơi Khổ mà
sinh ra phiền não mới. Như vậy ba món này xoay vần xen nhau làm nhân duyên, mãi
luân hồi trọn không dừng dứt. Cũng tức là nói, do nơi Vô minh, Ái, Thủ duyên
với các món phiền não, bèn có cái nhân đó mà tạo thành Thức, danh sắc, lục
nhập, xúc, thọ, lão và tử v.v… các khổ báo.
Mười hai duyên khởi (nhân duyên) là đạo
lý dùng để giải thích con người vì sao ở trong biển khổ sinh tử vần xoay luân
hồi. Mười hai duyên khởi xem ra là từ vô minh… cho đến lão tử, nương nơi thứ
loại mà tìm chọn. Nhưng nó chẳng phải là một đường thẳng mà là một hình vòng
tròn mắc xích với nhau. Mạng sống tức là như thế này, đầu mà cuối, cuối mà lại
đầu, lưu chuyển luân hồi không dừng, giống như gà… trứng…, trứng… gà…
lý dùng để giải thích con người vì sao ở trong biển khổ sinh tử vần xoay luân
hồi. Mười hai duyên khởi xem ra là từ vô minh… cho đến lão tử, nương nơi thứ
loại mà tìm chọn. Nhưng nó chẳng phải là một đường thẳng mà là một hình vòng
tròn mắc xích với nhau. Mạng sống tức là như thế này, đầu mà cuối, cuối mà lại
đầu, lưu chuyển luân hồi không dừng, giống như gà… trứng…, trứng… gà…
Sự suy lão, tử vong của chúng sinh tức
là nhân vì chúng ta có sinh, có sinh mới có chết. Mà chúng ta sở dĩ đầu thai
đến nhân gian, đây là chúng ta đã vì ngu xuẩn và vô tri, không rõ thị phi, vọng
loạn làm ác. Do đó chúng ta đời này cần nỗ lực làm thiện, đoạn tuyệt tất cả
nhân ác, học Phật tu hành, thường thường trì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, về sau
khỏi phải thọ lấy luân hồi khổ báo.
là nhân vì chúng ta có sinh, có sinh mới có chết. Mà chúng ta sở dĩ đầu thai
đến nhân gian, đây là chúng ta đã vì ngu xuẩn và vô tri, không rõ thị phi, vọng
loạn làm ác. Do đó chúng ta đời này cần nỗ lực làm thiện, đoạn tuyệt tất cả
nhân ác, học Phật tu hành, thường thường trì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, về sau
khỏi phải thọ lấy luân hồi khổ báo.
Mười hai duyên khởi chỉ bảo chúng ta
cái nguyên nhân sinh tử, đánh thức chúng ta cần phải tiến một bước nghiên cứu
như thế nào liễu thoát khỏi sự uy hiếp của sinh tử, chẳng vậy thì sống say chết
mộng, khổ nạn vĩnh viễn, không có ngày ngừng nghỉ.
cái nguyên nhân sinh tử, đánh thức chúng ta cần phải tiến một bước nghiên cứu
như thế nào liễu thoát khỏi sự uy hiếp của sinh tử, chẳng vậy thì sống say chết
mộng, khổ nạn vĩnh viễn, không có ngày ngừng nghỉ.
3. BỐN THÁNH ĐẾ:
* Bốn thánh đế – nói chung:
Thuyết mười hai duyên khởi (nhân duyên)
là viết ra chú trọng ở việc nói rõ khổ trên “duyên khởi lưu chuyển” sản sinh
như thế nào, mà đối với diệt khổ “duyên khởi hoàn diệt” cho đến khi đạt đến
giải thoát, chỉ có thuyết minh tiêu cực mà không cụ thể. Liên quan với duyên
khởi hoàn diệt là đạo đế ở trong bốn thánh đế, tức là tám món chánh đạo (bát
chánh đạo), có thuyết minh cụ thể rõ ràng. Do đó, vì muốn khảo sát toàn diện
thuyết duyên khởi để thấy, không chỉ cần nói rõ duyên khởi, đồng thời cũng cần
nghiên cứu đạo lý thực tiễn của bốn thánh đế.
là viết ra chú trọng ở việc nói rõ khổ trên “duyên khởi lưu chuyển” sản sinh
như thế nào, mà đối với diệt khổ “duyên khởi hoàn diệt” cho đến khi đạt đến
giải thoát, chỉ có thuyết minh tiêu cực mà không cụ thể. Liên quan với duyên
khởi hoàn diệt là đạo đế ở trong bốn thánh đế, tức là tám món chánh đạo (bát
chánh đạo), có thuyết minh cụ thể rõ ràng. Do đó, vì muốn khảo sát toàn diện
thuyết duyên khởi để thấy, không chỉ cần nói rõ duyên khởi, đồng thời cũng cần
nghiên cứu đạo lý thực tiễn của bốn thánh đế.
Thuyết mười hai duyên khởi là pháp môn
“tự nội chứng”, cũng tức là “tự hành pháp môn”. Căn cứ thuyết Đức Phật Đà quán
sát sở đắc từ thiền định tư duy lúc thành Phật đạo dưới cội Bồ Đề, chỗ đối
nhau, thuyết bốn thánh đế là “tha hóa pháp môn” nêu bày làm người khác hiểu rõ
thuyết duyên khởi. Tức là lời dạy bốn thánh đế của Đức Phật ở tại vườn Lộc dã
thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo, đây là bắt đầu Đức Phật độ chúng sinh.
“tự nội chứng”, cũng tức là “tự hành pháp môn”. Căn cứ thuyết Đức Phật Đà quán
sát sở đắc từ thiền định tư duy lúc thành Phật đạo dưới cội Bồ Đề, chỗ đối
nhau, thuyết bốn thánh đế là “tha hóa pháp môn” nêu bày làm người khác hiểu rõ
thuyết duyên khởi. Tức là lời dạy bốn thánh đế của Đức Phật ở tại vườn Lộc dã
thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo, đây là bắt đầu Đức Phật độ chúng sinh.
Bốn thánh đế thật sự là cơ sở của Phật giáo,
cũng là tư tưởng trung tâm của phật pháp.
cũng là tư tưởng trung tâm của phật pháp.
Bốn thánh đế là bốn pháp: khổ, tập,
diệt, đạo. Đế ý là “chân thật bất hư”; đế này là chỗ biết của bậc thánh, cho
nên gọi là “thánh đế”.
diệt, đạo. Đế ý là “chân thật bất hư”; đế này là chỗ biết của bậc thánh, cho
nên gọi là “thánh đế”.
THÁNH, cùng với “Phàm” đối nhau, chỉ
cho người ngộ được xuất thế gian vô lậu vượt khỏi sinh tử luân hồi. ĐẾ, tức là
chân lý. “Khổ đế” là chỉ cho hiện tượng của sinh mạng, đều là quả khổ. “Tập đế”
là nói rõ nguyên nhân tạo thành quả khổ. “Diệt đế” là nói rõ trạng thái lý
tưởng diệt hết tất cả phiền não mà vào Niết bàn. “Đạo đế” là nói rõ phương pháp
dẫn dắt diệt hết tất cả phiền não đau khổ.
cho người ngộ được xuất thế gian vô lậu vượt khỏi sinh tử luân hồi. ĐẾ, tức là
chân lý. “Khổ đế” là chỉ cho hiện tượng của sinh mạng, đều là quả khổ. “Tập đế”
là nói rõ nguyên nhân tạo thành quả khổ. “Diệt đế” là nói rõ trạng thái lý
tưởng diệt hết tất cả phiền não mà vào Niết bàn. “Đạo đế” là nói rõ phương pháp
dẫn dắt diệt hết tất cả phiền não đau khổ.
Bốn thánh đế bao gồm hết hai lớp nhân
quả của thế gian và xuất thế gian: Tập là nhân, khổ là quả, đó là nhân quả của
cõi mê. Đạo là nhơn, diệt là quả, đó là nhân quả của cảnh ngộ. Đức Phật nói
pháp, trước tiên nói “khổ”, sau đó nói “tập”, bèn là muốn khiến cho chúng sinh
trước tiên phải nhàm chán ở sự bức bách đuổi rượt của các khổ và các nguyên do
của các khổ, bèn liên hệ chỗ chiêu cảm của tập, khiến chúng sinh biết khổ mà
đoạn tập, trước nói “diệt”, sau nói “đạo” là muốn chúng sinh, trước mừng ở nơi
diệt, của sự an lạc thanh tịnh, truy tìm nguyên nhân của diệt, bèn phát ra sự
tu tập của đạo, khiến chúng sinh tu đạo mà chứng diệt. Chỗ nói rằng khổ phải
biết, tập phải đoạn, diệt cần chứng, đạo phải tu là vậy.
quả của thế gian và xuất thế gian: Tập là nhân, khổ là quả, đó là nhân quả của
cõi mê. Đạo là nhơn, diệt là quả, đó là nhân quả của cảnh ngộ. Đức Phật nói
pháp, trước tiên nói “khổ”, sau đó nói “tập”, bèn là muốn khiến cho chúng sinh
trước tiên phải nhàm chán ở sự bức bách đuổi rượt của các khổ và các nguyên do
của các khổ, bèn liên hệ chỗ chiêu cảm của tập, khiến chúng sinh biết khổ mà
đoạn tập, trước nói “diệt”, sau nói “đạo” là muốn chúng sinh, trước mừng ở nơi
diệt, của sự an lạc thanh tịnh, truy tìm nguyên nhân của diệt, bèn phát ra sự
tu tập của đạo, khiến chúng sinh tu đạo mà chứng diệt. Chỗ nói rằng khổ phải
biết, tập phải đoạn, diệt cần chứng, đạo phải tu là vậy.
* Bốn thánh đế – chia ra nói:
3.1 KHỔ ĐẾ:
Khổ, là chỉ sự bức bách. Chỗ tạo ra vô
số ác nghiệp của chúng sinh từ vô thỉ trở lại đây, ắt chiêu lấy khổ báo, như có
ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ. Trạng huống thực tế tất cả sinh mạng ở trong
cõi mê, đều chẳng có điều gì không là đầy dẫy những nhiễm ô và khổ não, tuy
trong đời người cũng có lạc thú, nhưng cảnh vui này rốt cục sẽ ở nơi vô thường
thay đổidẫn đến tạo ra đau khổ, không có ai có thể trốn được, liên hệ đối với
chủng loại và hiện tượng của khổ sẽ thuật nói ở sau.
số ác nghiệp của chúng sinh từ vô thỉ trở lại đây, ắt chiêu lấy khổ báo, như có
ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ. Trạng huống thực tế tất cả sinh mạng ở trong
cõi mê, đều chẳng có điều gì không là đầy dẫy những nhiễm ô và khổ não, tuy
trong đời người cũng có lạc thú, nhưng cảnh vui này rốt cục sẽ ở nơi vô thường
thay đổidẫn đến tạo ra đau khổ, không có ai có thể trốn được, liên hệ đối với
chủng loại và hiện tượng của khổ sẽ thuật nói ở sau.
Bức bách thân tâm gọi là khổ, tức là
phạm vi của khổ đế. Một hạng người đối với Phật giáo cực lực cường điệu thuyết
pháp: “tất cả hiện tượng thế gian đều là khổ”, hiểu được mà không thể tiếp
nhận, nhân vì ở trong hiện tượng giới, không những có khổ, cũng có vui và không
khổ không vui, đây là sự thật trước mắt, vả lại khổ vui là thuộc ở nơi tình
cảm, tuy nhiên phương diện đối với sự vật, hoàn cảnh đồng dạng. Nhưng do sự
không đồng của nhân con người và nhân thời gian, cảm thọ chủ quan của cá nhân
cũng thường có chỗ không đồng, cho nên không thể nhận chung hiện tượng giới là
tất cả khổ. Thậm chí cho hiện tượng này là điểm cơ bản, quở trách Phật giáo là
tôn giáo yếm thế bi quan. Những việc này đều là chẳng hiểu rõ giáo lý Phật giáo
mà hiểu lầm lạc rồi dẫn nêu ra. Đức Phật nói thế gian có khổ nạn, nhưng đều
chẳng phải là phủ nhận đời người cũng có lạc thú, như cái vui của loài trời,
cái vui của năm căn và cái vui của thiền định… Nhưng những cái vui này là vô
thường, biến dời không ở, rốt rồi vui quá sanh buồn, do đó mà đều bao trùm
trong khổ. Cho nên chư vị về sau, lúc xem đọc tụng kinh điển Phật giáo thấy nói
khổ đều là chỉ “vô thường tức là khổ”, mà không phải là khổ nạn chỗ gọi thông
thường.
phạm vi của khổ đế. Một hạng người đối với Phật giáo cực lực cường điệu thuyết
pháp: “tất cả hiện tượng thế gian đều là khổ”, hiểu được mà không thể tiếp
nhận, nhân vì ở trong hiện tượng giới, không những có khổ, cũng có vui và không
khổ không vui, đây là sự thật trước mắt, vả lại khổ vui là thuộc ở nơi tình
cảm, tuy nhiên phương diện đối với sự vật, hoàn cảnh đồng dạng. Nhưng do sự
không đồng của nhân con người và nhân thời gian, cảm thọ chủ quan của cá nhân
cũng thường có chỗ không đồng, cho nên không thể nhận chung hiện tượng giới là
tất cả khổ. Thậm chí cho hiện tượng này là điểm cơ bản, quở trách Phật giáo là
tôn giáo yếm thế bi quan. Những việc này đều là chẳng hiểu rõ giáo lý Phật giáo
mà hiểu lầm lạc rồi dẫn nêu ra. Đức Phật nói thế gian có khổ nạn, nhưng đều
chẳng phải là phủ nhận đời người cũng có lạc thú, như cái vui của loài trời,
cái vui của năm căn và cái vui của thiền định… Nhưng những cái vui này là vô
thường, biến dời không ở, rốt rồi vui quá sanh buồn, do đó mà đều bao trùm
trong khổ. Cho nên chư vị về sau, lúc xem đọc tụng kinh điển Phật giáo thấy nói
khổ đều là chỉ “vô thường tức là khổ”, mà không phải là khổ nạn chỗ gọi thông
thường.
Bản thân của đời người tức là khổ, là
giáo thuyết cơ bản của Phật giáo, gọi là “khổ thánh đế”, gọi tắt là “khổ đế”,
là cụ thể thuyết minh hiện tượng của khổ. Liên quan đến chủng loại của khổ rất
là nhiều, trong sinh hoạt hằng ngày thường gặp đến, chẳng làm sao kể xiết, nhân
đó đưa ra “tất cả hành khổ” trong một pháp ấn “chư hành vô thường” của ba pháp
ấn, thì đã bao hàm. Như từ kinh văn của “kinh chuyển pháp luân” thuộc kinh điển
nguyên thủy mà nói, có thể đem khổ nói làm tám khổ, tức là: sinh khổ, lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí
thạnh khổ. Nay lần lượt giải thích ở sau.
giáo thuyết cơ bản của Phật giáo, gọi là “khổ thánh đế”, gọi tắt là “khổ đế”,
là cụ thể thuyết minh hiện tượng của khổ. Liên quan đến chủng loại của khổ rất
là nhiều, trong sinh hoạt hằng ngày thường gặp đến, chẳng làm sao kể xiết, nhân
đó đưa ra “tất cả hành khổ” trong một pháp ấn “chư hành vô thường” của ba pháp
ấn, thì đã bao hàm. Như từ kinh văn của “kinh chuyển pháp luân” thuộc kinh điển
nguyên thủy mà nói, có thể đem khổ nói làm tám khổ, tức là: sinh khổ, lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí
thạnh khổ. Nay lần lượt giải thích ở sau.
3.1.1. Sanh khổ: Sanh không phải là chỉ cuộc sống
(sinh hoạt) mà là sinh ra đời (đản sinh). Nhưng ra đời chẳng phải là chỉ cho
sát na ban đầu (kết sinh) lúc mang thai từ thai mẹ, mà do nơi việc tái sinh,
nhất định chịu khổ luân hồi.
(sinh hoạt) mà là sinh ra đời (đản sinh). Nhưng ra đời chẳng phải là chỉ cho
sát na ban đầu (kết sinh) lúc mang thai từ thai mẹ, mà do nơi việc tái sinh,
nhất định chịu khổ luân hồi.
3.1.2. Lão khoå: Lão, trong thơ của người đời Đường
nói: “Công đạo nhân gian duy bạch phát, quý nhơn đầu thượng bất tằng nhiêu”
nghĩa là (chỉ việc bạc tóc cũng là công đạo của nhân gian, trên đầu của kẻ cao
quý cũng chẳng thể dung cho được), thì bất kỳ người nào cũng không thể tránh
khỏi cái già. Con người sau khi lao khổ, bôn ba mấy mươi năm, ngoài ra, các cơ
quan sinh lý khả năng suy thoái, nhân thể lực và sức đề kháng suy nhược thì các
món tật bệnh xâm lấn hoành hành, đều khiến cho con người khó mà nhẫn chịu được
đau khổ, dắt theo cái khổ trên tinh thần, da gà tóc hạt, trạng thái già nua lẩm
cẩm, ai có thể trốn ra khỏi “công lệ già” này.
nói: “Công đạo nhân gian duy bạch phát, quý nhơn đầu thượng bất tằng nhiêu”
nghĩa là (chỉ việc bạc tóc cũng là công đạo của nhân gian, trên đầu của kẻ cao
quý cũng chẳng thể dung cho được), thì bất kỳ người nào cũng không thể tránh
khỏi cái già. Con người sau khi lao khổ, bôn ba mấy mươi năm, ngoài ra, các cơ
quan sinh lý khả năng suy thoái, nhân thể lực và sức đề kháng suy nhược thì các
món tật bệnh xâm lấn hoành hành, đều khiến cho con người khó mà nhẫn chịu được
đau khổ, dắt theo cái khổ trên tinh thần, da gà tóc hạt, trạng thái già nua lẩm
cẩm, ai có thể trốn ra khỏi “công lệ già” này.
3.1.3. Bệnh khổ: Con người từ lúc cất tiếng khóc chào đời, thì đã cùng với
bệnh kết duyên không giải được. Bệnh lúc nhỏ thì đậu mùa, bệnh sởi. Bệnh lúc
trung niên như loét dạ dày, nhọt phổi, kết hạch… Bệnh lúc già như cao huyết
áp, tim tạng bệnh… không thể kể xiết, tóm lại, sinh bệnh thì là khổ.
bệnh kết duyên không giải được. Bệnh lúc nhỏ thì đậu mùa, bệnh sởi. Bệnh lúc
trung niên như loét dạ dày, nhọt phổi, kết hạch… Bệnh lúc già như cao huyết
áp, tim tạng bệnh… không thể kể xiết, tóm lại, sinh bệnh thì là khổ.
3.1.4. Tử khoå: Các cơ của thân thể hoàn toàn không
có năng lực hoạt động, tiêu tan mất tác dụng mà trước khi chết đã có. Bốn đại:
Đất như: xương, thịt, lông, tóc… Nước như: máu, nước dịch, nước tiểu… Lửa:
như nhiệt năng ở trong thân, Gió như là: sự hô hấp, chia cắt ra khiến cho trên
nhục thể và tinh thần gặp đau khổ tột cùng.
có năng lực hoạt động, tiêu tan mất tác dụng mà trước khi chết đã có. Bốn đại:
Đất như: xương, thịt, lông, tóc… Nước như: máu, nước dịch, nước tiểu… Lửa:
như nhiệt năng ở trong thân, Gió như là: sự hô hấp, chia cắt ra khiến cho trên
nhục thể và tinh thần gặp đau khổ tột cùng.
3.1.5. Ái biệt ly khổ: Thanh xuân chia lìa đôi lứa, trung
niên con bị chết non, hoặc vì cầu y thực, hoặc nhân sự bức xúc hình thế, cùng
với người thân yêu chia lià, khổ về sanh ly, tử biệt.
niên con bị chết non, hoặc vì cầu y thực, hoặc nhân sự bức xúc hình thế, cùng
với người thân yêu chia lià, khổ về sanh ly, tử biệt.
3.1.6. Oán tắng hội khổ: Cùng với những kẻ đáng ghét gặp mặt,
lời nói thiếu vị. Xung đột lợi hại, cả hai người chẳng bao dung nhau, lại còn
gặp việc: cùng sống cộng đồng hoặc cùng công tác, nên dẫn đến cái khổ.
lời nói thiếu vị. Xung đột lợi hại, cả hai người chẳng bao dung nhau, lại còn
gặp việc: cùng sống cộng đồng hoặc cùng công tác, nên dẫn đến cái khổ.
3.1.7. Cầu bất đắc khổ: Đồ gì muốn thu được, lực lượng kinh
tế đạt không được, muốn mưu cầu một vị trí, “người nhiều mà cháo ít”, mưu không
được, công việc chỉ muốn cho chính mình không được, vì là ăn không được cơm thì
chẳng làm việc, dục vọng chẳng thể đủ đầy, tức là có sở cầu mà cầu không được, há
chẳng khổ não ư?
tế đạt không được, muốn mưu cầu một vị trí, “người nhiều mà cháo ít”, mưu không
được, công việc chỉ muốn cho chính mình không được, vì là ăn không được cơm thì
chẳng làm việc, dục vọng chẳng thể đủ đầy, tức là có sở cầu mà cầu không được, há
chẳng khổ não ư?
3.1.8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Năm ấm tức là năm uẩn, năm uẩn nhóm
tụ thành thân, như lửa cháy mạnh, bảy món khổ trước đều do đây mà sinh; “Sắc
ấm” xí thạnh (hừng hẫy) bốn đại không điều hòa mà có khổ về tật bệnh; “Thọ ấm”
xí thạnh, lãnh nạp phân chia, khiến cho các gốc chuyển thêm mạnh; “tưởng ấm” xí
thạnh, tưởng tướng tìm cầu, mà có ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, các
điều khổ; “Hành ấm” xí thạnh, khởi tạo các nghiệp, lại là các nhân về sau chịu
báo, vả lại nhân nơi hành mà dời đổi không dừng, nên có khổ về lão suy; “Thức
ấm” xí thạnh thì khởi hoặc tạo nghiệp ba đời lưu chuyển mà có khổ sinh tử.
tụ thành thân, như lửa cháy mạnh, bảy món khổ trước đều do đây mà sinh; “Sắc
ấm” xí thạnh (hừng hẫy) bốn đại không điều hòa mà có khổ về tật bệnh; “Thọ ấm”
xí thạnh, lãnh nạp phân chia, khiến cho các gốc chuyển thêm mạnh; “tưởng ấm” xí
thạnh, tưởng tướng tìm cầu, mà có ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, các
điều khổ; “Hành ấm” xí thạnh, khởi tạo các nghiệp, lại là các nhân về sau chịu
báo, vả lại nhân nơi hành mà dời đổi không dừng, nên có khổ về lão suy; “Thức
ấm” xí thạnh thì khởi hoặc tạo nghiệp ba đời lưu chuyển mà có khổ sinh tử.
Ngoài 8 món khổ trên ra còn riêng có 3
khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
– Khổ
khoå: Thân thể này của chúng ta là thân nghiệp báo, xưa nay trải
qua rất là khổ rồi, lại thêm sự kích động từ bên ngoài đến, như: đói, khát,
lạnh, nóng, đánh, hại… càng tăng thêm nỗi đau khổ, tức là trên khổ lại thêm
khổ, đây là chuyên chỉ cho sự đau khổ trên nhục thể.
khoå: Thân thể này của chúng ta là thân nghiệp báo, xưa nay trải
qua rất là khổ rồi, lại thêm sự kích động từ bên ngoài đến, như: đói, khát,
lạnh, nóng, đánh, hại… càng tăng thêm nỗi đau khổ, tức là trên khổ lại thêm
khổ, đây là chuyên chỉ cho sự đau khổ trên nhục thể.
– Hoại
khoå: Chỉ cho lúc hiện tượng vui vẻ phát sinh biến đổi, tạo
thành đau khổ. Nhân đó mà gọi là khổ biến đổi (biến dịch khổ), đây là món đau
khổ cảm thọ trên tinh thần.
khoå: Chỉ cho lúc hiện tượng vui vẻ phát sinh biến đổi, tạo
thành đau khổ. Nhân đó mà gọi là khổ biến đổi (biến dịch khổ), đây là món đau
khổ cảm thọ trên tinh thần.
– Hành
khoå: Tức là tất
cả hành khổ, chữ “Hành” của hành này là chỉ cho tất cả hiện tượng không thể có
hiện tượng trốn khỏi, dời đổi, biến hóa, mà tất cả các hiện tượng lưu chuyển
đều là khổ. Món khổ này cùng với “ngũ ấm xí thạnh khổ” (của 8 khổ) là ý nghĩa
giống nhau.
khoå: Tức là tất
cả hành khổ, chữ “Hành” của hành này là chỉ cho tất cả hiện tượng không thể có
hiện tượng trốn khỏi, dời đổi, biến hóa, mà tất cả các hiện tượng lưu chuyển
đều là khổ. Món khổ này cùng với “ngũ ấm xí thạnh khổ” (của 8 khổ) là ý nghĩa
giống nhau.
Ở trên thuật lại các hiện tượng khổ,
chỉ là đối với phàm phu mê hoặc, mới phát sinh tác dụng. Đối với bậc thánh giả
đã giải thoát mà nói, là không cảm thọ khổ đó. Song phàm phu chúng sinh thẳng
đến hưởng chịu các món khổ, nhưng chỉ cần có thể kịp thời tỉnh giác, tiến tới
tu hành, do ở nơi khả năng chân chánh thấy được khổ – KHỔ ĐẾ – lại có thể quán
sát ra nguyên nhân của khổ – TẬP ĐẾ – tiến tới muốn đem khổ tiêu diệt – DIỆT ĐẾ
– dẫn đến tìm được phương pháp tiêu diệt khổ – ĐẠO ĐẾ. Như vậy cũng có thể khổ
giảm thiểu tác dụng cho đến không còn.
chỉ là đối với phàm phu mê hoặc, mới phát sinh tác dụng. Đối với bậc thánh giả
đã giải thoát mà nói, là không cảm thọ khổ đó. Song phàm phu chúng sinh thẳng
đến hưởng chịu các món khổ, nhưng chỉ cần có thể kịp thời tỉnh giác, tiến tới
tu hành, do ở nơi khả năng chân chánh thấy được khổ – KHỔ ĐẾ – lại có thể quán
sát ra nguyên nhân của khổ – TẬP ĐẾ – tiến tới muốn đem khổ tiêu diệt – DIỆT ĐẾ
– dẫn đến tìm được phương pháp tiêu diệt khổ – ĐẠO ĐẾ. Như vậy cũng có thể khổ
giảm thiểu tác dụng cho đến không còn.
3.2 TẬP ĐẾ:
Tập, là chỉ cho sự chiêu tập. Phiền não
và đau khổ, chúng sinh thọ lãnh, là từ hoặc nghiệp tham, sân, si của ngã tướng
nương nơi nghiệp thọ báo chiêu gom lại. Chiêu tập cái nhân tất cả pháp khổ,
cũng chính là căn nguyên của biển khổ sinh tử ba cõi. Tập lấy nghiệp làm nhân,
lấy phiền não làm duyên; nghiệp có ba nghiệp: thân, ngữ, ý. Phiền não có: tham,
sân, si lại khiến cho thân, ngữ, ý làm việc bất thiện. Cho nên có cái khổ luân
hồi ba cõi, tạo thành nguyên nhân sanh tử luân hồi không dứt và tất cả thống
khổ tức là “khát ái”. Ý nghĩa một từ “khát ái” này không chỉ là đối với tham
cầu và chấp trước của dục vọng; cũng là bao quát đối với sự tham cầu và chấp
trước của ý niệm, lý tưởng, quan điểm, ý kiến, lý luận, khái niệm, tín
ngưỡng…
và đau khổ, chúng sinh thọ lãnh, là từ hoặc nghiệp tham, sân, si của ngã tướng
nương nơi nghiệp thọ báo chiêu gom lại. Chiêu tập cái nhân tất cả pháp khổ,
cũng chính là căn nguyên của biển khổ sinh tử ba cõi. Tập lấy nghiệp làm nhân,
lấy phiền não làm duyên; nghiệp có ba nghiệp: thân, ngữ, ý. Phiền não có: tham,
sân, si lại khiến cho thân, ngữ, ý làm việc bất thiện. Cho nên có cái khổ luân
hồi ba cõi, tạo thành nguyên nhân sanh tử luân hồi không dứt và tất cả thống
khổ tức là “khát ái”. Ý nghĩa một từ “khát ái” này không chỉ là đối với tham
cầu và chấp trước của dục vọng; cũng là bao quát đối với sự tham cầu và chấp
trước của ý niệm, lý tưởng, quan điểm, ý kiến, lý luận, khái niệm, tín
ngưỡng…
3.3 DIỆT ĐẾ:
Diệt là không khác nào chỉ cho khổ được
diệt. Diệt trừ phiền não sinh tử. Cắt hết nhân TẬP, diệt trừ đau khổ. Đem cái
“khát ái” sở hữu mà diệt đi toàn bộ. Khát ái có thể là đại biểu cho tất cả
phiền não, do đó diệt là diệt hết tất cả phiền não, không có nhiễm trước, vắng
lặng ẩn mất, cũng tức là Niết bàn. Niết bàn chẳng phải là “diệt không”, mà là
xả ly món món chứa nhóm, diệt bỏ tất cả đau khổ, giải thoát khổ não sanh tử của
ba cõi.
diệt. Diệt trừ phiền não sinh tử. Cắt hết nhân TẬP, diệt trừ đau khổ. Đem cái
“khát ái” sở hữu mà diệt đi toàn bộ. Khát ái có thể là đại biểu cho tất cả
phiền não, do đó diệt là diệt hết tất cả phiền não, không có nhiễm trước, vắng
lặng ẩn mất, cũng tức là Niết bàn. Niết bàn chẳng phải là “diệt không”, mà là
xả ly món món chứa nhóm, diệt bỏ tất cả đau khổ, giải thoát khổ não sanh tử của
ba cõi.
3.4 ĐẠO ĐẾ:
Đạo là chỉ chung cho Hành. Cần diệt đau khổ, dứt hết nhân tập, chứng được Niết
bàn. Đạo là tu hành dẫn đến Niết bàn, có thể lìa luân hồi sinh tử mà vào ở nơi
Niết bàn. Đạo này lấy trung dung mà cầu giải thoát, cũng gọi là chánh đạo. Như
thế ở trên cuộc sống tu hành cần làm thế nào mới phù hợp với trung đạo ư? Thế
thì ắt cần nương lần theo “bát chánh đạo” mà tu trì.
4. TÁM CHÁNH ĐẠO
Người cầu đạo, vì đạt đến giác ngộ thật
rốt ráo, nên phải tu học tám món chánh đạo.
rốt ráo, nên phải tu học tám món chánh đạo.
Không tà gọi là chánh, thông đạt không
trở ngại gọi là đạo. Chánh đạo âý có thể khiến chúng sinh trọn dứt khổ và tập,
đạt đến cảnh giới của thánh hiền niết bàn tịch tịnh, cho nên tám món chánh đạo
ấy cũng được gọi là tám món “thánh đạo”
trở ngại gọi là đạo. Chánh đạo âý có thể khiến chúng sinh trọn dứt khổ và tập,
đạt đến cảnh giới của thánh hiền niết bàn tịch tịnh, cho nên tám món chánh đạo
ấy cũng được gọi là tám món “thánh đạo”
Trong tám chánh đạo lấy “chánh kiến”
làm cần thiết đầu tiên, đối với thế giới mới có thể nhận thức chính xác, cũng
mới có thể phá trừ được cái biết cái thấy của thế tục một cách lầm vọng sai
lệnh, mà ngộ nhập chánh đạo. Trừ chánh kiến ra, bảy món chánh đạo kia được phân
chia là: chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm và
chánh định.
làm cần thiết đầu tiên, đối với thế giới mới có thể nhận thức chính xác, cũng
mới có thể phá trừ được cái biết cái thấy của thế tục một cách lầm vọng sai
lệnh, mà ngộ nhập chánh đạo. Trừ chánh kiến ra, bảy món chánh đạo kia được phân
chia là: chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm và
chánh định.
4.1. Chánh kiến (thấy chân chánh): là thấy hiểu chính
xác, phá trừ vô minh. Đối với đạo lý duyên khởi và bốn thánh đế cũng như thế
giới quan và nhân sinh quan của Phật pháp đã giảng khả năng chính xác gia dĩ lý
giải và tín thọ phụng hành, chẳng phải là chỗ mê lầm (hoặc) thấy biết của thế
tục.
xác, phá trừ vô minh. Đối với đạo lý duyên khởi và bốn thánh đế cũng như thế
giới quan và nhân sinh quan của Phật pháp đã giảng khả năng chính xác gia dĩ lý
giải và tín thọ phụng hành, chẳng phải là chỗ mê lầm (hoặc) thấy biết của thế
tục.
4.2. Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh): Một khi suy nghĩ
được phát ra, phần nhiều do vọng tưởng mà khởi. Nếu người tu hành đã thấy bốn
thánh đế, dùng chánh kiến tương ứng, phá trừ tưởng pháp tà ác, mà khiến cho
chơn trí tăng trưởng, đoạn trừ mê hoặc, xa lìa tất cả niệm ác.
được phát ra, phần nhiều do vọng tưởng mà khởi. Nếu người tu hành đã thấy bốn
thánh đế, dùng chánh kiến tương ứng, phá trừ tưởng pháp tà ác, mà khiến cho
chơn trí tăng trưởng, đoạn trừ mê hoặc, xa lìa tất cả niệm ác.
4.3. Chánh ngữ (nói lời chân chánh): lấy lời nói chánh
đáng mà tu khẩu nghiệp, lìa các món nói láo, nói ác, nói luồn lách, nói hai
chiều. Chỉ nói lời khả ái (ái ngữ) thì khẩu nghiệp tự tịnh.
đáng mà tu khẩu nghiệp, lìa các món nói láo, nói ác, nói luồn lách, nói hai
chiều. Chỉ nói lời khả ái (ái ngữ) thì khẩu nghiệp tự tịnh.
4.4. Chánh nghiệp (nghiệp chân chánh): Người ta khởi tâm
động niệm, không gì chẳng tạo nghiệp. Tu thân, cần phải không tạo sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, không làm hành nghiệp hại chúng sinh dù trực tiếp hay là gián
tiếp; như nghiệp sát sinh, nghiệp dâm, nghiệp đánh bạc, buôn lậu… các hành
nghiệp xấu ác.
động niệm, không gì chẳng tạo nghiệp. Tu thân, cần phải không tạo sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, không làm hành nghiệp hại chúng sinh dù trực tiếp hay là gián
tiếp; như nghiệp sát sinh, nghiệp dâm, nghiệp đánh bạc, buôn lậu… các hành
nghiệp xấu ác.
4.5.Chánh mạng (cuộc sống chân chánh): mạng gọi là nhờ
lấy sinh kế của cuộc sống, thanh tịnh những việc cuộc sống hổ thẹn, mà đem công
việc chính đáng mưu lấy cuộc sống.
lấy sinh kế của cuộc sống, thanh tịnh những việc cuộc sống hổ thẹn, mà đem công
việc chính đáng mưu lấy cuộc sống.
4.6. Chánh tinh tấn (siêng năng chân chánh): Hướng đến
phương trời xuất thế, đạo niết bàn, nỗ lực tiến tới, đưa ba nghiệp được thanh
tịnh. Chẳng từ việc đối nơi thân miệng khổ nhọc mà khổ hạnh, hoặc mê tín của
thế tục và pháp không rốt ráo (cứu cánh) của ngoại đạo.
phương trời xuất thế, đạo niết bàn, nỗ lực tiến tới, đưa ba nghiệp được thanh
tịnh. Chẳng từ việc đối nơi thân miệng khổ nhọc mà khổ hạnh, hoặc mê tín của
thế tục và pháp không rốt ráo (cứu cánh) của ngoại đạo.
4.7. Chánh niệm (niệm chân chánh): Niệm từ tâm khởi,
tâm chẳng lìa đạo, xa lìa tà niệm, chỉ niệm chân như thật tướng, vả lại từng
lúc từng lúc không quên lời giảng của Đức Phật: vô thường, khổ, vô ngã… Không
luận làm việc gì, đều cùng với chánh pháp tương ưng, tâm không có động mất.
tâm chẳng lìa đạo, xa lìa tà niệm, chỉ niệm chân như thật tướng, vả lại từng
lúc từng lúc không quên lời giảng của Đức Phật: vô thường, khổ, vô ngã… Không
luận làm việc gì, đều cùng với chánh pháp tương ưng, tâm không có động mất.
4.8. Chánh định (định một cách chân chánh): Chánh định
là xa lìa bất định, tà định, lấy chánh niệm vô thượng giữ gìn tâm, an việc
thiền định ở trong trí vô phân biệt mà được.
là xa lìa bất định, tà định, lấy chánh niệm vô thượng giữ gìn tâm, an việc
thiền định ở trong trí vô phân biệt mà được.
Đạo diệt khổ gọi là “bát chánh đạo”. Tu
bát chánh đạo (tám món chánh đạo), làm nhân cho “Diệt đế”, đó gọi là kim chỉ
nam của người tu tập đạo pháp, khiến tâm tham ái và chấp trước không xả đó sẽ
bị diệt yếu đi và diệt hết, để lợi ích cho việc tu hành.
bát chánh đạo (tám món chánh đạo), làm nhân cho “Diệt đế”, đó gọi là kim chỉ
nam của người tu tập đạo pháp, khiến tâm tham ái và chấp trước không xả đó sẽ
bị diệt yếu đi và diệt hết, để lợi ích cho việc tu hành.
5. BA QUY Y
Phật, Pháp, Tăng là tam bảo (ba ngôi
báu) trong cửa Phật. Quy y tam bảo tức là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng.
Quy là ý quay về, y là ý nương nhờ.
báu) trong cửa Phật. Quy y tam bảo tức là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng.
Quy là ý quay về, y là ý nương nhờ.
Phật, là nói tắt của chữ “Phật đà” của
Ấn Độ ngữ, Trung Quốc dịch thành là Giác, tức là người chứng ngộ chân lý. Hàm
chứa ý tự mình giác ngộ và lợi ích cho người khác, cả hai việc ấy viên mãn đầy
đủ.
Ấn Độ ngữ, Trung Quốc dịch thành là Giác, tức là người chứng ngộ chân lý. Hàm
chứa ý tự mình giác ngộ và lợi ích cho người khác, cả hai việc ấy viên mãn đầy
đủ.
Pháp, Ấn độ gọi là “Đạt ma”, nói theo
nghĩa hẹp, tức là ý chân lý, nghĩa rộng là ý tất cả sự vật tồn tại. Tổng quát
là Đức Phật nói bày giáo pháp chơn nghĩa của toàn thể vũ trụ.
nghĩa hẹp, tức là ý chân lý, nghĩa rộng là ý tất cả sự vật tồn tại. Tổng quát
là Đức Phật nói bày giáo pháp chơn nghĩa của toàn thể vũ trụ.
Tăng, là tiếng nói tắt chữ “Tăng già”
của Ấn Độ, là đoàn thể có hành vi đạo đức đầy đủ.
của Ấn Độ, là đoàn thể có hành vi đạo đức đầy đủ.
Nương Phật làm thầy, nhân vì Ngài hay
dạy rõ cho chúng ta chân lý tuyệt đối chính xác không lầm, mà dẫn dắt chúng ta
tiến vào cõi cảnh không có phiền não. Cho nên quy y Phật, có thể khiến chúng ta
giác mà không mê, nên người học Phật lấy Phật làm bổn sư quy y, mà bỏ ngoại
đạo.
dạy rõ cho chúng ta chân lý tuyệt đối chính xác không lầm, mà dẫn dắt chúng ta
tiến vào cõi cảnh không có phiền não. Cho nên quy y Phật, có thể khiến chúng ta
giác mà không mê, nên người học Phật lấy Phật làm bổn sư quy y, mà bỏ ngoại
đạo.
Nương Pháp làm thuốc, nhân vì Pháp
(chân lý) có công dụng hiệu quả bỏ trừ được phiền não, khiến chúng ta Chánh mà
chẳng Tà, đều gọi là chúng sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui, không
nương nơi tà pháp của ngoại đạo.
(chân lý) có công dụng hiệu quả bỏ trừ được phiền não, khiến chúng ta Chánh mà
chẳng Tà, đều gọi là chúng sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui, không
nương nơi tà pháp của ngoại đạo.
Nương Tăng làm bạn, nhân vị họ có thể
đem chánh pháp sắp truyền bá mà truyền trao cho chúng ta, khiến chúng ta lìa
khổ được vui, nên người học Phật quy y Tăng, có thể khiến cho chúng ta tịnh mà
không nhiễm. Đây chính là chánh tín mà vào chánh giác, không nương nơi đồ chúng
ngoại đạo.
đem chánh pháp sắp truyền bá mà truyền trao cho chúng ta, khiến chúng ta lìa
khổ được vui, nên người học Phật quy y Tăng, có thể khiến cho chúng ta tịnh mà
không nhiễm. Đây chính là chánh tín mà vào chánh giác, không nương nơi đồ chúng
ngoại đạo.
Bao quát mà nói, tức là tam bảo Phật,
Pháp, Tăng hay khiến cho chúng sinh xa lìa biển khổ sinh tử, được Niết bàn
(giải thoát), cho nên nói là chỗ của chúng sinh rốt cuộc phải quy y.
Pháp, Tăng hay khiến cho chúng sinh xa lìa biển khổ sinh tử, được Niết bàn
(giải thoát), cho nên nói là chỗ của chúng sinh rốt cuộc phải quy y.
Người ban đầu học Phật, tín tâm chưa
kiên cố, lực lượng chưa sung túc, nên cần phải quy y tam bảo, được sự giúp đỡ,
mới thành tựu đạo nghiệp, song thì sau cùng đệ tử ắt cần phải nương nơi sức
chính mình, mới có thể thành Phật; đây là chỗ không đồng nhất giữa Phật giáo và
các tôn giáo khác. Phật Đà (Thích Ca Mâu Ni) trong lúc nói pháp, đều dạy răn
thẳng cho đệ tử cần phải “tự y”, “pháp y” và “bất dị y”; tức là nương cậy tự
lực, nương chánh pháp để tu học và không nương nhờ ở các lực lượng khác. Cho
nên nghĩa sâu xa sau cùng của quy y tam bảo tức là quay về chính mình, tự tâm
vốn có Phật, tự mình có thể thành Phật, tâm mình ngay nơi thể, tức là đầy đủ
chánh pháp (chân lý); tự mình nương nơi pháp tu học, tự thân và Tăng già “nhất
thể”. Như thế tam bảo Phật, Pháp, Tăng đều là không lìa tự thân, tức là chính
thân tâm mình tam bảo có thể hiển hiện. Nhìn từ bên ngoài, quy y là sự dẫn dắt
tha lực “tín nguyện”. Nhưng nhìn sâu, đây chỉ là “tăng thượng duyên” (điều kiện
giúp đỡ tiến bộ). Trên thực tế, dốc sức chính mình, thực hiện lý tưởng, đây mới
là ý nghĩa chân thật của vấn đề quy y tam bảo.
kiên cố, lực lượng chưa sung túc, nên cần phải quy y tam bảo, được sự giúp đỡ,
mới thành tựu đạo nghiệp, song thì sau cùng đệ tử ắt cần phải nương nơi sức
chính mình, mới có thể thành Phật; đây là chỗ không đồng nhất giữa Phật giáo và
các tôn giáo khác. Phật Đà (Thích Ca Mâu Ni) trong lúc nói pháp, đều dạy răn
thẳng cho đệ tử cần phải “tự y”, “pháp y” và “bất dị y”; tức là nương cậy tự
lực, nương chánh pháp để tu học và không nương nhờ ở các lực lượng khác. Cho
nên nghĩa sâu xa sau cùng của quy y tam bảo tức là quay về chính mình, tự tâm
vốn có Phật, tự mình có thể thành Phật, tâm mình ngay nơi thể, tức là đầy đủ
chánh pháp (chân lý); tự mình nương nơi pháp tu học, tự thân và Tăng già “nhất
thể”. Như thế tam bảo Phật, Pháp, Tăng đều là không lìa tự thân, tức là chính
thân tâm mình tam bảo có thể hiển hiện. Nhìn từ bên ngoài, quy y là sự dẫn dắt
tha lực “tín nguyện”. Nhưng nhìn sâu, đây chỉ là “tăng thượng duyên” (điều kiện
giúp đỡ tiến bộ). Trên thực tế, dốc sức chính mình, thực hiện lý tưởng, đây mới
là ý nghĩa chân thật của vấn đề quy y tam bảo.
Cửa Phật giáo đều hướng đến chỗ có nhân
loại mà mở bày. Phàm là người đối với Phật Pháp có hứng thú vả muốn học tập,
không luận: sang, hèn, già, trẻ, nam, nữ, đều biểu hiện sự chào đón, vả lại
nhất luật bình đẳng, không có phân biệt giai cấp, nhưng có chỗ trước sau thứ
lớp tôn kính. Đây là đứng trên nguyên tắc tu hành thềm bậc thứ lớp mà nói, tức
là người tu hành chứng ngộ quả vị thấp cần phải tôn kính người có quả vị cao,
vả có nghĩa vụ tiếp thu sự chỉ dẫn, chỉ có thứ tự trước sau như đây, hoàn toàn
không có bất kỳ sự phân chia đẳng cấp trên dưới nào, hoàn toàn phát huy cái
nhìn bình đẳng của nhân tính.
loại mà mở bày. Phàm là người đối với Phật Pháp có hứng thú vả muốn học tập,
không luận: sang, hèn, già, trẻ, nam, nữ, đều biểu hiện sự chào đón, vả lại
nhất luật bình đẳng, không có phân biệt giai cấp, nhưng có chỗ trước sau thứ
lớp tôn kính. Đây là đứng trên nguyên tắc tu hành thềm bậc thứ lớp mà nói, tức
là người tu hành chứng ngộ quả vị thấp cần phải tôn kính người có quả vị cao,
vả có nghĩa vụ tiếp thu sự chỉ dẫn, chỉ có thứ tự trước sau như đây, hoàn toàn
không có bất kỳ sự phân chia đẳng cấp trên dưới nào, hoàn toàn phát huy cái
nhìn bình đẳng của nhân tính.
Mục đích của học Phật, tuy nhiên là ở
chỗ siêu phàm nhập thánh giống nhau, nhưng nhân vì phương pháp nghiên cứu và tu
hành không đồng mà phân thành rất nhiều phương pháp tu hành. Tịnh độ tông (pháp
môn trì danh niệm Phật) là một phương pháp trong đó.
chỗ siêu phàm nhập thánh giống nhau, nhưng nhân vì phương pháp nghiên cứu và tu
hành không đồng mà phân thành rất nhiều phương pháp tu hành. Tịnh độ tông (pháp
môn trì danh niệm Phật) là một phương pháp trong đó.
Tam quy y tổng kết mà nói: quy y Phật
tức là “giác ngộ không mê”, quy y Pháp tức là “chánh mà không tà”, quy y Tăng
tức là “tịnh mà không nhiễm”.
tức là “giác ngộ không mê”, quy y Pháp tức là “chánh mà không tà”, quy y Tăng
tức là “tịnh mà không nhiễm”.
Đức Phật dạy chúng ta cần phải từng
thời khắc quán tưởng đến: Giác – Chánh – Tịnh; cần dùng Giác – Chánh – Tịnh mà
tu tư tưởng, kiến giải, lời nói, việc làm của chính chúng ta, đây gọi là “tam
quy y”, là quy y chân chính, Giác – Chánh – Tịnh, ba nguyên tắc này tức là quy
y “Tam bảo”.
thời khắc quán tưởng đến: Giác – Chánh – Tịnh; cần dùng Giác – Chánh – Tịnh mà
tu tư tưởng, kiến giải, lời nói, việc làm của chính chúng ta, đây gọi là “tam
quy y”, là quy y chân chính, Giác – Chánh – Tịnh, ba nguyên tắc này tức là quy
y “Tam bảo”.
6. BỒ ĐỀ TÂM
Hai chữ “Bồ đề” là tiếng Phạn của Ấn
Độ, dịch là Giác, ý là “chánh giác”, giác chính mình, giác người khác và giác
ngộ viên mãn. Giác ngộ Phật đạo cũng tức là ý nói thành Phật. Bồ đề tâm tức là
tâm giác ngộ, tức là tâm học tập Phật pháp, là thường ở trên hiện tượng mà rõ
ràng và thông đạt, cũng tức là tâm thành Phật.
Độ, dịch là Giác, ý là “chánh giác”, giác chính mình, giác người khác và giác
ngộ viên mãn. Giác ngộ Phật đạo cũng tức là ý nói thành Phật. Bồ đề tâm tức là
tâm giác ngộ, tức là tâm học tập Phật pháp, là thường ở trên hiện tượng mà rõ
ràng và thông đạt, cũng tức là tâm thành Phật.
PHÁT TÂM BỒ ĐỀ, phát ấy là phát tâm,
cho nên phát tâm bồ đề, lại là phát khởi tâm thành Phật. Vì sao cần thành Phật
ư? Là vì lợi ích tất cả chúng sinh.
cho nên phát tâm bồ đề, lại là phát khởi tâm thành Phật. Vì sao cần thành Phật
ư? Là vì lợi ích tất cả chúng sinh.
Phát tâm bồ đề tức là phát tâm thành
Phật, “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”, rộng tu tất cả thiện hạnh, ngộ
triệt để pháp tánh bình đẳng, quyết không kiến chấp ta và chúng sinh có sai
biệt gì, như thế mới cùng tâm bồ đề tương ứng.
Phật, “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”, rộng tu tất cả thiện hạnh, ngộ
triệt để pháp tánh bình đẳng, quyết không kiến chấp ta và chúng sinh có sai
biệt gì, như thế mới cùng tâm bồ đề tương ứng.
Như thế nào mới có thể rộng tu các
thiện hạnh ư? Lấy “bốn vô lượng tâm” làm cơ sở căn bản, lấy “bốn nhiếp tâm” mà
hành trì.
thiện hạnh ư? Lấy “bốn vô lượng tâm” làm cơ sở căn bản, lấy “bốn nhiếp tâm” mà
hành trì.
Phát tâm bồ đề, đức Phật muốn chúng ta
bồi dưỡng tâm bồ đề, chủ yếu thành trách nhiệm của một cá nhân, cho nên mới có
lời cảm là: “Nhân thành Phật thành”, đây là quy củ mô phạm làm người xử thế.
bồi dưỡng tâm bồ đề, chủ yếu thành trách nhiệm của một cá nhân, cho nên mới có
lời cảm là: “Nhân thành Phật thành”, đây là quy củ mô phạm làm người xử thế.
Không phát tâm bồ đề thì không có tâm
thành Phật.
thành Phật.
Tâm bồ đề tức là tâm giác ngộ, tâm từ
bi, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm đại nguyện.
bi, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm đại nguyện.
Phát tâm bồ đề, nói một cách đơn giản,
tức là anh xem chúng sinh chỗ có, đều cùng với tự mình giống nhau, không có ta
lớn anh nhỏ, ta mạnh anh yếu, chỉ một mực bình đẳng. Cần tận khả năng của mình
giải thoát đau khổ của chúng sinh tức là lợi tha.
tức là anh xem chúng sinh chỗ có, đều cùng với tự mình giống nhau, không có ta
lớn anh nhỏ, ta mạnh anh yếu, chỉ một mực bình đẳng. Cần tận khả năng của mình
giải thoát đau khổ của chúng sinh tức là lợi tha.
Tâm bồ đề không phải lấy Ngã làm trọng
tâm xuất phát, mà là kiến lập ở trên một tướng bình đẳng của tất cả chúng sinh
cho nên không có bỉ thử, phân biệt bạn thù, cũng không sát hại, không làm việc
si mê tham ái, cần ở lúc làm bất kỳ việc gì, hay thức tỉnh chính mình, việc này
rốt ráo đối với việc giải trừ mọi người hoặc chúng sinh trầm mê có giúp ích thế
nào?
tâm xuất phát, mà là kiến lập ở trên một tướng bình đẳng của tất cả chúng sinh
cho nên không có bỉ thử, phân biệt bạn thù, cũng không sát hại, không làm việc
si mê tham ái, cần ở lúc làm bất kỳ việc gì, hay thức tỉnh chính mình, việc này
rốt ráo đối với việc giải trừ mọi người hoặc chúng sinh trầm mê có giúp ích thế
nào?
Tâm bồ đề thật chẳng phải là ngay khi
gieo hạt giống thì có thể mọc lên liền, chỉ đuợc tăng tiến từ từ.
gieo hạt giống thì có thể mọc lên liền, chỉ đuợc tăng tiến từ từ.
Bước thứ nhất, không nên còn tâm hại
chúng sinh. Bước thứ hai, thường thường tỉnh thức chính mình, ta làm việc này
cùng với chúng sinh có ích hay không có. Bước thứ ba, nghĩ muốn là chẳng có thể
giúp đỡ người khác thoát ly các nỗi khổ đau của nhân sinh. Đối tượng lúc bắt
đầu, qua loa là rất hẹp hòi, chậm chậm mới phổ cập được một nhóm người, nhận
thức của anh, lại lần hồi đem tâm từ bi tìm mở rộng ra, siêu vượt ranh giới và
giới hạn quốc gia phổ cập mọi chúng sinh.
chúng sinh. Bước thứ hai, thường thường tỉnh thức chính mình, ta làm việc này
cùng với chúng sinh có ích hay không có. Bước thứ ba, nghĩ muốn là chẳng có thể
giúp đỡ người khác thoát ly các nỗi khổ đau của nhân sinh. Đối tượng lúc bắt
đầu, qua loa là rất hẹp hòi, chậm chậm mới phổ cập được một nhóm người, nhận
thức của anh, lại lần hồi đem tâm từ bi tìm mở rộng ra, siêu vượt ranh giới và
giới hạn quốc gia phổ cập mọi chúng sinh.
Tâm Bồ đề sản sinh có hai món: Một là
xưa nay đầy đủ; một là huân tập mà có. Chúng ta mỗi người đều có tâm giác ngộ,
vì sao chẳng giác ngộ ư? Nhân vì không có sự khởi phát. Khởi phát về sau, cái
tâm này tức là tâm giác ngộ. Đối với tất cả vũ trụ đều là giác ngộ, đây cũng là
căn bản tâm Bồ đề, tâm xưa nay đầy đủ. Cho nên chúng ta cần do từ sự dẫn dắt
của thầy và kinh điển, chầm chậm học tập và huân tu, dùng tâm “như minh” này
khởi phát sau khi tăng trưởng trí tuệ, mới có thể giác ngộ xưa nay. Trước kia
chưa nhận thức bản tâm, thường thường hiểu rằng có giá trị thế nào mà tu, mà
biết? Nhưng phát tâm Bồ đề tức là muốn chúng ta triệt để giác ngộ pháp của tất
cả chẳng lìa tự tánh, tất cả tánh tức là tự tâm, điều này chẳng người khác bảo
với anh mà có, mà là tự mình xưa nay đầy đủ, không có bất kỳ mê hoặc nào. Cho
nên nói mọi người đều có trí huệ và đức tướng của Phật tánh, chỉ nhân nơi vọng
tưởng và chấp trước mà mê hoặc.
xưa nay đầy đủ; một là huân tập mà có. Chúng ta mỗi người đều có tâm giác ngộ,
vì sao chẳng giác ngộ ư? Nhân vì không có sự khởi phát. Khởi phát về sau, cái
tâm này tức là tâm giác ngộ. Đối với tất cả vũ trụ đều là giác ngộ, đây cũng là
căn bản tâm Bồ đề, tâm xưa nay đầy đủ. Cho nên chúng ta cần do từ sự dẫn dắt
của thầy và kinh điển, chầm chậm học tập và huân tu, dùng tâm “như minh” này
khởi phát sau khi tăng trưởng trí tuệ, mới có thể giác ngộ xưa nay. Trước kia
chưa nhận thức bản tâm, thường thường hiểu rằng có giá trị thế nào mà tu, mà
biết? Nhưng phát tâm Bồ đề tức là muốn chúng ta triệt để giác ngộ pháp của tất
cả chẳng lìa tự tánh, tất cả tánh tức là tự tâm, điều này chẳng người khác bảo
với anh mà có, mà là tự mình xưa nay đầy đủ, không có bất kỳ mê hoặc nào. Cho
nên nói mọi người đều có trí huệ và đức tướng của Phật tánh, chỉ nhân nơi vọng
tưởng và chấp trước mà mê hoặc.
Hóa độ chúng sinh, trước phải độ chính
mình, “kỷ sở bất dục, vật ư chúng sinh” (việc mình không muốn chớ đem cho chúng
sinh), bất luận là thân, miệng, ý đều chẳng thể được, lại chẳng thể có tư tưởng
và hành vi làm tổn hại chúng sinh, nghìn vạn việc khác chớ làm tùy tiện, phóng
túng, buông lung, mượn cớ lót miệng mà làm, trong tâm thường còn lòng từ ái và
sự bao dung, khiêm tốn hiền hòa, nghĩ đến chúng sinh. Chờ có lúc trí huệ sinh
khởi, lời của anh nói sẽ có ích cho chúng sinh, nói được chúng sinh miệng tâm
đều phục, chúng sinh tự nhiên sẽ tự động gần gũi anh, chẳng cần anh nhọc sức
quảng cáo tuyên truyền; cung kính anh, lúc đó chúng sinh sẽ nghe lời dạy răn
của anh; Anh không có trí tuệ, lời nói không viên dung, làm sao dẫn khởi sự
hứng thú cho chúng sinh? Dẫn pháp cần phải khế cơ, lời nói không gieo vào căn
cơ, nói rách da miệng cũng không tác dụng.
mình, “kỷ sở bất dục, vật ư chúng sinh” (việc mình không muốn chớ đem cho chúng
sinh), bất luận là thân, miệng, ý đều chẳng thể được, lại chẳng thể có tư tưởng
và hành vi làm tổn hại chúng sinh, nghìn vạn việc khác chớ làm tùy tiện, phóng
túng, buông lung, mượn cớ lót miệng mà làm, trong tâm thường còn lòng từ ái và
sự bao dung, khiêm tốn hiền hòa, nghĩ đến chúng sinh. Chờ có lúc trí huệ sinh
khởi, lời của anh nói sẽ có ích cho chúng sinh, nói được chúng sinh miệng tâm
đều phục, chúng sinh tự nhiên sẽ tự động gần gũi anh, chẳng cần anh nhọc sức
quảng cáo tuyên truyền; cung kính anh, lúc đó chúng sinh sẽ nghe lời dạy răn
của anh; Anh không có trí tuệ, lời nói không viên dung, làm sao dẫn khởi sự
hứng thú cho chúng sinh? Dẫn pháp cần phải khế cơ, lời nói không gieo vào căn
cơ, nói rách da miệng cũng không tác dụng.
Khắp độ chúng sinh có hai việc: 1. Cứu
huệ mạng cho người, trừ si mê cho người, khiến cho họ được minh giác, tự mở
mang ra, chuyển thức thành trí,triệt ngộ rốt ráo, tự tại không ngại, giải thoát
luân hồi sinh tử, an trụ cảnh tịnh cực lạc, vĩnh hằng thọ dụng. 2. Cứu thân
mạng con người, làm chút việc tốt, cho người ít tiền bạc hoặc y thực, hoặc lên
núi xuống biển để cúng một chút công sức nhọc nhằn mà phục vụ, cứu nhân mạng,
chẳng qua là trăm năm, rốt cuộc cũng chết, công hiệu ngắn tạm.
huệ mạng cho người, trừ si mê cho người, khiến cho họ được minh giác, tự mở
mang ra, chuyển thức thành trí,triệt ngộ rốt ráo, tự tại không ngại, giải thoát
luân hồi sinh tử, an trụ cảnh tịnh cực lạc, vĩnh hằng thọ dụng. 2. Cứu thân
mạng con người, làm chút việc tốt, cho người ít tiền bạc hoặc y thực, hoặc lên
núi xuống biển để cúng một chút công sức nhọc nhằn mà phục vụ, cứu nhân mạng,
chẳng qua là trăm năm, rốt cuộc cũng chết, công hiệu ngắn tạm.
Phát tâm Bồ đề phổ độ chúng sinh chẳng
phải cần là anh hiện tại độ bao nhiêu chúng sinh mà là cần có thành tâm độ
chúng sinh, chẳng phải làm cho mình rồi than thở.
phải cần là anh hiện tại độ bao nhiêu chúng sinh mà là cần có thành tâm độ
chúng sinh, chẳng phải làm cho mình rồi than thở.
Độ chúng sinh rất là khó! Nhân vì Phật
pháp không theo nơi thế tục (không theo cái tâm tục của người đời, theo tâm
tham muốn), không giống như kiểu của ngoại đạo theo thế tục mà dụ người. Không
có trí tuệ mà khuyên người tin Phật đã chẳng phải dễ, còn có thể nói được cho
người đời miệng tâm đều phục mà học Phật tu hành, phát khởi sức lực tu hành
sao? Trước mắt chỉ có đủ thật chính mình, chờ có một ngày trí tuệ phát ra mới
độ chúng sinh, trước mắt chỉ có miệng nói ái ngữ, lượng sức tùy duyên mà làm
việc thiện; giữ gìn thiện tâm, tùy duyên tùy sức mà làm việc thiện.
pháp không theo nơi thế tục (không theo cái tâm tục của người đời, theo tâm
tham muốn), không giống như kiểu của ngoại đạo theo thế tục mà dụ người. Không
có trí tuệ mà khuyên người tin Phật đã chẳng phải dễ, còn có thể nói được cho
người đời miệng tâm đều phục mà học Phật tu hành, phát khởi sức lực tu hành
sao? Trước mắt chỉ có đủ thật chính mình, chờ có một ngày trí tuệ phát ra mới
độ chúng sinh, trước mắt chỉ có miệng nói ái ngữ, lượng sức tùy duyên mà làm
việc thiện; giữ gìn thiện tâm, tùy duyên tùy sức mà làm việc thiện.
Luận đại trí độ nói rằng: “Bồ tát chưa
được sinh pháp nhẫn, chẳng thể độ chúng sinh; dụ như phá bỏ thuyền mà cứu người
chết đuối, mình và người đều bị chìm”.
được sinh pháp nhẫn, chẳng thể độ chúng sinh; dụ như phá bỏ thuyền mà cứu người
chết đuối, mình và người đều bị chìm”.
Bồ Tát đất qua sông, tự thân khó bảo
tồn! Làm sao độ được người!
tồn! Làm sao độ được người!
7. LUẬT NHÂN QUẢ (Nhân duyên quả báo)
Phật pháp giảng: vô thường, khổ, không,
vô ngã, ý tứ là tất cả muôn việc muôn vật trên thế gian đều là vô định tánh,
nhân duyên hòa hợp thì sanh, nhân duyên ly tán thì diệt, tất cả tùy duyên mà
tận lực, không nên cưỡng cầu.
vô ngã, ý tứ là tất cả muôn việc muôn vật trên thế gian đều là vô định tánh,
nhân duyên hòa hợp thì sanh, nhân duyên ly tán thì diệt, tất cả tùy duyên mà
tận lực, không nên cưỡng cầu.
Duyên khởi, tức là nói rõ tất cả các
pháp đều là nơi nhân duyên mà sinh khởi. Nói một cách đơn giản, tức là sự sinh
khởi tất cả sự vật trên thế giới hoặc tất cả hiện tượng, đều là tương đối, quan
hệ và điều kiện nhất định của nó xen nhau tồn tại. Nếu như không có quan hệ và
điều kiện này, bất kỳ sự vật và hiện tượng nào, đều không có pháp sinh khởi.
Tại sao gọi là nhân duyên?
pháp đều là nơi nhân duyên mà sinh khởi. Nói một cách đơn giản, tức là sự sinh
khởi tất cả sự vật trên thế giới hoặc tất cả hiện tượng, đều là tương đối, quan
hệ và điều kiện nhất định của nó xen nhau tồn tại. Nếu như không có quan hệ và
điều kiện này, bất kỳ sự vật và hiện tượng nào, đều không có pháp sinh khởi.
Tại sao gọi là nhân duyên?
Nhân duyên cũng là điều kiện quan hệ.
Trên kinh Phật đã từng nói: “Nếu đây có thì kia có, nếu đây sinh thì kia sinh,
nếu đây không thì kia không, nếu đây diệt thì kia diệt”; đây là định nghĩa về
duyên khởi. Nói rõ “quan hệ đồng thời” nương nhau tồn tại của sự vật, đạo lý
“khác thời” xen nhau tồn tại.
Trên kinh Phật đã từng nói: “Nếu đây có thì kia có, nếu đây sinh thì kia sinh,
nếu đây không thì kia không, nếu đây diệt thì kia diệt”; đây là định nghĩa về
duyên khởi. Nói rõ “quan hệ đồng thời” nương nhau tồn tại của sự vật, đạo lý
“khác thời” xen nhau tồn tại.
Thế nào là đạo lý “khác thời” xen nhau
tồn tại? Thí dụ sự quan hệ của hạt giống và mầm. Nhân vì quá khứ có hạt giống
cho nên hiện tại mới có sự nảy mầm, chính nhân vì hiện tại có nảy mầm, hạt
giống của quá khứ mới gọi là hạt giống, đây tức là đạo lý của quan hệ “khác
thời” xen nhau tồn tại. Nhìn riêng một phương diện, lúc hạt giống diệt cũng
chính là lúc mầm sinh, lúc mầm sinh cũng chính là lúc hạt giống diệt, đây là
chứng minh hiện tượng sinh diệt của mầm và hạt giống, lại là một loại quan hệ
“đồng thời” xen nhau tồn tại.
tồn tại? Thí dụ sự quan hệ của hạt giống và mầm. Nhân vì quá khứ có hạt giống
cho nên hiện tại mới có sự nảy mầm, chính nhân vì hiện tại có nảy mầm, hạt
giống của quá khứ mới gọi là hạt giống, đây tức là đạo lý của quan hệ “khác
thời” xen nhau tồn tại. Nhìn riêng một phương diện, lúc hạt giống diệt cũng
chính là lúc mầm sinh, lúc mầm sinh cũng chính là lúc hạt giống diệt, đây là
chứng minh hiện tượng sinh diệt của mầm và hạt giống, lại là một loại quan hệ
“đồng thời” xen nhau tồn tại.
Loại quan hệ cùng thời xen nhau tồn tại
và khác thời xen nhau tồn tại này kỳ thật cũng tức là chỗ gọi của Phật giáo:
“quan hệ nhân quả”; ví dụ như hạt giống là “nhân”, mầm tức là “quả”, vì trước
có hạt giống nên sau mới có sự phát triển của mầm, đây là quan hệ nhân quả khác
thời xen nhau tồn tại. Cũng như lấy thầy giáo đó làm chính, thầy giáo đó tức là
nhân, học sinh tức là quả; ngược lại lấy học sinh làm nhân, thầy giáo là quả,
đây là quan hệ cùng thời xen nhau tồn tại. Quan hệ nhân quả này rất là lẫn lộn
phức tạp. Cho nên muôn sự muôn vật trên thế giới, đứng trên thời gian mà nói,
do ở sự quan hệ liên tục nhân quả khác thời vô số; đứng trên không gian mà nói,
quan hệ xen nương nhau tồn tại vô số, tổ chức thành một cái mạng lưới lầm lạc
cùng nhau rất là lộn xộn, phức tạp. Đây tức là nhân nhân quả quả tương tục
không dứt, tức là quy luật nhân quả. Cũng tức là giống như quay vòng lửa lưu
chuyển không dừng, cuối mà lại đầu.
và khác thời xen nhau tồn tại này kỳ thật cũng tức là chỗ gọi của Phật giáo:
“quan hệ nhân quả”; ví dụ như hạt giống là “nhân”, mầm tức là “quả”, vì trước
có hạt giống nên sau mới có sự phát triển của mầm, đây là quan hệ nhân quả khác
thời xen nhau tồn tại. Cũng như lấy thầy giáo đó làm chính, thầy giáo đó tức là
nhân, học sinh tức là quả; ngược lại lấy học sinh làm nhân, thầy giáo là quả,
đây là quan hệ cùng thời xen nhau tồn tại. Quan hệ nhân quả này rất là lẫn lộn
phức tạp. Cho nên muôn sự muôn vật trên thế giới, đứng trên thời gian mà nói,
do ở sự quan hệ liên tục nhân quả khác thời vô số; đứng trên không gian mà nói,
quan hệ xen nương nhau tồn tại vô số, tổ chức thành một cái mạng lưới lầm lạc
cùng nhau rất là lộn xộn, phức tạp. Đây tức là nhân nhân quả quả tương tục
không dứt, tức là quy luật nhân quả. Cũng tức là giống như quay vòng lửa lưu
chuyển không dừng, cuối mà lại đầu.
Phật pháp nói rõ pháp nhân duyên quả
báo (nhân quả) chỗ sinh có hai lực lượng: 1. Lực có thể nghĩ bàn. 2. Lực không
thể nghĩ bàn. Như nương nơi nhân nào thì được quả đó, tạo nghiệp nào thì thành
báo đó, có cảnh nào thì khởi tâm đó, có tâm nào thì rõ cảnh đó, do hiện tượng
nào thì khởi quán đó; đây là phép tắc thông thường của nhân quả.
báo (nhân quả) chỗ sinh có hai lực lượng: 1. Lực có thể nghĩ bàn. 2. Lực không
thể nghĩ bàn. Như nương nơi nhân nào thì được quả đó, tạo nghiệp nào thì thành
báo đó, có cảnh nào thì khởi tâm đó, có tâm nào thì rõ cảnh đó, do hiện tượng
nào thì khởi quán đó; đây là phép tắc thông thường của nhân quả.
Trên Phật pháp, sự sinh thành và hoàn
diệt của vũ trụ vạn hữu, phải đều do hai chữ nhân duyên. Nhân và duyên, trên
Phật pháp chưa từng có ranh giới nghiêm cách mà nói, nhưng từ sai biệt tương
đối mà nói, nhân ước chỉ đặc tính mà nói, duyên ước chỉ lực tác dụng mà nói.
Nhân là chỉ một điều kiện chủ yếu sanh diệt của sự vật, duyên thì là trợ giúp
điều kiện, hai chữ “nhân duyên”, nếu dùng ngôn ngữ hiện đại để nói thì ước
chừng tương đương với hai danh từ “điều kiện” hoặc “quan hệ”. Nói như thế, sự
sinh diệt của mỗi sự vật trong vũ trụ ắt cần phải đầy đủ những điều kiện nào
đó; sự tồn tại của mỗi sự vật, cũng quyết cần quan hệ xen nhau cùng với sự vật
khác mà có. Cho nên phàm khiến cho điều kiện hoặc quan hệ của một sự vật sinh
diệt, hoặc một sự vật tồn tại, tức gọi là “nhân duyên” của sự vật này.
diệt của vũ trụ vạn hữu, phải đều do hai chữ nhân duyên. Nhân và duyên, trên
Phật pháp chưa từng có ranh giới nghiêm cách mà nói, nhưng từ sai biệt tương
đối mà nói, nhân ước chỉ đặc tính mà nói, duyên ước chỉ lực tác dụng mà nói.
Nhân là chỉ một điều kiện chủ yếu sanh diệt của sự vật, duyên thì là trợ giúp
điều kiện, hai chữ “nhân duyên”, nếu dùng ngôn ngữ hiện đại để nói thì ước
chừng tương đương với hai danh từ “điều kiện” hoặc “quan hệ”. Nói như thế, sự
sinh diệt của mỗi sự vật trong vũ trụ ắt cần phải đầy đủ những điều kiện nào
đó; sự tồn tại của mỗi sự vật, cũng quyết cần quan hệ xen nhau cùng với sự vật
khác mà có. Cho nên phàm khiến cho điều kiện hoặc quan hệ của một sự vật sinh
diệt, hoặc một sự vật tồn tại, tức gọi là “nhân duyên” của sự vật này.
Sinh thành của vũ trụ không phải là
thần sáng tạo. Sự thay đổi của vạn vật cũng không phải là do Thượng đế chi
phối; chỉ là sự nhờ gá các duyên (tức là đầy đủ các mức điều kiện sinh thành
đổi khác của vật đó) hòa hiệp mà sanh. Việc này sanh khởi từ không đến có, tức
nhân lời nói giới hạn, gọi là “duyên khởi”, tức nói trên quả gọi là “duyên
sinh”. Cho nên trên Phật pháp gọi sự sự vật vật tồn tại ở trong vũ trụ là “pháp
nhân duyên được sinh” mà gọi sự sinh khởi của sự sự vật vật “muôn pháp nhân
duyên sinh”.
thần sáng tạo. Sự thay đổi của vạn vật cũng không phải là do Thượng đế chi
phối; chỉ là sự nhờ gá các duyên (tức là đầy đủ các mức điều kiện sinh thành
đổi khác của vật đó) hòa hiệp mà sanh. Việc này sanh khởi từ không đến có, tức
nhân lời nói giới hạn, gọi là “duyên khởi”, tức nói trên quả gọi là “duyên
sinh”. Cho nên trên Phật pháp gọi sự sự vật vật tồn tại ở trong vũ trụ là “pháp
nhân duyên được sinh” mà gọi sự sinh khởi của sự sự vật vật “muôn pháp nhân
duyên sinh”.
Vạn hữu trong vũ trụ, đã nhờ các duyên
được sinh, tự nó chẳng khỏi sự biến hóa bại hoại. Cho nên từ tình thế gian đến
khí thế gian, từ hiện tượng tinh thần đến hiện tượng vật chất đều là ở nơi sự
vận động lưu chuyển, sự sinh diệt biến hóa, sát na không dừng. Nhưng ở trong
khoảng lưu chuyển sinh diệt này là chẳng có một quy luật tuân theo ư? Có, đứng
trên Phật pháp mà nói, phép tắc cơ bản có hạng mục chi phối muôn hình tượng của
vũ trụ sinh diệt biến đổi, tức là luật nhân quả của vạn hữu.
được sinh, tự nó chẳng khỏi sự biến hóa bại hoại. Cho nên từ tình thế gian đến
khí thế gian, từ hiện tượng tinh thần đến hiện tượng vật chất đều là ở nơi sự
vận động lưu chuyển, sự sinh diệt biến hóa, sát na không dừng. Nhưng ở trong
khoảng lưu chuyển sinh diệt này là chẳng có một quy luật tuân theo ư? Có, đứng
trên Phật pháp mà nói, phép tắc cơ bản có hạng mục chi phối muôn hình tượng của
vũ trụ sinh diệt biến đổi, tức là luật nhân quả của vạn hữu.
Gọi là luật nhân quả, tức là phép tắc
nghiên cứu nguyên nhân kết quả của sự vật. Hiện tại trong khoa học cũng có luật
nhân quả, duy luật nhân quả của khoa học chỉ thích hợp dùng ở sự biến hóa của
vật lý. Mà luật nhân quả của Phật pháp, ngược lại, thích nghi dụng ở sự biến
hóa của tâm, sự biến hóa của sự vật, và sự biến hóa của tâm – vật hỗn hợp. Phật
pháp đem phép tắc này gia dĩ phân tích rõ ràng chín chắn và chi tiết; căn cứ
phép tắc này sáng lập ra nhân sinh quan ba đời; lại gom đem nghiệp báo luân
hồi… các vấn đề liên quan lại, mà sáng lập ra nhân quả thiện ác chung với tư
tưởng luân lý ba đời.
nghiên cứu nguyên nhân kết quả của sự vật. Hiện tại trong khoa học cũng có luật
nhân quả, duy luật nhân quả của khoa học chỉ thích hợp dùng ở sự biến hóa của
vật lý. Mà luật nhân quả của Phật pháp, ngược lại, thích nghi dụng ở sự biến
hóa của tâm, sự biến hóa của sự vật, và sự biến hóa của tâm – vật hỗn hợp. Phật
pháp đem phép tắc này gia dĩ phân tích rõ ràng chín chắn và chi tiết; căn cứ
phép tắc này sáng lập ra nhân sinh quan ba đời; lại gom đem nghiệp báo luân
hồi… các vấn đề liên quan lại, mà sáng lập ra nhân quả thiện ác chung với tư
tưởng luân lý ba đời.
Nhân quả, nên nói một cách đầy đủ “nhân
duyên quả báo”. NHÂN là nguyên nhân, DUYÊN là trợ duyên, sự vật do nhân duyên
hòa hợp được sản sinh gọi là QUẢ, quả này đối với việc tạo nhân gọi là BÁO.
duyên quả báo”. NHÂN là nguyên nhân, DUYÊN là trợ duyên, sự vật do nhân duyên
hòa hợp được sản sinh gọi là QUẢ, quả này đối với việc tạo nhân gọi là BÁO.
Thế, xuất thế gian, từ chúng sinh cho
đến thành Phật, từ “căn thân” cho đến “khí giới” (tức là từ thân và căn cho đến
đồ vật và nơi cõi), tất cả những việc sinh diệt đổi dời… chẳng có việc gì là
chẳng chịu lấy sự chi phối của phép tắc này.
đến thành Phật, từ “căn thân” cho đến “khí giới” (tức là từ thân và căn cho đến
đồ vật và nơi cõi), tất cả những việc sinh diệt đổi dời… chẳng có việc gì là
chẳng chịu lấy sự chi phối của phép tắc này.
Chỗ gọi là ba đời, là chỉ cho đời quá
khứ, hiện tại và vị lai. Phạm vi đời quá khứ bao quát là từ trước hiện tại một
đời cho đến quá khứ vô cùng lâu xa, đoạn thời gian này đều thuộc ở nơi đời quá
khứ. Đời hiện tại là chỉ cho đời hiện tại này. Phạm vi đời vị lai bao quát là
từ sau đời hiện tại cho đến tương lai vô cùng xa vời, đoạn thời gian này đều
thuộc đời vị lai.
khứ, hiện tại và vị lai. Phạm vi đời quá khứ bao quát là từ trước hiện tại một
đời cho đến quá khứ vô cùng lâu xa, đoạn thời gian này đều thuộc ở nơi đời quá
khứ. Đời hiện tại là chỉ cho đời hiện tại này. Phạm vi đời vị lai bao quát là
từ sau đời hiện tại cho đến tương lai vô cùng xa vời, đoạn thời gian này đều
thuộc đời vị lai.
Chỗ gọi là nhân quả thông ở “ba đời”, ý
nghĩa có hai: 1. Quả báo phát sinh từ việc làm thiện hoặc làm ác, thời gian cần
phải có mau hay chậm; nói mau, ngay đời này được quả báo, nói chậm có thể nhân
từ đời quá khứ tạo đời này mới thọ báo hoặc nhân đời này tạo đời vị lai mới thọ
báo; nói càng chậm, thì từ nhân đến quả, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại,
đời vị lai, trải qua thời gian vô cùng lâu xa mới phát sinh quả báo. 2. Sau khi
phát sinh quả báo, thời gian thọ báo cũng có ngắn dài; nói ngắn chỉ có mấy
ngày, mấy tháng, mấy năm; nói dài từ bắt đầu thọ báo cho đến lúc báo hết dừng
lại, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, thời gian vô cùng lâu xa.
nghĩa có hai: 1. Quả báo phát sinh từ việc làm thiện hoặc làm ác, thời gian cần
phải có mau hay chậm; nói mau, ngay đời này được quả báo, nói chậm có thể nhân
từ đời quá khứ tạo đời này mới thọ báo hoặc nhân đời này tạo đời vị lai mới thọ
báo; nói càng chậm, thì từ nhân đến quả, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại,
đời vị lai, trải qua thời gian vô cùng lâu xa mới phát sinh quả báo. 2. Sau khi
phát sinh quả báo, thời gian thọ báo cũng có ngắn dài; nói ngắn chỉ có mấy
ngày, mấy tháng, mấy năm; nói dài từ bắt đầu thọ báo cho đến lúc báo hết dừng
lại, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, thời gian vô cùng lâu xa.
Bất kỳ sự vật nào, quyết không thể
không nhân mà sinh; nhưng có nhân mà không duyên cũng không thể sinh. Thí như
một hạt giống (nhân) nếu không trải qua sự gieo hạt đem nó chôn vào trong đất,
lại thêm các duyên trợ giúp của ánh sáng mặt trời, mưa, sương… thì không thể
nảy mầm sinh trưởng, mà nhân duyên hòa hợp hình thành quả báo. Chẳng những sự
sinh trưởng của sự vật như đây, tức sự biến đổi và hoại diệt của sự vật cũng
chẳng như vậy.
không nhân mà sinh; nhưng có nhân mà không duyên cũng không thể sinh. Thí như
một hạt giống (nhân) nếu không trải qua sự gieo hạt đem nó chôn vào trong đất,
lại thêm các duyên trợ giúp của ánh sáng mặt trời, mưa, sương… thì không thể
nảy mầm sinh trưởng, mà nhân duyên hòa hợp hình thành quả báo. Chẳng những sự
sinh trưởng của sự vật như đây, tức sự biến đổi và hoại diệt của sự vật cũng
chẳng như vậy.
Trên luật nhân quả cũng có vài điểm
đánh giá được chú ý:
đánh giá được chú ý:
7.1. Trong luật nhân quả không có nhân thứ
nhất, cũng không có quả cuối cùng. Trước nhân lại có nhân, cho đến vô thủy. Sau
quả lại có quả dẫn đến vô chung. Thí như cha là nhân của con, cha lại có cha,
cha… cha… vô thủy; con là quả của cha, con lại có con, con… con… vô
chung.
nhất, cũng không có quả cuối cùng. Trước nhân lại có nhân, cho đến vô thủy. Sau
quả lại có quả dẫn đến vô chung. Thí như cha là nhân của con, cha lại có cha,
cha… cha… vô thủy; con là quả của cha, con lại có con, con… con… vô
chung.
7.2. Nhân và quả trong luật nhân quả là
tương đối, mà chẳng phải là tuyệt đối. Thí như sợi vải là nhân của tấm vải,
ngược lại là quả của bông vải. Do nhân Giáp mà sinh quả Ất, đương nhiên Ất là
quả của Giáp. Nếu từ Ất lại phát sinh ra quả Bính thì Ất lại là nhân của Bính.
tương đối, mà chẳng phải là tuyệt đối. Thí như sợi vải là nhân của tấm vải,
ngược lại là quả của bông vải. Do nhân Giáp mà sinh quả Ất, đương nhiên Ất là
quả của Giáp. Nếu từ Ất lại phát sinh ra quả Bính thì Ất lại là nhân của Bính.
7.3. Là chỉ cho quá khứ, hiện tại, vị lai,
trên thời gian; cho nên không tự diệt, không luận là sự lâu – tạm thời gian, hễ
gặp duyên tức khởi hiện hành.
trên thời gian; cho nên không tự diệt, không luận là sự lâu – tạm thời gian, hễ
gặp duyên tức khởi hiện hành.
7.4. Bản chất nhân quả là một. Nhân có thể
sinh, ắt là quả sinh. Quả có thể sinh ắt là cái nhân được sinh. Đứng trên sắc
pháp mà nói, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậâu, hạt đậu lớn chẳng phát
sinh từ dưa ươm, hạt dưa lớn cũng chẳng phát ra từ mầm đậu. Đứng trên tâm pháp
mà nói, tự làm nhân, tự thọ quả.
sinh, ắt là quả sinh. Quả có thể sinh ắt là cái nhân được sinh. Đứng trên sắc
pháp mà nói, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậâu, hạt đậu lớn chẳng phát
sinh từ dưa ươm, hạt dưa lớn cũng chẳng phát ra từ mầm đậu. Đứng trên tâm pháp
mà nói, tự làm nhân, tự thọ quả.
Nhân thiện không sinh quả ác, quả ác
không từ nhân thiện, dù mảy mún nhỏ nhặt cũng chẳng thể cậy nhờ.
không từ nhân thiện, dù mảy mún nhỏ nhặt cũng chẳng thể cậy nhờ.
Luật nhân quả là quy luật tự nhiên của
vũ trụ nhân sinh; Phật giáo chủ trương nhân quả ba đời, tức là chỉ cho quá khứ,
hiện tại, vị lai của con người đều là trực tiếp chịu sự chi phối của của “luật
nhân quả”, đây cũng gọi là nhân duyên quả báo. Thành Thánh thành Phật, lên
thiên đường hay xuống địa ngục, hoặc thành công hoặc thất bại của một sự
nghiệp, hạnh phúc hay bất hạnh của một cá nhân đều lìa không khỏi luật nhân
quả. Tại sao gọi là nhân quả? Nhân ấy là so như hạt giống, gieo vào trong ruộng,
tương lai có thể trưởng thành làm quả thật. Quả như là quả thật, từ hạt giống
nảy mầm, lần lần thay hoa đậu trái. Như tôi đánh anh là nhân, anh lại dùng tay
đánh trả tôi là quả. Như người làm công vụ tham ô là nhân, bị phát hiện rồi
pháp quan kêu án ngồi tù là quả…
vũ trụ nhân sinh; Phật giáo chủ trương nhân quả ba đời, tức là chỉ cho quá khứ,
hiện tại, vị lai của con người đều là trực tiếp chịu sự chi phối của của “luật
nhân quả”, đây cũng gọi là nhân duyên quả báo. Thành Thánh thành Phật, lên
thiên đường hay xuống địa ngục, hoặc thành công hoặc thất bại của một sự
nghiệp, hạnh phúc hay bất hạnh của một cá nhân đều lìa không khỏi luật nhân
quả. Tại sao gọi là nhân quả? Nhân ấy là so như hạt giống, gieo vào trong ruộng,
tương lai có thể trưởng thành làm quả thật. Quả như là quả thật, từ hạt giống
nảy mầm, lần lần thay hoa đậu trái. Như tôi đánh anh là nhân, anh lại dùng tay
đánh trả tôi là quả. Như người làm công vụ tham ô là nhân, bị phát hiện rồi
pháp quan kêu án ngồi tù là quả…
“Giả sử trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp
không mất, lúc nhân duyên gặp gỡ lại tự thọ quả báo”. Từ đoạn văn tự này, chúng
ta có thể hiểu được chúng ta đời trước tự mình hành vi các món nghiệp thiện ác
chỗ tạo tác là một món NHÂN nghiệp, mà tạo các nhân nghiệp này tuy nói thời
gian quá khứ rất lâu, rất lâu, ở trước lúc không thọ quả báo, vĩnh viễn đều tồn
tại, không thể tự động tiêu mất hoặc tiêu diệt. Những cái nhân các món nghiệp
thiện ác quá khứ hoặc đời trước chỗ tạo ra chỉ cần gặp được điều kiện sinh
trưởng thích hợp, thì sẽ thành và sinh trưởng tích cực làm quả, cho nên thiện
ác phước họa của tất cả thế gian, hạnh phúc hay không hạnh phúc, không có việc
gì chẳng phải là “tự tác hoàn tự thọ” (tức là tự mình làm, tự mình chịu), chẳng
thể có đạo lý do anh làm, người khác lại chịu, hay do người khác làm mà anh lại
chịu.
không mất, lúc nhân duyên gặp gỡ lại tự thọ quả báo”. Từ đoạn văn tự này, chúng
ta có thể hiểu được chúng ta đời trước tự mình hành vi các món nghiệp thiện ác
chỗ tạo tác là một món NHÂN nghiệp, mà tạo các nhân nghiệp này tuy nói thời
gian quá khứ rất lâu, rất lâu, ở trước lúc không thọ quả báo, vĩnh viễn đều tồn
tại, không thể tự động tiêu mất hoặc tiêu diệt. Những cái nhân các món nghiệp
thiện ác quá khứ hoặc đời trước chỗ tạo ra chỉ cần gặp được điều kiện sinh
trưởng thích hợp, thì sẽ thành và sinh trưởng tích cực làm quả, cho nên thiện
ác phước họa của tất cả thế gian, hạnh phúc hay không hạnh phúc, không có việc
gì chẳng phải là “tự tác hoàn tự thọ” (tức là tự mình làm, tự mình chịu), chẳng
thể có đạo lý do anh làm, người khác lại chịu, hay do người khác làm mà anh lại
chịu.
Luật nhân quả đặc biệt chú trong về
“DUYÊN”, nhân vì phép tắc nhân quả trực tiếp thông ở nơi đời quá khứ, đời hiện
tại, đời vị lai của con người. Điều chỉnh tất cả sự sự vật vật của nhân sinh vũ
trụ đều là do ở nơi duyên mà khiến tất cả sự vật thành là sự tồn tại tánh cách
tạm thời. Thí như nói anh trồng một cây dưa, đây tức là “nhân” của hành vi,
nhiên hậu anh lại mỗi ngày tưới nước cho dưa, bón dinh dưỡng, đây là “trợ
duyên”. Sau đó cây dưa này trồng một cách thuận lợi sẽ lớn lên kết thành quả,
chắc chắn là quả “dưa”. Tuyệt đối không là một chủng loại nào khác, cho nên nói
rằng: “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”.
“DUYÊN”, nhân vì phép tắc nhân quả trực tiếp thông ở nơi đời quá khứ, đời hiện
tại, đời vị lai của con người. Điều chỉnh tất cả sự sự vật vật của nhân sinh vũ
trụ đều là do ở nơi duyên mà khiến tất cả sự vật thành là sự tồn tại tánh cách
tạm thời. Thí như nói anh trồng một cây dưa, đây tức là “nhân” của hành vi,
nhiên hậu anh lại mỗi ngày tưới nước cho dưa, bón dinh dưỡng, đây là “trợ
duyên”. Sau đó cây dưa này trồng một cách thuận lợi sẽ lớn lên kết thành quả,
chắc chắn là quả “dưa”. Tuyệt đối không là một chủng loại nào khác, cho nên nói
rằng: “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”.
Cho nên lý luận của nhân quả cho là:
“quả báo” ắt cần phải có NHÂN DUYÊN hòa hợp mới kết quả. Nên nói mình tạo nhân
gì chắc chắn được quả đó, trừ phi mình không tạo tác thì không thể phát sinh ra
quả.
“quả báo” ắt cần phải có NHÂN DUYÊN hòa hợp mới kết quả. Nên nói mình tạo nhân
gì chắc chắn được quả đó, trừ phi mình không tạo tác thì không thể phát sinh ra
quả.
Câu nói: “nhân duyên sanh vạn pháp” là
một điều trung tâm học lý trong Phật học cũng gọi là “luật nhân quả”. Vạn pháp
là chỉ tất cả sinh vật và không sinh vật, chúng đều là nhân duyên hòa hợp mà
sinh. Nhân là phát sinh ra động lực gốc của một vật nào đó. Duyên là nhiều yếu
tố giúp trợ một vật nào đó sinh thành. Chúng ta lấy việc trồng hạt đậu làm ví
dụ, có thể dễ hiểu. Một hạt đậu là một hạt giống thực vật họ đậu, hạt này tức
là tương lai phát sinh cái nhân của thực vật thuộc loại cây đậu đó, hạt giống
gieo vào trong đất màu lại thêm ánh sáng mặt trời, không khí, nước… tức là
trợ giúp hạt giống đó sinh trưởng là có duyên lớn lên (tăng thượng duyên) của
thực vật. Thời gian nhân duyên hội họp, tức sự sinh khởi thực vật này là hiện
tượng phổ thông vạn vật sinh khởi. Nhưng đây còn một vấn đề cũng là trọng yếu;
thế thì người nông phu nương theo thời gian thích đáng mà gia công, tưới nước,
nhổ cỏ, bón dinh dưỡng, như thế hạt giống đó tức sẽ kết thành “quả” chắc tốt.
Trái lại hạt giống gieo vào trong đất mà những duyên đó thiếu ít rồi, hoặc nông
phu không thi công, như thế cây thực vật kia, không những không thể phát triển,
thậm chí sẽ chết mất. Thực vật là kiểu này, nhân loại chúng ta cũng như vậy. Sự
vật sở hữu cũng là như vậy.
một điều trung tâm học lý trong Phật học cũng gọi là “luật nhân quả”. Vạn pháp
là chỉ tất cả sinh vật và không sinh vật, chúng đều là nhân duyên hòa hợp mà
sinh. Nhân là phát sinh ra động lực gốc của một vật nào đó. Duyên là nhiều yếu
tố giúp trợ một vật nào đó sinh thành. Chúng ta lấy việc trồng hạt đậu làm ví
dụ, có thể dễ hiểu. Một hạt đậu là một hạt giống thực vật họ đậu, hạt này tức
là tương lai phát sinh cái nhân của thực vật thuộc loại cây đậu đó, hạt giống
gieo vào trong đất màu lại thêm ánh sáng mặt trời, không khí, nước… tức là
trợ giúp hạt giống đó sinh trưởng là có duyên lớn lên (tăng thượng duyên) của
thực vật. Thời gian nhân duyên hội họp, tức sự sinh khởi thực vật này là hiện
tượng phổ thông vạn vật sinh khởi. Nhưng đây còn một vấn đề cũng là trọng yếu;
thế thì người nông phu nương theo thời gian thích đáng mà gia công, tưới nước,
nhổ cỏ, bón dinh dưỡng, như thế hạt giống đó tức sẽ kết thành “quả” chắc tốt.
Trái lại hạt giống gieo vào trong đất mà những duyên đó thiếu ít rồi, hoặc nông
phu không thi công, như thế cây thực vật kia, không những không thể phát triển,
thậm chí sẽ chết mất. Thực vật là kiểu này, nhân loại chúng ta cũng như vậy. Sự
vật sở hữu cũng là như vậy.
Nghiệp có: thiện nghiệp, ác nghiệp và
chuyển nghiệp. Vạn vật là do nhân, duyên hội họp được sinh, nhân giống như hạt
giống của thực vật, như thế chúng ta lại tiến thêm một bước thử hỏi: “hạt giống
của thực vật từ đâu mà có? Chúng ta biết rằng: Một đóa hoa hoàn toàn có nhụy
cái và nhụy đực, ở trong bầu nhụy có một cái phôi tròn, mặt trong có một cái tế
bào cái gọi là noãn, thuốc hoa của nhụy đực có bốn cái túi, bên trong mỗi cái
túi chứa tế bào đực rất nhiều, gọi là phấn hoa. Nếu hoa phấn có cơ hội được gió
thổi đi hoặc côn trùng mang đến trên hoa cái thì phát triển thành ống phấn hoa,
tế bào đực với ống phấn hoa phối hợp, về sau thì phát triển thành hạt giống của
quả chắc.
chuyển nghiệp. Vạn vật là do nhân, duyên hội họp được sinh, nhân giống như hạt
giống của thực vật, như thế chúng ta lại tiến thêm một bước thử hỏi: “hạt giống
của thực vật từ đâu mà có? Chúng ta biết rằng: Một đóa hoa hoàn toàn có nhụy
cái và nhụy đực, ở trong bầu nhụy có một cái phôi tròn, mặt trong có một cái tế
bào cái gọi là noãn, thuốc hoa của nhụy đực có bốn cái túi, bên trong mỗi cái
túi chứa tế bào đực rất nhiều, gọi là phấn hoa. Nếu hoa phấn có cơ hội được gió
thổi đi hoặc côn trùng mang đến trên hoa cái thì phát triển thành ống phấn hoa,
tế bào đực với ống phấn hoa phối hợp, về sau thì phát triển thành hạt giống của
quả chắc.
Chúng ta đã hiểu rồi, muôn pháp là do
nhân duyên hội họp mà sinh khởi. Nhân là tại sao tạo thành? Phật học nói: nhân
là do quả tạo thành. Như vậy thế nào là nghiệp? Nghiệp tức là nơi thân người có
chỗ tạo tác hành vi. Lời cửa miệng nói; ý có tư tưởng cảm phát; đây tức là
nghiệp. Ở trong một đời người, phổ thông có mười món thiện nghiệp. Như thân
không tạo ra: sát – đạo – dâm. Miệng không tạo ra: nói láo – nói ác – nói chiều
uốn – nói hai chiều. Ý không tạo ra: tham – sân – si. Một cá nhân như có thể
hằng ngày tạo ra thiện nghiệp nhiều như thế thì trong một đời của họ, chân –
thiện – mỹ đầy đủ tất cả, huống chi đời trước của họ, xưa nay thiện nghiệp chứa
nhóm rất nhiều, lại thêm một đời này thiện nghiệp được tạo, hết đời này về sau,
thiện nghiệp của họ và duyên hòa hợp, đời sau thì có thể chuyển làm trời người
hoặc Tiên hoặc Thần, hoặc người giàu có… Đây là luật nhân quả “tự tác tự
thọ”, là một cái hiện tượng của vạn vật, nhưng người hiểu được thì rất ít, cho
nên người tốt cũng sẽ ít.
nhân duyên hội họp mà sinh khởi. Nhân là tại sao tạo thành? Phật học nói: nhân
là do quả tạo thành. Như vậy thế nào là nghiệp? Nghiệp tức là nơi thân người có
chỗ tạo tác hành vi. Lời cửa miệng nói; ý có tư tưởng cảm phát; đây tức là
nghiệp. Ở trong một đời người, phổ thông có mười món thiện nghiệp. Như thân
không tạo ra: sát – đạo – dâm. Miệng không tạo ra: nói láo – nói ác – nói chiều
uốn – nói hai chiều. Ý không tạo ra: tham – sân – si. Một cá nhân như có thể
hằng ngày tạo ra thiện nghiệp nhiều như thế thì trong một đời của họ, chân –
thiện – mỹ đầy đủ tất cả, huống chi đời trước của họ, xưa nay thiện nghiệp chứa
nhóm rất nhiều, lại thêm một đời này thiện nghiệp được tạo, hết đời này về sau,
thiện nghiệp của họ và duyên hòa hợp, đời sau thì có thể chuyển làm trời người
hoặc Tiên hoặc Thần, hoặc người giàu có… Đây là luật nhân quả “tự tác tự
thọ”, là một cái hiện tượng của vạn vật, nhưng người hiểu được thì rất ít, cho
nên người tốt cũng sẽ ít.
Về mặt tương phản, nếu như một người
thân hàng ngày tạo ra: sát – đạo – dâm; miệng tạo ra: nói láo – nói ác – nói
chiều uốn – nói hai chiều. Ý tạo ra: tham – sân – si, các món ác nghiệp. Họ sẽ
cấu thành nhân ác, ở đời này, hoặc đời sau, lúc cùng duyên hòa hợp y theo luật
nhân quả mà nói, người này chậm mau gì cũng sẽ thọ lấy các món ác báo đau khổ.
Tục ngữ nói rằng: “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai
trì” (Thện và ác cuối cùng cũng có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi!). Câu
nói này là không sai vậy. Nhưng chư vị nhớ rằng một hạt giống được ánh sáng mặt
trời, không khí, nước, sẽ nuôi lớn lên, nhưng người nông phu nhổ cỏ, bón
phân… các việc là sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và thu hoạch của thực vật
đó. Nghiệp lực cũng như thế này. Chúng ta có thể dùng sức lực chính mình để
chuyển biến sự gặp gỡ đời này của chúng ta như: giàu, nghèo, vinh, nhục… Tuy
nhiên là đời trước nghiệp lực được tạo phát triển đến, nhưng chúng ta không ngộ
được đạo lý “chuyển nghiệp”, một mặt sám hối cái ác nghiệp đã tạo từ quá khứ
không hiểu biết, riêng một phương diện hằng ngày suy nghĩ, nói năng, hành vi
đều phản tĩnh chính mình, nỗ lực hướng con đường thiện mà đi. Như thế cá nhân
này lớp ác nghiệp đã tạo trong quá khứ gọi là định nghiệp, xưa nay là phải thọ
quả báo ác, lúc này chuyển thành nghiệp nhẹ, hay nghiệp bất định. Lại thêm sự
trì giới, học định, tu huệ, như vậy thân này có thể vào hàng Thánh, là rất có
khả năng. Cho nên một cá nhân phần lớn có thể bất tất vì ác nghiệp đã tạo từ
quá khứ không biết mà lo phiền lòng, chỉ cần hiện tại nỗ lực tạo thiện nghiệp
để chuyển biến nó, “nhân lực thắng thiên”, thì có thể lấy câu nói này “thiện ác
đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”, biến đổi nhiều nhiều hơn.
thân hàng ngày tạo ra: sát – đạo – dâm; miệng tạo ra: nói láo – nói ác – nói
chiều uốn – nói hai chiều. Ý tạo ra: tham – sân – si, các món ác nghiệp. Họ sẽ
cấu thành nhân ác, ở đời này, hoặc đời sau, lúc cùng duyên hòa hợp y theo luật
nhân quả mà nói, người này chậm mau gì cũng sẽ thọ lấy các món ác báo đau khổ.
Tục ngữ nói rằng: “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai
trì” (Thện và ác cuối cùng cũng có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi!). Câu
nói này là không sai vậy. Nhưng chư vị nhớ rằng một hạt giống được ánh sáng mặt
trời, không khí, nước, sẽ nuôi lớn lên, nhưng người nông phu nhổ cỏ, bón
phân… các việc là sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và thu hoạch của thực vật
đó. Nghiệp lực cũng như thế này. Chúng ta có thể dùng sức lực chính mình để
chuyển biến sự gặp gỡ đời này của chúng ta như: giàu, nghèo, vinh, nhục… Tuy
nhiên là đời trước nghiệp lực được tạo phát triển đến, nhưng chúng ta không ngộ
được đạo lý “chuyển nghiệp”, một mặt sám hối cái ác nghiệp đã tạo từ quá khứ
không hiểu biết, riêng một phương diện hằng ngày suy nghĩ, nói năng, hành vi
đều phản tĩnh chính mình, nỗ lực hướng con đường thiện mà đi. Như thế cá nhân
này lớp ác nghiệp đã tạo trong quá khứ gọi là định nghiệp, xưa nay là phải thọ
quả báo ác, lúc này chuyển thành nghiệp nhẹ, hay nghiệp bất định. Lại thêm sự
trì giới, học định, tu huệ, như vậy thân này có thể vào hàng Thánh, là rất có
khả năng. Cho nên một cá nhân phần lớn có thể bất tất vì ác nghiệp đã tạo từ
quá khứ không biết mà lo phiền lòng, chỉ cần hiện tại nỗ lực tạo thiện nghiệp
để chuyển biến nó, “nhân lực thắng thiên”, thì có thể lấy câu nói này “thiện ác
đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”, biến đổi nhiều nhiều hơn.
Chúng ta sở dĩ đến thế gian làm người
không có cái gì chẳng phải là do các món nghiệp thiện ác đời trước hoặc quá khứ
của tự chúng ta luân hồi mà đến, (chúng sinh vì các loại nghiệp tạo tác khác
nhau, thế nên luân hồi sinh tử trong sáu đường: trời, người, a tu la, súc sinh,
ngạ quỷ, địa ngục). Đó là quá khứ của mỗi cá nhân ở trong thời gian và không
gian chẳng giống nhau, nhân nghiệp tạo tác đều không đồng. Cho nên mỗi người ở
đời này các món cảnh ngộ phải chịu lấy cũng sẽ tự nhiên có chỗ không đồng,
chính mình ở ngày nay chỗ thọ lãnh, điều là chính mình thọ lấy nhân nghiệp của
quá khứ bị chiêu cảm, chắc chắn như vậy.
không có cái gì chẳng phải là do các món nghiệp thiện ác đời trước hoặc quá khứ
của tự chúng ta luân hồi mà đến, (chúng sinh vì các loại nghiệp tạo tác khác
nhau, thế nên luân hồi sinh tử trong sáu đường: trời, người, a tu la, súc sinh,
ngạ quỷ, địa ngục). Đó là quá khứ của mỗi cá nhân ở trong thời gian và không
gian chẳng giống nhau, nhân nghiệp tạo tác đều không đồng. Cho nên mỗi người ở
đời này các món cảnh ngộ phải chịu lấy cũng sẽ tự nhiên có chỗ không đồng,
chính mình ở ngày nay chỗ thọ lãnh, điều là chính mình thọ lấy nhân nghiệp của
quá khứ bị chiêu cảm, chắc chắn như vậy.
Thí như có người ngược lại có thể có
đời sống được thông minh trí tuệ, gia đạo lại giàu sang, một đời như ý, bước
tiến thong dong cho đến năm phước đến cửa hoặc giả một chút cũng không phí sức,
ngồi hưởng vinh hoa. Mà có người thì đời sống kém hèn, linh đinh cô khổ, một
thân cùng khổ, còn lại gặp gỡ tai biến hoặc bệnh tật, khổ không kể xiết.
đời sống được thông minh trí tuệ, gia đạo lại giàu sang, một đời như ý, bước
tiến thong dong cho đến năm phước đến cửa hoặc giả một chút cũng không phí sức,
ngồi hưởng vinh hoa. Mà có người thì đời sống kém hèn, linh đinh cô khổ, một
thân cùng khổ, còn lại gặp gỡ tai biến hoặc bệnh tật, khổ không kể xiết.
Có người một đời huy hoàng thắng đạt,
có người một đời cùng đường chao đảo, đời người có lúc đắc ý nhưng cũng có lúc
thời khắc thất ý. Có những người sinh ra là con nhà giàu, từ lúc sinh ra hưởng
thụ thẳng đến già, không buồn không rầu. Có người sinh ra ở gia đình nghèo khó,
từ sớm bận rộn cho đến chiều, vả một đời nhọc nhằn khổ sở. Có người lớn lên có
tướng đoan chính, có tài hoa có học vấn, một đời không tai không họa. Có người
ngược lại tai họa trùng trùng, có người làm kiến trúc sư, giáo thọ, có người
buôn bán, có người làm công việc tốt xấu giàu sang… các món sai biệt và cảnh
ngộ đều mỗi cái có chỗ không đồng. Thậm chí anh chị em cùng sinh ra từ một gia
đình cùng cha mẹ, không luận là phương diện thân thể, phương diện tiền đồ,
phương diện sự nghiệp, thậm chí một người con gái sinh ra từ gia đình nghèo
khó, gả đến một gia đình giàu hoặc ngược lại.Chúng sinh hàng trăm trạng thái,
thiên sai vạn biệt, đây là đạo lý gì? Những vấn đề này đều là từ quá khứ hoặc
đời trước chính mình mỗi người nhân nghiệp đã tạo ra mà cấu thành; bởi nhân
nghiệp không đồng, nên nhân duyên đời này gặp gỡ, cho nên bất cứ một cá nhân
nào tình cảnh đời này thọ lấy, cũng đều riêng khác không đồng. Cảnh ngộ đời này
không tốt, đều là do ở nơi quả báo của ác niệm và ác hạnh dẫn đến từ quá khứ
bao quát cả đời trước chúng ta đã tạo ra.
có người một đời cùng đường chao đảo, đời người có lúc đắc ý nhưng cũng có lúc
thời khắc thất ý. Có những người sinh ra là con nhà giàu, từ lúc sinh ra hưởng
thụ thẳng đến già, không buồn không rầu. Có người sinh ra ở gia đình nghèo khó,
từ sớm bận rộn cho đến chiều, vả một đời nhọc nhằn khổ sở. Có người lớn lên có
tướng đoan chính, có tài hoa có học vấn, một đời không tai không họa. Có người
ngược lại tai họa trùng trùng, có người làm kiến trúc sư, giáo thọ, có người
buôn bán, có người làm công việc tốt xấu giàu sang… các món sai biệt và cảnh
ngộ đều mỗi cái có chỗ không đồng. Thậm chí anh chị em cùng sinh ra từ một gia
đình cùng cha mẹ, không luận là phương diện thân thể, phương diện tiền đồ,
phương diện sự nghiệp, thậm chí một người con gái sinh ra từ gia đình nghèo
khó, gả đến một gia đình giàu hoặc ngược lại.Chúng sinh hàng trăm trạng thái,
thiên sai vạn biệt, đây là đạo lý gì? Những vấn đề này đều là từ quá khứ hoặc
đời trước chính mình mỗi người nhân nghiệp đã tạo ra mà cấu thành; bởi nhân
nghiệp không đồng, nên nhân duyên đời này gặp gỡ, cho nên bất cứ một cá nhân
nào tình cảnh đời này thọ lấy, cũng đều riêng khác không đồng. Cảnh ngộ đời này
không tốt, đều là do ở nơi quả báo của ác niệm và ác hạnh dẫn đến từ quá khứ
bao quát cả đời trước chúng ta đã tạo ra.
Người mà đời này nhiều bệnh tật cũng là
cùng với nghiệp chính mình đã gieo trồng từ quá khứ đến chỗ liên hệ; Nguyên
nhân của tất cả bệnh tật cũng là tâm chúng ta kéo vin ngoại cảnh tạp niệm phát
sinh. Xét một cách tột cùng mà nói, con người ở các ngằn mé gặp gỡ trong đời
người, tất cả chỗ thọ chịu, đều là do ở nơi “vọng niệm” chính mình từ quá khứ
tạo thành, nhân vì mỗi người có tạp niệm: tham ái – oán giận – ngu si, cho nên
tập trung cả ở trên thân thể, trên lời nói, trên ý niệm chính mình; rất nhiều
nghiệp nhân tạo tác chẳng đồng, mà món nghiệp nhân này thì sẽ có thế lực tiềm
ẩn rất lớn, đó là vì sự quan hệ với chúng ta lúc tạo tác các món nghiệp có “tâm
niệm rất lớn”, do đó đời này gặp được “duyên” tự nhiên khai hoa kết quả; cho
nên nói rằng “dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, dục tri lai thế quả,
kim sinh tác giả thị” – (Muốn biết nhân đời trước, nhìn nơi sự thọ chịu đời
này, muốn biết sự thọ chịu quả đời sau, nhìn việc làm đời này).
cùng với nghiệp chính mình đã gieo trồng từ quá khứ đến chỗ liên hệ; Nguyên
nhân của tất cả bệnh tật cũng là tâm chúng ta kéo vin ngoại cảnh tạp niệm phát
sinh. Xét một cách tột cùng mà nói, con người ở các ngằn mé gặp gỡ trong đời
người, tất cả chỗ thọ chịu, đều là do ở nơi “vọng niệm” chính mình từ quá khứ
tạo thành, nhân vì mỗi người có tạp niệm: tham ái – oán giận – ngu si, cho nên
tập trung cả ở trên thân thể, trên lời nói, trên ý niệm chính mình; rất nhiều
nghiệp nhân tạo tác chẳng đồng, mà món nghiệp nhân này thì sẽ có thế lực tiềm
ẩn rất lớn, đó là vì sự quan hệ với chúng ta lúc tạo tác các món nghiệp có “tâm
niệm rất lớn”, do đó đời này gặp được “duyên” tự nhiên khai hoa kết quả; cho
nên nói rằng “dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, dục tri lai thế quả,
kim sinh tác giả thị” – (Muốn biết nhân đời trước, nhìn nơi sự thọ chịu đời
này, muốn biết sự thọ chịu quả đời sau, nhìn việc làm đời này).
Cho nên chúng ta cần phải biết rõ các
điều khổ nạn cảnh ngộ phải chịu, thì không nên oán trời trách người, ở trong
đời này chúng ta càng cần phải từng giờ làm được các điều: “các việc ác chớ
làm” (chư ác mạc tác), chẳng nên tái lại làm bất cứ nhân ác nào; Tiến
tới thì phải làm được: “nên làm các việc thiện” (chúng thiện phụng hành),
tuy nhiên chính mình đối với cảnh ngộ trước mắt vẫn khổ, nếu như thiện duyên
kết nhiều, ác duyên tức chẳng thể tăng trưởng.
điều khổ nạn cảnh ngộ phải chịu, thì không nên oán trời trách người, ở trong
đời này chúng ta càng cần phải từng giờ làm được các điều: “các việc ác chớ
làm” (chư ác mạc tác), chẳng nên tái lại làm bất cứ nhân ác nào; Tiến
tới thì phải làm được: “nên làm các việc thiện” (chúng thiện phụng hành),
tuy nhiên chính mình đối với cảnh ngộ trước mắt vẫn khổ, nếu như thiện duyên
kết nhiều, ác duyên tức chẳng thể tăng trưởng.
Một con người muốn sự nghiệp thuận lợi
hoặc đạt được hạnh phúc, hành vi bản thân quyết cần phải lấy quan niệm “nhân
quả” làm điểm xuất phát, người mà có được cái nhìn “nhân quả” thì từng lúc đều
có thể cảnh giác chính mình, kìm chế chính mình, phân biệt thị phi, rõ biết
nhân qủa báo ứng biến hoá, cho nên có thể theo từng con đường chánh mà đi, trọn
có thể đạt đến lý tưởng chính mình. Một con người có quan niệm nhân quả, thì họ
sẽ thật tế, quan niệm tư duy chính xác đời người vô thường, chỗ thọ chịu tất cả
khổ, mà tất cả những cái đời này thọ chịu đều do chính mình từ quá khứ các món
nghiệp nhân được tạo tác mà cấu thành; cho nên họ có thể đoạn trừ tất cả ác,
tích cực hành thiện, kết thiện duyên, tiến đến mà thể ngộ được ý nghĩa và mục
đích chân thật của vấn đề tu hành học Phật, cho nên nói là người có quan niệm
nhân quả (nhân quả quan) có thể theo con đường chánh mà đi.
hoặc đạt được hạnh phúc, hành vi bản thân quyết cần phải lấy quan niệm “nhân
quả” làm điểm xuất phát, người mà có được cái nhìn “nhân quả” thì từng lúc đều
có thể cảnh giác chính mình, kìm chế chính mình, phân biệt thị phi, rõ biết
nhân qủa báo ứng biến hoá, cho nên có thể theo từng con đường chánh mà đi, trọn
có thể đạt đến lý tưởng chính mình. Một con người có quan niệm nhân quả, thì họ
sẽ thật tế, quan niệm tư duy chính xác đời người vô thường, chỗ thọ chịu tất cả
khổ, mà tất cả những cái đời này thọ chịu đều do chính mình từ quá khứ các món
nghiệp nhân được tạo tác mà cấu thành; cho nên họ có thể đoạn trừ tất cả ác,
tích cực hành thiện, kết thiện duyên, tiến đến mà thể ngộ được ý nghĩa và mục
đích chân thật của vấn đề tu hành học Phật, cho nên nói là người có quan niệm
nhân quả (nhân quả quan) có thể theo con đường chánh mà đi.
Người không có quan niệm nhân quả,
thông thường chẳng dễ tuân thủ quy củ phạm vi xã hội, pháp luật quốc gia, xã
hội bốn phương tám hướng ngay trước mặt, mỗi ngày chỗ thấy các việc như giết
người, buộc tội, cướp giật,… hoặc phạm tội vì danh lợi, những người này có
thể nói là những hạng người không quan niệm nhân quả, hoặc nói là nhận thức về
nhân quả chưa sâu.
thông thường chẳng dễ tuân thủ quy củ phạm vi xã hội, pháp luật quốc gia, xã
hội bốn phương tám hướng ngay trước mặt, mỗi ngày chỗ thấy các việc như giết
người, buộc tội, cướp giật,… hoặc phạm tội vì danh lợi, những người này có
thể nói là những hạng người không quan niệm nhân quả, hoặc nói là nhận thức về
nhân quả chưa sâu.
Người không có quan niệm về nhân quả
hoặc đối với nhân quả nhận thức chưa sâu, tuy cũng thọ nghiệp lực chiêu cảm,
nhưng xét cho cùng hãy còn tự mình ở trong cuộc sống ngày thường không có quan
niệm chính xác, hoặc chánh tri (hiểu biết chân chánh) chánh kiến (cái nhìn chân
chánh); lại thêm một phương diện khác có những người là người xấu, suốt ngày
không làm các nghiệp chánh, thậm chí không ác gì là không làm, mà ngược lại
cuộc sống hưởng thụ rất nhiều… nào là: thăng quan, phát tài, thành đạt, huy
hoàng, khiến người thèm muốn; do đó chính mình sẽ hoài nghi phép tắc nhân quả.
LaÏi có những người thường nói: “Thiên hạ làm gì có việc nhân quả báo ứng, nếu
có việc nhân quả báo ứng thì thế gian sẽ không có người xấu”. Nhân đó tham tâm
càng trỗi dậy, không biết hậu quả đáng sợ, cho nên lời nói này đều là tà tri,
tà kiến tạo thành. Trong kinh Phật nói rất rõ ràng, chỉ vì người đời phần nhiều
không có xem đọc, nghe hiểu thâm nhập kinh Phật để lý giải, để thâm tín mà
thôi.
hoặc đối với nhân quả nhận thức chưa sâu, tuy cũng thọ nghiệp lực chiêu cảm,
nhưng xét cho cùng hãy còn tự mình ở trong cuộc sống ngày thường không có quan
niệm chính xác, hoặc chánh tri (hiểu biết chân chánh) chánh kiến (cái nhìn chân
chánh); lại thêm một phương diện khác có những người là người xấu, suốt ngày
không làm các nghiệp chánh, thậm chí không ác gì là không làm, mà ngược lại
cuộc sống hưởng thụ rất nhiều… nào là: thăng quan, phát tài, thành đạt, huy
hoàng, khiến người thèm muốn; do đó chính mình sẽ hoài nghi phép tắc nhân quả.
LaÏi có những người thường nói: “Thiên hạ làm gì có việc nhân quả báo ứng, nếu
có việc nhân quả báo ứng thì thế gian sẽ không có người xấu”. Nhân đó tham tâm
càng trỗi dậy, không biết hậu quả đáng sợ, cho nên lời nói này đều là tà tri,
tà kiến tạo thành. Trong kinh Phật nói rất rõ ràng, chỉ vì người đời phần nhiều
không có xem đọc, nghe hiểu thâm nhập kinh Phật để lý giải, để thâm tín mà
thôi.
Kinh Phật nói rằng: “Nghiệp ác chưa
chín mùi, người ác cho là vui, nghiệp ác lúc chín mùi, người ác mới thấy ác.
Nghiệp thiện chưa chín mùi, người thiện cho là khổ, nghiệp thiện lúc chín mùi,
người thiện mới thấy vui”. Đoạn kinh văn này là nói duyên cớ những người không
có ác nào chẳng làm đó, không thọ đến báo ứng đời hiện tại, mà vả lại còn hưởng
thụ lấy cái vui; đó là vì lý do nhân thiện đời trước hoặc quá khứ của họ, đến
đời này gặp được duyên đã chín mùi từ trước; cũng tức là nói họ tất cả những gì
hưởng thụ ở hiện tại, chính là nhân thiện của quá khứ, hoặc đời trước họ đã
gieo trồng, tất cả quả báo đó là từ trước chín mùi mà được; nếu đời này họ tạo
tác các món nghiệp ác (nhân nghiệp ác), nhân đó vì trồng chưa được lâu, chưa
chín mùi, đợi đến lúc nhân duyên nghiệp ác chín mùi, chắc chắn thọ báo; cũng
tức là nói đợi nhân thiện đã trồng ở đời quá khứ của họ – phước báo chỗ được ở
đời này sau khi đã hưởng thọ xong, tự nhiên phải thọ báo, mà nhận lấy thọ báo
các món nhân ác đã tạo ở đời này, do đây khổ đau liên tiếp, khổ nạn triền miên,
tai nạn dẫy đầy, đến lúc đó, tự nhiên người làm ác sẽ thấy được kết thúc của
việc làm ác. Trên sự thật, một con người làm việc ác chẳng có thể trốn chạy hết
đời, trải qua khoảng giữa đường thì đã khổ nạn trùng trùng, chẳng sanh bệnh thì
cũng chẳng được chết tốt.. Có thể thấy việc “quả báo hiện đời” này xác thực rất
là đáng sợ, nếu đời này không thọ báo thì ở đời vị lai, giống như vậy, phải thọ
báo, “ác nghiệp chín mùi ở đời sau” tức là cái đạo lý này vậy.
chín mùi, người ác cho là vui, nghiệp ác lúc chín mùi, người ác mới thấy ác.
Nghiệp thiện chưa chín mùi, người thiện cho là khổ, nghiệp thiện lúc chín mùi,
người thiện mới thấy vui”. Đoạn kinh văn này là nói duyên cớ những người không
có ác nào chẳng làm đó, không thọ đến báo ứng đời hiện tại, mà vả lại còn hưởng
thụ lấy cái vui; đó là vì lý do nhân thiện đời trước hoặc quá khứ của họ, đến
đời này gặp được duyên đã chín mùi từ trước; cũng tức là nói họ tất cả những gì
hưởng thụ ở hiện tại, chính là nhân thiện của quá khứ, hoặc đời trước họ đã
gieo trồng, tất cả quả báo đó là từ trước chín mùi mà được; nếu đời này họ tạo
tác các món nghiệp ác (nhân nghiệp ác), nhân đó vì trồng chưa được lâu, chưa
chín mùi, đợi đến lúc nhân duyên nghiệp ác chín mùi, chắc chắn thọ báo; cũng
tức là nói đợi nhân thiện đã trồng ở đời quá khứ của họ – phước báo chỗ được ở
đời này sau khi đã hưởng thọ xong, tự nhiên phải thọ báo, mà nhận lấy thọ báo
các món nhân ác đã tạo ở đời này, do đây khổ đau liên tiếp, khổ nạn triền miên,
tai nạn dẫy đầy, đến lúc đó, tự nhiên người làm ác sẽ thấy được kết thúc của
việc làm ác. Trên sự thật, một con người làm việc ác chẳng có thể trốn chạy hết
đời, trải qua khoảng giữa đường thì đã khổ nạn trùng trùng, chẳng sanh bệnh thì
cũng chẳng được chết tốt.. Có thể thấy việc “quả báo hiện đời” này xác thực rất
là đáng sợ, nếu đời này không thọ báo thì ở đời vị lai, giống như vậy, phải thọ
báo, “ác nghiệp chín mùi ở đời sau” tức là cái đạo lý này vậy.
Người mà mỗi ngày thường hay giúp đỡ
người khác, làm việc thiện, đời này ngược lại vẫn vậy thọ chịu khổ nạn trùng
trùng, tự cho là việc thiện làm hết, hoặc thường thường làm việc thiện, vẫn vậy
lại còn thọ chịu quả báo khổ. Trên sự thật, những người làm việc thiện đó,
nguyên nhân đời này vẫn vậy mà còn phải chịu các điều khổ nạn, chính là vì nhân
ác họ đã trồng từ quá khứ hoặc đời trước, duyên do nhân nợ rất nhiều rất nặng,
mà những nhân nợ, nhân nghiệp này, ở đời này gặp trước được “duyên”, do đó tự
nhiên chín mùi trước, cho nên có tình huống tự nhiên phải trả, còn phải khổ nạn
trùng trùng. Mà đời này nhân thiện được trồng, mà vì trồng chẳng lâu, cho nên
chưa được chín mùi, đợi đến lúc nhân thiện chín mùi, cũng tức là nói, đợi đến
lúc nợ đời quá khứ trả hết, tự nhiên được phước báo, hoặc đợi đời sau chín mùi,
do sự nhẹ nặng của nhân nghiệp ở mỗi người, hoặc các điều kiện chưa phối hợp mà
định. Chỗ gọi là các điều kiện chưa có thể phối hợp là chỉ: sự thiếu sót chân
thành phát ra của tâm từ bi, tâm khoan dung, tâm sám hối, tâm hành thiện từ nội
tâm, hoặc làm thiện mà thiện hạnh tích chứa chẳng đủ. Cho nên người làm việc
thiện đến một lúc nào đó sẽ bắt đầu biết được làm việc thiện sẽ được cái vui
chân chánh.
người khác, làm việc thiện, đời này ngược lại vẫn vậy thọ chịu khổ nạn trùng
trùng, tự cho là việc thiện làm hết, hoặc thường thường làm việc thiện, vẫn vậy
lại còn thọ chịu quả báo khổ. Trên sự thật, những người làm việc thiện đó,
nguyên nhân đời này vẫn vậy mà còn phải chịu các điều khổ nạn, chính là vì nhân
ác họ đã trồng từ quá khứ hoặc đời trước, duyên do nhân nợ rất nhiều rất nặng,
mà những nhân nợ, nhân nghiệp này, ở đời này gặp trước được “duyên”, do đó tự
nhiên chín mùi trước, cho nên có tình huống tự nhiên phải trả, còn phải khổ nạn
trùng trùng. Mà đời này nhân thiện được trồng, mà vì trồng chẳng lâu, cho nên
chưa được chín mùi, đợi đến lúc nhân thiện chín mùi, cũng tức là nói, đợi đến
lúc nợ đời quá khứ trả hết, tự nhiên được phước báo, hoặc đợi đời sau chín mùi,
do sự nhẹ nặng của nhân nghiệp ở mỗi người, hoặc các điều kiện chưa phối hợp mà
định. Chỗ gọi là các điều kiện chưa có thể phối hợp là chỉ: sự thiếu sót chân
thành phát ra của tâm từ bi, tâm khoan dung, tâm sám hối, tâm hành thiện từ nội
tâm, hoặc làm thiện mà thiện hạnh tích chứa chẳng đủ. Cho nên người làm việc
thiện đến một lúc nào đó sẽ bắt đầu biết được làm việc thiện sẽ được cái vui
chân chánh.
Chỗ gọi là: “có nhân như vậy, được quả
như vậy” là đạo lý tuyệt đối; cho nên có câu: “Thiện có báo thiện, ác có báo
ác, như nếu chẳng có báo tức là chưa tới lúc, lúc đến rồi, nhất định thọ báo”.
như vậy” là đạo lý tuyệt đối; cho nên có câu: “Thiện có báo thiện, ác có báo
ác, như nếu chẳng có báo tức là chưa tới lúc, lúc đến rồi, nhất định thọ báo”.
Cho nên nói chính mình trong quá khứ
trồng nhân nghiệp gì, hiện tại sẽ phải thọ lấy quả báo ấy; hiện tại tạo nhân
nghiệp gì, vị lai sẽ phải gặt lấy quả báo ấy. Tóm lại, có nhân nhất định sẽ dẫn
đến quả nhất định, cho nên nói “nhân quả” là một loại chân lý “bất định tánh”,
luật nhân quả là một định luật bất biến vĩnh cửu của nhân sinh vũ trụ.
trồng nhân nghiệp gì, hiện tại sẽ phải thọ lấy quả báo ấy; hiện tại tạo nhân
nghiệp gì, vị lai sẽ phải gặt lấy quả báo ấy. Tóm lại, có nhân nhất định sẽ dẫn
đến quả nhất định, cho nên nói “nhân quả” là một loại chân lý “bất định tánh”,
luật nhân quả là một định luật bất biến vĩnh cửu của nhân sinh vũ trụ.
Tóm lại, tâm còn thiện lương tức được
báo tốt, tâm mà bất lương tức mắc báo ác. Đức Phật nói: “Tất cả thiện ác đều
xuất phát từ tâm, tự tâm tu thiện khiến tâm an lạc, tự tâm tạo ác khiến tâm
chịu khổ”, “Phước do tâm tác, họa do tâm sinh”. Do đây có thể thấy, con người
tất cả những việc được phước hoặc mắc hoạ, đều là chính mình ở trong cuộc sống
thường ngày ở chỗ thi vi tạo tác mà quyết định, cho nên muốn được phước thì cần
phải trước đem nội tâm của mình tất cả những vọng tâm, ác tâm mà trừ bỏ, trừ bỏ
tất cả các ác của nhân loại; các ác của nhân loại là những gì? Đó là mười ác
nghiệp (tức là mặt trái của mười thiện nghiệp), mười thiện nghiệp phạm rồi thì
là mười ác nghiệp.
báo tốt, tâm mà bất lương tức mắc báo ác. Đức Phật nói: “Tất cả thiện ác đều
xuất phát từ tâm, tự tâm tu thiện khiến tâm an lạc, tự tâm tạo ác khiến tâm
chịu khổ”, “Phước do tâm tác, họa do tâm sinh”. Do đây có thể thấy, con người
tất cả những việc được phước hoặc mắc hoạ, đều là chính mình ở trong cuộc sống
thường ngày ở chỗ thi vi tạo tác mà quyết định, cho nên muốn được phước thì cần
phải trước đem nội tâm của mình tất cả những vọng tâm, ác tâm mà trừ bỏ, trừ bỏ
tất cả các ác của nhân loại; các ác của nhân loại là những gì? Đó là mười ác
nghiệp (tức là mặt trái của mười thiện nghiệp), mười thiện nghiệp phạm rồi thì
là mười ác nghiệp.
Sở dĩ nhân loại có mười ác nghiệp này
đều là do tham – sân – tà kiến của ý nghiệp tạo khởi, mới có thể tay tạo tội
nghiệp, hoặc ý nghiệp biểu hiện ở nơi miệng, thì sẽ tạo tác khẩu nghiệp, hoặc ý
nghiệp biểu hiện ở nơi thân thì sẽ tạo tác thân nghiệp, cho nên ý nghiệp lại
gọi là “tâm nghiệp”; cho đến ngay trong xã hội phạm tội án kiện mà nói, cũng
đều rời không khỏi mười món nghiệp này.
đều là do tham – sân – tà kiến của ý nghiệp tạo khởi, mới có thể tay tạo tội
nghiệp, hoặc ý nghiệp biểu hiện ở nơi miệng, thì sẽ tạo tác khẩu nghiệp, hoặc ý
nghiệp biểu hiện ở nơi thân thì sẽ tạo tác thân nghiệp, cho nên ý nghiệp lại
gọi là “tâm nghiệp”; cho đến ngay trong xã hội phạm tội án kiện mà nói, cũng
đều rời không khỏi mười món nghiệp này.
Tóm lại, cần trừ các ác của nhân loại,
thì quyết cần phải trừ bỏ tâm riêng tư, tâm tham, tâm sân và tà kiến của chính
mình. Một con người nếu có thể trước nhất trừ bỏ tâm riêng tư chính mình, thì
có khả năng “chẳng làm các việc ác”, do đây có thể giảm thiểu các việc khổ phải
chịu, vì ở nơi tình huống mà chẳng làm các việc ác, thì ở trong ruộng tám thức
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt na và a lại da thức) của mình không thể tăng
thêm ác duyên, tiến đến thì có thể “Vưng làm các việc thiện”, do ở nơi làm
nhiều các việc thiện, lại có thể chận đứng tất cả các việc làm ác, thiện duyên
tự sẽ tăng thêm nhiều, ở nơi tình huống này, các món nhân ác từ quá khứ – duyên
ác, tự nhiên sẽ thối lui.
thì quyết cần phải trừ bỏ tâm riêng tư, tâm tham, tâm sân và tà kiến của chính
mình. Một con người nếu có thể trước nhất trừ bỏ tâm riêng tư chính mình, thì
có khả năng “chẳng làm các việc ác”, do đây có thể giảm thiểu các việc khổ phải
chịu, vì ở nơi tình huống mà chẳng làm các việc ác, thì ở trong ruộng tám thức
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt na và a lại da thức) của mình không thể tăng
thêm ác duyên, tiến đến thì có thể “Vưng làm các việc thiện”, do ở nơi làm
nhiều các việc thiện, lại có thể chận đứng tất cả các việc làm ác, thiện duyên
tự sẽ tăng thêm nhiều, ở nơi tình huống này, các món nhân ác từ quá khứ – duyên
ác, tự nhiên sẽ thối lui.
Cho nên Phật giáo tuy nói: “nhân quả ba
đời” nhưng lại chú trọng “nhân quả hiện đời này”. Vì quả báo đời hiện tại là
chỗ đặt để của đời trước chiêu cảm, mà cần phải giảm nhẹ các vấn đề khổ báo,
chỉ cần ở đời này tu thiện, tích đức tích cực, thì có thể giảm chuyển nghiệp
báo (báo thì nặng mà thọ thì nhẹ); Cũng tức là nói các món nhân nghiệp đã tạo
tác ở thời quá khứ của chính mình, hoặc nhân ác từ xưa tới nay phải chịu lấy
khổ nạn trùng trùng, chỉ nhân nơi đời này không tạo lại các nghiệp ác, đồng
thời làm thiện tích cực, tu thiện, báo nặng đáng lẽ phải chịu, tự nhiên chuyển
thành việc nhẹ.
đời” nhưng lại chú trọng “nhân quả hiện đời này”. Vì quả báo đời hiện tại là
chỗ đặt để của đời trước chiêu cảm, mà cần phải giảm nhẹ các vấn đề khổ báo,
chỉ cần ở đời này tu thiện, tích đức tích cực, thì có thể giảm chuyển nghiệp
báo (báo thì nặng mà thọ thì nhẹ); Cũng tức là nói các món nhân nghiệp đã tạo
tác ở thời quá khứ của chính mình, hoặc nhân ác từ xưa tới nay phải chịu lấy
khổ nạn trùng trùng, chỉ nhân nơi đời này không tạo lại các nghiệp ác, đồng
thời làm thiện tích cực, tu thiện, báo nặng đáng lẽ phải chịu, tự nhiên chuyển
thành việc nhẹ.
Cho nên con người chỉ có nhận thức
triệt để quan hệ “nhân quả”, và chỗ chỗ đều lấy “nhân quả” làm điều kiện cần
thiết cơ bản của đời người, tiến đến “chẳng làm các việc ác, nên làm các việc
lành”, mới có thể cuộc sống tinh thần của nhân loại vươn lên, khôi phục được
quan niệm đạo đức, tiến đến kiến lập thế giới tâm lý trang nghiêm của đạo đức,
mới đi đến con đường khang trang sáng lạng. Vì lý tưởng và mục tiêu của con
người bao gồm là: giải trừ phiền não và khổ đau, vượt thoát luân hồi sanh tử.
Cho nên con người chỉ có thấu suốt được thực tiễn Phật pháp, thâm nhập kinh
Phật, tiến đến nhập vào thế giới lý tưởng giải thoát của tâm linh, mới có thể
đến được cuộc sống vĩnh viễn hạnh phúc, khoái lạc, tự do tự tại.
triệt để quan hệ “nhân quả”, và chỗ chỗ đều lấy “nhân quả” làm điều kiện cần
thiết cơ bản của đời người, tiến đến “chẳng làm các việc ác, nên làm các việc
lành”, mới có thể cuộc sống tinh thần của nhân loại vươn lên, khôi phục được
quan niệm đạo đức, tiến đến kiến lập thế giới tâm lý trang nghiêm của đạo đức,
mới đi đến con đường khang trang sáng lạng. Vì lý tưởng và mục tiêu của con
người bao gồm là: giải trừ phiền não và khổ đau, vượt thoát luân hồi sanh tử.
Cho nên con người chỉ có thấu suốt được thực tiễn Phật pháp, thâm nhập kinh
Phật, tiến đến nhập vào thế giới lý tưởng giải thoát của tâm linh, mới có thể
đến được cuộc sống vĩnh viễn hạnh phúc, khoái lạc, tự do tự tại.
Học Phật là giúp chúng ta hiểu rõ cội
nguồn của khổ, sau khi đã hiểu thì không sợ sệt; học Phật có khả năng an bình
được ma phiền trên cuộc sống. Tất cả niệm đều được tạo ra từ không tánh, quả
báo phát ra đều được chính mình thừa nhận không phải là người khác, cho nên bất
cứ cái gì đối với niệm đầu bất lợi cho người khác, cũng tức là bất lợi chính
mình. Niệm đầu tốt mới có chỗ tốt với chính mình, niệm đầu xấu thì đối với
chính mình có chỗ xấu, niệm đầu không thì đối với chính mình vô quái ngại. Cần
phải rõ lớp đạo lý này mới có thể nắm được nhân quả trong bàn tay, biết nhân
quả tức là biết tiến thối. Duyên tất cả sẽ không có quái ngại, tốt nhất tâm
khởi động niệm liên miên đều phải đình chỉ (không suy tưởng), trong tâm không
cả cái không, “nhân” cũng không có.
nguồn của khổ, sau khi đã hiểu thì không sợ sệt; học Phật có khả năng an bình
được ma phiền trên cuộc sống. Tất cả niệm đều được tạo ra từ không tánh, quả
báo phát ra đều được chính mình thừa nhận không phải là người khác, cho nên bất
cứ cái gì đối với niệm đầu bất lợi cho người khác, cũng tức là bất lợi chính
mình. Niệm đầu tốt mới có chỗ tốt với chính mình, niệm đầu xấu thì đối với
chính mình có chỗ xấu, niệm đầu không thì đối với chính mình vô quái ngại. Cần
phải rõ lớp đạo lý này mới có thể nắm được nhân quả trong bàn tay, biết nhân
quả tức là biết tiến thối. Duyên tất cả sẽ không có quái ngại, tốt nhất tâm
khởi động niệm liên miên đều phải đình chỉ (không suy tưởng), trong tâm không
cả cái không, “nhân” cũng không có.
Pháp môn tuy là bước đầu vào cửa Phật
pháp, nhưng rất là trọng yếu, không luận người nào, cũng đều cần phải tin sâu
xa. Không nên không thấy qua quỷ thì không tin có quỷ thần; chưa từng thấy qua
con người làm ác mà thân hiện tại chịu lấy ác báo thì không tin tưởng “nhân quả
báo ứng”, rồi vọng làm hành vi hồ đồ (vọng tác hồ vi). Người ác trên xã hội
hiện tại chịu lấy xử lý về pháp luật, tức là báo ác, tức là cái báo của thân
hiện tại.
pháp, nhưng rất là trọng yếu, không luận người nào, cũng đều cần phải tin sâu
xa. Không nên không thấy qua quỷ thì không tin có quỷ thần; chưa từng thấy qua
con người làm ác mà thân hiện tại chịu lấy ác báo thì không tin tưởng “nhân quả
báo ứng”, rồi vọng làm hành vi hồ đồ (vọng tác hồ vi). Người ác trên xã hội
hiện tại chịu lấy xử lý về pháp luật, tức là báo ác, tức là cái báo của thân
hiện tại.
Học Phật tu hành thì phải hiểu rõ “nhân
quả”, tin sâu nơi “nhân quả”. Không tin nhân quả, thì phàm sự việc theo tâm ham
muốn, vọng làm hồ đồ, như thế thì chẳng cần phải học Phật, chẳng cần phải tu
hành làm gì! Như vậy là duyên cớ gì ư? Vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà không
lọt”, chúng sinh ở cõi ta bà, dù ai có bản lãnh thông thiên, đều không thể trốn
khỏi phán xét của nhân quả. Cho nên nói: “Nhân quả dù đường tơ kẽ tóc không
sai”. Phải, trái, cong, ngay.. tất cả đều ở dưới sự phán xét của nhân quả, sẽ
khiến mọi người tâm phục, khẩu phục.
quả”, tin sâu nơi “nhân quả”. Không tin nhân quả, thì phàm sự việc theo tâm ham
muốn, vọng làm hồ đồ, như thế thì chẳng cần phải học Phật, chẳng cần phải tu
hành làm gì! Như vậy là duyên cớ gì ư? Vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà không
lọt”, chúng sinh ở cõi ta bà, dù ai có bản lãnh thông thiên, đều không thể trốn
khỏi phán xét của nhân quả. Cho nên nói: “Nhân quả dù đường tơ kẽ tóc không
sai”. Phải, trái, cong, ngay.. tất cả đều ở dưới sự phán xét của nhân quả, sẽ
khiến mọi người tâm phục, khẩu phục.
Sự tạo tác thi vi của chúng ta trong
một đời có thiện có ác, báo ứng tương lai không ra khỏi việc:
một đời có thiện có ác, báo ứng tương lai không ra khỏi việc:
– Trồng cây đào, cây lý, trưởng
thành là cây đào, cây lý (làm thiện được báo thiện)
thành là cây đào, cây lý (làm thiện được báo thiện)
– Trồng cây gai trưởng thành là
cây gai (làm ác chịu báo ác)
cây gai (làm ác chịu báo ác)
Cho nên chúng ta muốn tránh hung được
cát, tiêu tai được phước, thì quyết cần phải trồng sâu nhân lành (thiện nhân),
nỗ lực sửa lỗi thành thiện, tương lai mới có thể được quả tốt phước đức cát
tường. Như thường làm nhân ác mà muốn miễn trừ được hung họa tai nạn, như thế
có thể được đâu.
cát, tiêu tai được phước, thì quyết cần phải trồng sâu nhân lành (thiện nhân),
nỗ lực sửa lỗi thành thiện, tương lai mới có thể được quả tốt phước đức cát
tường. Như thường làm nhân ác mà muốn miễn trừ được hung họa tai nạn, như thế
có thể được đâu.
Cho nên khuyên mọi người phải tin sâu
nhân quả, hiểu rõ báo ứng thiện ác, một đường tơ một kẽ tóc không thể sai lệch.
Không nên làm một người mang danh “Phật giáo đồ” mà không tin nhân quả, không
hiểu rõ nhân quả.
nhân quả, hiểu rõ báo ứng thiện ác, một đường tơ một kẽ tóc không thể sai lệch.
Không nên làm một người mang danh “Phật giáo đồ” mà không tin nhân quả, không
hiểu rõ nhân quả.
Phật Đà có Phật nhãn có thể thấy vạn
tượng vũ trụ, dạy chúng sinh nên biết tin nhân quả, “làm thiện được báo thiện,
làm ác chịu báo ác”, khuyên người đời phải dừng ác làm thiện, mới được quả báo
tốt. Người đời chỉ có nhục nhãn nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, như không
thấy qua quỷ thần thì cho rằng không có quỷ thần, người đời nếu học Phật tu
hành công phu tới mức được thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thì có
thể thấy được vạn tượng vũ trụ, được thiên nhãn rồi thì thấy được quỷ thần.
Người đời phần nhiều không học Phật tu hành, hoặc học Phật tu hành mà công phu
chưa sâu, chỉ có nhục nhãn, đương nhiên nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, lại
huống hồ gì nói đến biết vạn tượng vũ trụ.
tượng vũ trụ, dạy chúng sinh nên biết tin nhân quả, “làm thiện được báo thiện,
làm ác chịu báo ác”, khuyên người đời phải dừng ác làm thiện, mới được quả báo
tốt. Người đời chỉ có nhục nhãn nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, như không
thấy qua quỷ thần thì cho rằng không có quỷ thần, người đời nếu học Phật tu
hành công phu tới mức được thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thì có
thể thấy được vạn tượng vũ trụ, được thiên nhãn rồi thì thấy được quỷ thần.
Người đời phần nhiều không học Phật tu hành, hoặc học Phật tu hành mà công phu
chưa sâu, chỉ có nhục nhãn, đương nhiên nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, lại
huống hồ gì nói đến biết vạn tượng vũ trụ.
Luật nhân quả, là sự chứng ngộ đặc biệt
của Đức Phật, là phép tắc sinh diệt vạn tượng thế gian. Nói một cách khác, đây
mới là chân lý vĩnh viễn bất biến, bất luận tin Phật cũng tốt, không tin Phật
cũng tốt, nói chung không có người nào có thể chạy thoát khỏi phép tắc phạm trù
nhân quả. Đói cần phải ăn, buồn ngủ cần phải ngủ, nhất cử nhất động của chúng
ta, không có một kiểu nào không là sự hiển bày của nhân quả; riêng khác chỉ ở
người tin Phật, hiểu rõ nhân quả, tin tưởng nhân quả, không dám vọng làm hành
vi hồ đồ, sợ gặp khổ báo; người không tin Phật, không tin hiểu nhân quả, càng
không thể nói hiểu rõ nhân quả được, kém cỏi thì nên nghĩ lại một chút mới
được.
của Đức Phật, là phép tắc sinh diệt vạn tượng thế gian. Nói một cách khác, đây
mới là chân lý vĩnh viễn bất biến, bất luận tin Phật cũng tốt, không tin Phật
cũng tốt, nói chung không có người nào có thể chạy thoát khỏi phép tắc phạm trù
nhân quả. Đói cần phải ăn, buồn ngủ cần phải ngủ, nhất cử nhất động của chúng
ta, không có một kiểu nào không là sự hiển bày của nhân quả; riêng khác chỉ ở
người tin Phật, hiểu rõ nhân quả, tin tưởng nhân quả, không dám vọng làm hành
vi hồ đồ, sợ gặp khổ báo; người không tin Phật, không tin hiểu nhân quả, càng
không thể nói hiểu rõ nhân quả được, kém cỏi thì nên nghĩ lại một chút mới
được.
Theo lý mà nói, làm một người đệ tử của
Phật, nên phải tất nhiên quan hệ của nhân quả đều phải hiểu rõ, nhân là cái gì,
lại thêm duyên là cái gì, tất nhiên sẽ chiêu đến quả là cái gì, khoảng giữa
này, tuyệt đối không có mảy mún khả năng cầu may, không có một chút sai lầm,
tuyệt đối công bình. Cho nên ở trong pháp nhân quả căn bản không có các từ vựng
kỳ tích, xảo họp, ngẫu nhiên, ngoại lệ… Phàm sự việc có nhân trước, chắc chắn
có nhân trước mới có quả sau.
Phật, nên phải tất nhiên quan hệ của nhân quả đều phải hiểu rõ, nhân là cái gì,
lại thêm duyên là cái gì, tất nhiên sẽ chiêu đến quả là cái gì, khoảng giữa
này, tuyệt đối không có mảy mún khả năng cầu may, không có một chút sai lầm,
tuyệt đối công bình. Cho nên ở trong pháp nhân quả căn bản không có các từ vựng
kỳ tích, xảo họp, ngẫu nhiên, ngoại lệ… Phàm sự việc có nhân trước, chắc chắn
có nhân trước mới có quả sau.
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ
tranh lai tảo dữ lai trì”, “Nhược hữu bất báo, thời thần vị đáo”… những câu
nói này, không những là bốn chúng đệ tử trong cửa Phật, không người nào chẳng
hiểu, ai ai cũng có thể biết, tức là tất cả những nhân sĩ trong xã hội, không
được nghe nói, sợ rằng cũng không tìm ra mấy người, thật là đáng tiếc; Người
thật có thể tin sâu xa không nghi, ngược lại không gặp nhiều; đệ tử của Phật
nếu không thể tin sâu, cũng nói là chưa được.
tranh lai tảo dữ lai trì”, “Nhược hữu bất báo, thời thần vị đáo”… những câu
nói này, không những là bốn chúng đệ tử trong cửa Phật, không người nào chẳng
hiểu, ai ai cũng có thể biết, tức là tất cả những nhân sĩ trong xã hội, không
được nghe nói, sợ rằng cũng không tìm ra mấy người, thật là đáng tiếc; Người
thật có thể tin sâu xa không nghi, ngược lại không gặp nhiều; đệ tử của Phật
nếu không thể tin sâu, cũng nói là chưa được.
Kinh Phật nói rằng: “Nhược vấn tiền thế
nhân, kim sanh thọ giả thị; nhược vấn lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Nếu
muốn biết nhân đời trước, thì hãy nhìn kết quả lãnh thọ đời này; nếu muốn biết
kết quả đời sau, hãy nhìn nhân đời nầy làm ra). Nếu như chí thành học Phật tu
hành, tin sâu báo ứng nhân quả, đích xác là chút mảy không sai. Như vậy chịu ở
trên cái nhân mà dụng công, nếu chỉ ở trên cái quả mà so tính được mất, không
biết cầu quả vui thì chắc chắn trước tiên phải trồng nhân lành, nhân ác chắc
chắn chiêu lấy quả ác, đây là nhân quả vững chắc. Đời sống này nghèo cùng nhiều
tai nạn là khổ báo của đời trước đã làm ác, báo ứng qua rồi mới được báo lành;
Người ta giàu có vinh hoa, hồ đồ làm hành vi sai trái, nhưng ngược lại trăm
việc hanh thông, đó là người ta đời trước làm thiện, đời này hưởng phước, đợi
phước hết rồi thì phải chịu khổ báo. Nếu nhơn theo sự sai khiến của tham tâm và
tư tâm, rốt cuộc quên mất đạo lý này, cưỡng cầu vọng làm, nhân ác từng niệm,
việc làm cũng là nhân ác, ngược lại hy vọng kết quả tốt đẹp, khác nào ngược
đường mà chạy. Không tin! Nếu ở dưới tòa sen của đức Phật, mắt lạnh bàng quan,
chỉ là lợi dụng Phật pháp dối đời trộm danh, rộng thu lấy tiếng tăm lợi dưỡng
một mình, ham muốn vui say hưởng dụng, tàn cuộc mấy người tốt đẹp, vả lại phần
nhiều là hoa Đàm một khi xuất hiện, theo đó thân bại danh liệt, khổ nạn thật
sự, sợ sệt mà còn chẳng chịu dừng lại từ đây ư?
nhân, kim sanh thọ giả thị; nhược vấn lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Nếu
muốn biết nhân đời trước, thì hãy nhìn kết quả lãnh thọ đời này; nếu muốn biết
kết quả đời sau, hãy nhìn nhân đời nầy làm ra). Nếu như chí thành học Phật tu
hành, tin sâu báo ứng nhân quả, đích xác là chút mảy không sai. Như vậy chịu ở
trên cái nhân mà dụng công, nếu chỉ ở trên cái quả mà so tính được mất, không
biết cầu quả vui thì chắc chắn trước tiên phải trồng nhân lành, nhân ác chắc
chắn chiêu lấy quả ác, đây là nhân quả vững chắc. Đời sống này nghèo cùng nhiều
tai nạn là khổ báo của đời trước đã làm ác, báo ứng qua rồi mới được báo lành;
Người ta giàu có vinh hoa, hồ đồ làm hành vi sai trái, nhưng ngược lại trăm
việc hanh thông, đó là người ta đời trước làm thiện, đời này hưởng phước, đợi
phước hết rồi thì phải chịu khổ báo. Nếu nhơn theo sự sai khiến của tham tâm và
tư tâm, rốt cuộc quên mất đạo lý này, cưỡng cầu vọng làm, nhân ác từng niệm,
việc làm cũng là nhân ác, ngược lại hy vọng kết quả tốt đẹp, khác nào ngược
đường mà chạy. Không tin! Nếu ở dưới tòa sen của đức Phật, mắt lạnh bàng quan,
chỉ là lợi dụng Phật pháp dối đời trộm danh, rộng thu lấy tiếng tăm lợi dưỡng
một mình, ham muốn vui say hưởng dụng, tàn cuộc mấy người tốt đẹp, vả lại phần
nhiều là hoa Đàm một khi xuất hiện, theo đó thân bại danh liệt, khổ nạn thật
sự, sợ sệt mà còn chẳng chịu dừng lại từ đây ư?
Chúng ta quy y tam bảo, học pháp xuất
thế, xưa nay là vì việc lớn sanh tử, vì sao vẫn vậy ở trên danh, lợi, sắc,
miếng ăn của thế tục làm kế sống? Phóng túng tham, sân, si mà tạo các ác
nghiệp? Như chân chánh quy y tam bảo, thành tâm học Phật, có chí nơi đạo
nghiệp, tin sâu nhân quả, cố siêng tự tu, ngàn vạn chẳng thể chịu người khinh
gạt, tuỳ hỉ nơi nghiệp ác. Trên việc nhân quả, quyết không thiên tư, cũng không
được chống đối. Cho nên đã là đệ tử Phật, phàm có sự thi vi, thì nhất định cần
nghĩ đến hậu quả, mới có thể bắt tay, việc tự lợi lợi tha có thể nói có thể
làm, đối với người có lợi, đối với mình không tổn, cũng nên làm nhiều; việc mà
tổn người lợi mình, quyết không được làm, việc tổn người mà không lợi mình càng
không được làm. Nguyện đệ tử của Phật chúng ta đều có thể tin sâu nhân quả, cầu
Bồ Đề được Bồ Đề.
thế, xưa nay là vì việc lớn sanh tử, vì sao vẫn vậy ở trên danh, lợi, sắc,
miếng ăn của thế tục làm kế sống? Phóng túng tham, sân, si mà tạo các ác
nghiệp? Như chân chánh quy y tam bảo, thành tâm học Phật, có chí nơi đạo
nghiệp, tin sâu nhân quả, cố siêng tự tu, ngàn vạn chẳng thể chịu người khinh
gạt, tuỳ hỉ nơi nghiệp ác. Trên việc nhân quả, quyết không thiên tư, cũng không
được chống đối. Cho nên đã là đệ tử Phật, phàm có sự thi vi, thì nhất định cần
nghĩ đến hậu quả, mới có thể bắt tay, việc tự lợi lợi tha có thể nói có thể
làm, đối với người có lợi, đối với mình không tổn, cũng nên làm nhiều; việc mà
tổn người lợi mình, quyết không được làm, việc tổn người mà không lợi mình càng
không được làm. Nguyện đệ tử của Phật chúng ta đều có thể tin sâu nhân quả, cầu
Bồ Đề được Bồ Đề.
Đức Phật chỉ bày luật nhân quả, chủ yếu
nhất là muốn chúng ta không được tạo các nghiệp ác, để khỏi phải thọ báo khổ
trong tương lai, quả báo đã đến đối mặt, thì nên ngộ rõ là cái ác tạo tác đời
trước đã đến, thản nhiên mà tiếp nhận, trả lại nợ nần; như con cái bất hiếu,
gia đình không hòa, sự nghiệp chẳng thuận, quan hệ ác liệt của con người, phá
tài sản, sinh bệnh, thủ thuật dao cắt… tức là trả lại nợ nần.
nhất là muốn chúng ta không được tạo các nghiệp ác, để khỏi phải thọ báo khổ
trong tương lai, quả báo đã đến đối mặt, thì nên ngộ rõ là cái ác tạo tác đời
trước đã đến, thản nhiên mà tiếp nhận, trả lại nợ nần; như con cái bất hiếu,
gia đình không hòa, sự nghiệp chẳng thuận, quan hệ ác liệt của con người, phá
tài sản, sinh bệnh, thủ thuật dao cắt… tức là trả lại nợ nần.
Nếu đọc xem kinh luận, có thể đưa ra
“Phật nói báo ứng luân hồi năm con đường phước”, hay “Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn
nguyện” xin đọc tụng vài quyển, chắc chắn biết được tu hành phước huệ ra sao.
“Phật nói báo ứng luân hồi năm con đường phước”, hay “Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn
nguyện” xin đọc tụng vài quyển, chắc chắn biết được tu hành phước huệ ra sao.
Tuy mọi người đều biết quan hệ nhân
quả, nhưng người có thể khởi quán tu nhân lại rất là ít, người nhờ vào sự xung
động làm việc chiếm đa số, hai chữ “nhân quả” chỉ là “hai chữ” thế thôi, căn
bản phát không ra sức, khởi không được tác dụng, không thể dùng sức nhân quả để
khống chế ý thức chính mình, lúc trạng thái tình huống đến, điều thứ nhất nổi
lên ở trong tâm không phải là nhân quả, mà là riêng tư và cừu hận… những tình
tự xung động này, ngay những tánh tình thiêu đốt này sau khi phát tác xong, từ
ký ức sâu xa “nhân quả” mới từ từ tỉnh lại, cuối cùng phát hiện ra tính nghiêm
trọng của sự tình, nhiên hậu trở lại thu gom hậu quả tàn phá, lý do, mọi người
không phải là không hiểu được đạo lý nhân quả, chỉ là không chịu tu hành, chỉ
dừng lại ở giai đoạn “biết”, mà thường thường sức biết thì mười phần đơn lẻ
mỏng manh, chống lại không được sự xung động của dục vọng. Bình thường người ta
rất chiếu cố các niệm đầu: tham – sân – si, một khi có trạng huống phát sinh,
thì trước tiên ở trong gân não lựa chọn một cái gì đó đối phó trạng huống, căn
bản không muốn ý được yên tĩnh, khiến tham – sân – si từ trong niệm đầu trượt
qua, mà đem nhân quả dừng lại dùng nhân quả quán sát, khiến “cái nhìn nhân quả”
thành là một món lực lượng, kiểu này mới có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi
con người, lấy luật nhân quả làm một loại nhân sinh quan, ở trong một nhân sinh
quan này, làm người xử việc, mà bất tất khiến tâm linh đối với sự bất an đợi
chờ phán xét, tâm tình cũng mở sáng không được, theo thời gian sợ hãi mãi Thần
minh ba thước trên trời và phán quan địa ngục đến dẫn người. Do đây, cần làm
tốt công tác “dự phòng”, cũng cần có thể trước tiên hiểu rõ nhân quả biện biệt
thị phi, mà làm cương lãnh cần thiết của tu trì; Tóm lại: 1. – Biết tin nhân
quả. 2. – Ở trong sinh hoạt thường ngày khởi lên quán sát nhân quả. 3. – Sau
khi quán chiếu thì cần nỗ lực khống chế xung động, khiến “nhân quả” thành là
lực lượng, có lực lượng mới tu thành “nhân quả quán” được.
quả, nhưng người có thể khởi quán tu nhân lại rất là ít, người nhờ vào sự xung
động làm việc chiếm đa số, hai chữ “nhân quả” chỉ là “hai chữ” thế thôi, căn
bản phát không ra sức, khởi không được tác dụng, không thể dùng sức nhân quả để
khống chế ý thức chính mình, lúc trạng thái tình huống đến, điều thứ nhất nổi
lên ở trong tâm không phải là nhân quả, mà là riêng tư và cừu hận… những tình
tự xung động này, ngay những tánh tình thiêu đốt này sau khi phát tác xong, từ
ký ức sâu xa “nhân quả” mới từ từ tỉnh lại, cuối cùng phát hiện ra tính nghiêm
trọng của sự tình, nhiên hậu trở lại thu gom hậu quả tàn phá, lý do, mọi người
không phải là không hiểu được đạo lý nhân quả, chỉ là không chịu tu hành, chỉ
dừng lại ở giai đoạn “biết”, mà thường thường sức biết thì mười phần đơn lẻ
mỏng manh, chống lại không được sự xung động của dục vọng. Bình thường người ta
rất chiếu cố các niệm đầu: tham – sân – si, một khi có trạng huống phát sinh,
thì trước tiên ở trong gân não lựa chọn một cái gì đó đối phó trạng huống, căn
bản không muốn ý được yên tĩnh, khiến tham – sân – si từ trong niệm đầu trượt
qua, mà đem nhân quả dừng lại dùng nhân quả quán sát, khiến “cái nhìn nhân quả”
thành là một món lực lượng, kiểu này mới có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi
con người, lấy luật nhân quả làm một loại nhân sinh quan, ở trong một nhân sinh
quan này, làm người xử việc, mà bất tất khiến tâm linh đối với sự bất an đợi
chờ phán xét, tâm tình cũng mở sáng không được, theo thời gian sợ hãi mãi Thần
minh ba thước trên trời và phán quan địa ngục đến dẫn người. Do đây, cần làm
tốt công tác “dự phòng”, cũng cần có thể trước tiên hiểu rõ nhân quả biện biệt
thị phi, mà làm cương lãnh cần thiết của tu trì; Tóm lại: 1. – Biết tin nhân
quả. 2. – Ở trong sinh hoạt thường ngày khởi lên quán sát nhân quả. 3. – Sau
khi quán chiếu thì cần nỗ lực khống chế xung động, khiến “nhân quả” thành là
lực lượng, có lực lượng mới tu thành “nhân quả quán” được.
Một người hiểu rõ được nhân quả, gặp
việc trước nhất biết được kết quả sau khi phạm sai lầm, sẽ hại, sợ chuốc lấy
việc xử lý của pháp luật, cho nên sẽ kiểm thúc hành vi chính mình, kiểu này
cũng giống như phương pháp phòng bệnh của y học. Nhưng ngược lại có rất nhiều
người biết rõ hậu quả của sai lầm, họ kiềm chế chưa được xung động của chính
mình mà nung nấu ra đại họa, thậm chí mất đi sinh mạng quý báu, khó bảo rằng
chính họ có quý tiếc sinh mạng hay không?
việc trước nhất biết được kết quả sau khi phạm sai lầm, sẽ hại, sợ chuốc lấy
việc xử lý của pháp luật, cho nên sẽ kiểm thúc hành vi chính mình, kiểu này
cũng giống như phương pháp phòng bệnh của y học. Nhưng ngược lại có rất nhiều
người biết rõ hậu quả của sai lầm, họ kiềm chế chưa được xung động của chính
mình mà nung nấu ra đại họa, thậm chí mất đi sinh mạng quý báu, khó bảo rằng
chính họ có quý tiếc sinh mạng hay không?
Kỳ thật, “nhân quả” chỉ là một quan
niệm, đã được tri thức giáo dục đưa ra, không nhất định là cái năng lực; không
có năng lực thì không có khả năng cùng với hành vi đối kháng xen nhau, động lực
của hành vi vĩnh viễn mạnh hơn tri thức chính mình, như thế, họ vẫn sẽ “trang
điểm” cái nhìn nhân quả và đạo đức đầy đầu mà đi phạm sai lầm, vì “cái nhìn”
của họ trọn không có “lực nhìn”, chẳng giống tập tánh bản thân: tâm tham, cừu
hận… cũng có một món năng lực, cái năng lực này là từ nhỏ đã bị nuôi nấng mà
ra, mỗi ngày đều dùng đến, mỗi lúc đều nghĩ đến, nên nói rằng họ có thể nào mà
chẳng phát sinh ra năng lực to lớn? Cũng vậy, chúng ta cần đem quan niệm nhân
quả hoặc đạo đức làm thành một cái năng lực, có thể nói trực tiếp đem ra khắc
phục hành vi, cũng như vậy mỗi ngày làm, mỗi lúc nghĩ, ở trong cuộc sống tuỳ
thời khởi quán để quán sát con người và sự việc, sau khi quán lâu rồi, sự quán
sát đó cũng sẽ phát sinh ra năng lực chỉ huy hành vi; Chú ý! Không nên một mạch
dừng lại ở nơi “quán” mà chẳng chịu “hành”, cần phải vừa quán vừa hành; mới bắt
đầu tất nhiên quán nhiều mà hành ít, hoặc là một mặt thì quán còn một mặt vẫn
phạm sai lầm, (lúc này nên phối hợp tu sám hối), nhưng chỉ cần kiên định ý chí
không sợ khó, thì có thể khiến sự quán lần hồi mạnh hơn sự xung động của tham
sân si, nhiên hậu phát sinh ra cái gọi là “chánh quán lực”; lúc này chỉ cần
niệm loé lên, cũng sẽ có luật nhân quả ở trong tâm mạnh mẽ chuyển vận, hành vi
sở hữu của anh đều tiếp nhận lấy lề lối của nhân quả như thế thì tính ra làm
việc xấu cũng rất khó.
niệm, đã được tri thức giáo dục đưa ra, không nhất định là cái năng lực; không
có năng lực thì không có khả năng cùng với hành vi đối kháng xen nhau, động lực
của hành vi vĩnh viễn mạnh hơn tri thức chính mình, như thế, họ vẫn sẽ “trang
điểm” cái nhìn nhân quả và đạo đức đầy đầu mà đi phạm sai lầm, vì “cái nhìn”
của họ trọn không có “lực nhìn”, chẳng giống tập tánh bản thân: tâm tham, cừu
hận… cũng có một món năng lực, cái năng lực này là từ nhỏ đã bị nuôi nấng mà
ra, mỗi ngày đều dùng đến, mỗi lúc đều nghĩ đến, nên nói rằng họ có thể nào mà
chẳng phát sinh ra năng lực to lớn? Cũng vậy, chúng ta cần đem quan niệm nhân
quả hoặc đạo đức làm thành một cái năng lực, có thể nói trực tiếp đem ra khắc
phục hành vi, cũng như vậy mỗi ngày làm, mỗi lúc nghĩ, ở trong cuộc sống tuỳ
thời khởi quán để quán sát con người và sự việc, sau khi quán lâu rồi, sự quán
sát đó cũng sẽ phát sinh ra năng lực chỉ huy hành vi; Chú ý! Không nên một mạch
dừng lại ở nơi “quán” mà chẳng chịu “hành”, cần phải vừa quán vừa hành; mới bắt
đầu tất nhiên quán nhiều mà hành ít, hoặc là một mặt thì quán còn một mặt vẫn
phạm sai lầm, (lúc này nên phối hợp tu sám hối), nhưng chỉ cần kiên định ý chí
không sợ khó, thì có thể khiến sự quán lần hồi mạnh hơn sự xung động của tham
sân si, nhiên hậu phát sinh ra cái gọi là “chánh quán lực”; lúc này chỉ cần
niệm loé lên, cũng sẽ có luật nhân quả ở trong tâm mạnh mẽ chuyển vận, hành vi
sở hữu của anh đều tiếp nhận lấy lề lối của nhân quả như thế thì tính ra làm
việc xấu cũng rất khó.
Bất cứ người nào cũng biết đạo lý:
thiện có báo thiện, ác có báo ác, nhưng ở trên thế giới này vẫn có rất nhiều
người không thể khống chế hành vi chính mình, tạo ác hoặc làm thiện thường
thường không phép tắc mà cứ theo tâm ham muốn; trong tâm tuy nghĩ là phải làm
thiện, mà trên thực tế hai chân ngược lại, thường thường không nghe sai khiến,
đổi chỗ chạy đi tới nơi không đáng đi mà tạo ra ác nghiệp, đợi đến lúc lương
tri thức tỉnh, mới phát hiện tự mình căn bản không có năng lực để gánh vác tất
cả những ác quả này, giống như có một luồng khói sương vô hình ngăn cản con
đường trước mặt, sau đó là một đôi tay vô hình, dẫn người mê hoặc đi đến tuyệt
lộ; luồng khói sương này là “nghiệp lực” của chúng ta, mà đôi tay vô hình đó
cũng tức là năng lực của nhân quả. Nếu như chúng ta không trừ dọn sạch nghiệp
lực trước mắt, thì khó thấy mình bị dẫn dắt đến loại cảnh giới nào? Cho nên
chúng ta cần xử lý nhân quả về trước của mình, thì trước tiên nên nỗ lực chuyển
đổi nghiệp lực của chính mình, trừ dọn sạch khói sương trước mắt; sáng tạo
thiện duyên thiện nhân mới, cải thiện quả báo bất lương, đem việc tổn thương
tai hại mà đè bẹp đến mức tối thiểu.
thiện có báo thiện, ác có báo ác, nhưng ở trên thế giới này vẫn có rất nhiều
người không thể khống chế hành vi chính mình, tạo ác hoặc làm thiện thường
thường không phép tắc mà cứ theo tâm ham muốn; trong tâm tuy nghĩ là phải làm
thiện, mà trên thực tế hai chân ngược lại, thường thường không nghe sai khiến,
đổi chỗ chạy đi tới nơi không đáng đi mà tạo ra ác nghiệp, đợi đến lúc lương
tri thức tỉnh, mới phát hiện tự mình căn bản không có năng lực để gánh vác tất
cả những ác quả này, giống như có một luồng khói sương vô hình ngăn cản con
đường trước mặt, sau đó là một đôi tay vô hình, dẫn người mê hoặc đi đến tuyệt
lộ; luồng khói sương này là “nghiệp lực” của chúng ta, mà đôi tay vô hình đó
cũng tức là năng lực của nhân quả. Nếu như chúng ta không trừ dọn sạch nghiệp
lực trước mắt, thì khó thấy mình bị dẫn dắt đến loại cảnh giới nào? Cho nên
chúng ta cần xử lý nhân quả về trước của mình, thì trước tiên nên nỗ lực chuyển
đổi nghiệp lực của chính mình, trừ dọn sạch khói sương trước mắt; sáng tạo
thiện duyên thiện nhân mới, cải thiện quả báo bất lương, đem việc tổn thương
tai hại mà đè bẹp đến mức tối thiểu.
Nghiệp lực của con người đương nhiên
cũng là cái nguồn nhân quả đã tạo ở đời trước, nhân quả thiện khiến người được
nghiệp lực thiện đi chế tạo quang minh và thánh khiết của đời người; mà nhân
quả ác thì chứa đựng sự xung động chúng ta không thể khắc chế, khiến lý trí và
lương tri của ta, trong sự xung động, bị che đậy mà mang đến khổ đau và tổn
thương. Phật pháp tuy vô biên, ở trước nghiệp lực của con người, hãy còn một
cái hạn chế không thể nhảy vượt. Cho nên có rất nhiều bạn bè học Phật, tuy học
đầy kinh luận, tuy vào cửa bái thầy tập thiền định, nhưng chỉ cần nghiệp lực
một ngày không chuyển biến, thì Phật pháp cũng chẳng thể xuyên thấu nghiệp lực
của chúng ta mà khai ngộ minh tánh. Cho nên nghiệp lực tuy đáng sợ nhưng chỉ
cần công phu chuyển đổi làm tốt rồi, ác nghiệp cũng có thể lập tức bị đóng chặt
ở chỗ sâu xa của tâm linh, khiến nó không thể khởi ra hiện hạnh, mà nhường cho
nghiệp thiện đến làm chủ, như thế chúng ta xem đầy bao nhiêu là kinh luận,
khiến cho chính mình có thể “chớ nên làm các ác, các điều thiện vưng làm, tự
tịnh nơi tâm ý”, một mấu chốt tức là cần niệm nhiều: Nam mô A Di Đà Phật! Nhờ
Phật lực ép chế nghiệp lực, niệm Phật càng nhiều, lực niệm Phật càng lớn, lực
niệm Phật càng lớn thì nghiệp lực càng thu nhỏ cho tới không còn; nghiệp lực bị
ép chế rồi không thể phát sinh tác dụng, tu hành sẽ không có nghiệp lực trở
ngại, đồng thời ác niệm một khi khởi lên thì biết, bèn quở trách mà chẳng thể
tạo ác nghiệp. Niệm Phật đến khi trong tâm có Phật, lúc miệng chẳng niệm tâm
vẫn ở tại niệm, chẳng niệm mà tự niệm, Phật chẳng rời tâm, tâm không rời Phật,
ác niệm không từ chỗ nào mà sinh khởi.
cũng là cái nguồn nhân quả đã tạo ở đời trước, nhân quả thiện khiến người được
nghiệp lực thiện đi chế tạo quang minh và thánh khiết của đời người; mà nhân
quả ác thì chứa đựng sự xung động chúng ta không thể khắc chế, khiến lý trí và
lương tri của ta, trong sự xung động, bị che đậy mà mang đến khổ đau và tổn
thương. Phật pháp tuy vô biên, ở trước nghiệp lực của con người, hãy còn một
cái hạn chế không thể nhảy vượt. Cho nên có rất nhiều bạn bè học Phật, tuy học
đầy kinh luận, tuy vào cửa bái thầy tập thiền định, nhưng chỉ cần nghiệp lực
một ngày không chuyển biến, thì Phật pháp cũng chẳng thể xuyên thấu nghiệp lực
của chúng ta mà khai ngộ minh tánh. Cho nên nghiệp lực tuy đáng sợ nhưng chỉ
cần công phu chuyển đổi làm tốt rồi, ác nghiệp cũng có thể lập tức bị đóng chặt
ở chỗ sâu xa của tâm linh, khiến nó không thể khởi ra hiện hạnh, mà nhường cho
nghiệp thiện đến làm chủ, như thế chúng ta xem đầy bao nhiêu là kinh luận,
khiến cho chính mình có thể “chớ nên làm các ác, các điều thiện vưng làm, tự
tịnh nơi tâm ý”, một mấu chốt tức là cần niệm nhiều: Nam mô A Di Đà Phật! Nhờ
Phật lực ép chế nghiệp lực, niệm Phật càng nhiều, lực niệm Phật càng lớn, lực
niệm Phật càng lớn thì nghiệp lực càng thu nhỏ cho tới không còn; nghiệp lực bị
ép chế rồi không thể phát sinh tác dụng, tu hành sẽ không có nghiệp lực trở
ngại, đồng thời ác niệm một khi khởi lên thì biết, bèn quở trách mà chẳng thể
tạo ác nghiệp. Niệm Phật đến khi trong tâm có Phật, lúc miệng chẳng niệm tâm
vẫn ở tại niệm, chẳng niệm mà tự niệm, Phật chẳng rời tâm, tâm không rời Phật,
ác niệm không từ chỗ nào mà sinh khởi.
Người biết (tin) nhân quả chẳng ước ao,
càng không thể oán trách người.
càng không thể oán trách người.
Quả thiện ác ở trong khoảng nhất niệm.
Đức Phật chỉ bày nhân quả, điều rất chủ
yếu là muốn chúng ta phàm phu không tạo các ác nghiệp, để tương lai khỏi chịu
báo khổ, lúc khổ báo đã đến đối mặt, thì đầu tiên nên liễu ngộ là việc làm ác
ngày trước đã đến, mà thảng nhiên tiếp nhận, trả lại nợ nần, như là con cái bất
hiếu, gia đình bất hòa, sự nghiệp chẳng thuận, quan hệ con người ác liệt, phá
tài, sinh bệnh, uống thuốc đắng, thủ thuật đao cắt… đều là các phương thức
trả lại nợ nần.
yếu là muốn chúng ta phàm phu không tạo các ác nghiệp, để tương lai khỏi chịu
báo khổ, lúc khổ báo đã đến đối mặt, thì đầu tiên nên liễu ngộ là việc làm ác
ngày trước đã đến, mà thảng nhiên tiếp nhận, trả lại nợ nần, như là con cái bất
hiếu, gia đình bất hòa, sự nghiệp chẳng thuận, quan hệ con người ác liệt, phá
tài, sinh bệnh, uống thuốc đắng, thủ thuật đao cắt… đều là các phương thức
trả lại nợ nần.
Như thế làm ác, hành thiện được báo ứng
gì? Thế giới ta bà chia ra sáu đường, tức là: trời, A ta la, người, súc sinh,
ngạ quỷ, địa ngục.
gì? Thế giới ta bà chia ra sáu đường, tức là: trời, A ta la, người, súc sinh,
ngạ quỷ, địa ngục.
Cõi trời hưởng phước, thọ mạng cũng
dài; A tu la phước báo giống như trời, nhưng có tâm sân; loài người có nghèo,
giàu, khổ, vui… nói chung khổ nhiều vui ít; súc sinh thì là khổ, chúng ta đều
thấy đó, trở xuống một đường khổ hơn một đường.
dài; A tu la phước báo giống như trời, nhưng có tâm sân; loài người có nghèo,
giàu, khổ, vui… nói chung khổ nhiều vui ít; súc sinh thì là khổ, chúng ta đều
thấy đó, trở xuống một đường khổ hơn một đường.
Hành thiện hợp với đạo trời, sanh vào
cõi trời hưởng phước, phước báo hưởng hết rồi, đoạ lạc vào cõi người hoặc súc
sinh, hành thiện hợp với nhân đạo lại chuyển sinh làm người, sinh nhà giàu có;
làm ác hợp với nhân đạo, sinh nhà nghèo cùng hoặc thấp hèn chướng nạn thọ khổ;
hợp với súc sinh đạo thì đoạ lạc làm súc sinh thọ khổ. Trở xuống các loài nên
xét biết.
cõi trời hưởng phước, phước báo hưởng hết rồi, đoạ lạc vào cõi người hoặc súc
sinh, hành thiện hợp với nhân đạo lại chuyển sinh làm người, sinh nhà giàu có;
làm ác hợp với nhân đạo, sinh nhà nghèo cùng hoặc thấp hèn chướng nạn thọ khổ;
hợp với súc sinh đạo thì đoạ lạc làm súc sinh thọ khổ. Trở xuống các loài nên
xét biết.
Như thế, thế nào là ác? thế nào là
thiện?
thiện?
Ác là phàm tư tưởng, ngôn ngữ hay hành
vi của tất cả chúng sinh tổn hại, trái với luân lý đạo đức, lương tâm, trái lại
với pháp luật quốc gia… đều là ác; trái với mười nghiệp thiện tức là ác.
vi của tất cả chúng sinh tổn hại, trái với luân lý đạo đức, lương tâm, trái lại
với pháp luật quốc gia… đều là ác; trái với mười nghiệp thiện tức là ác.
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói thế nào là
năm điều ác?
năm điều ác?
·
Một
là loại nhân dân manh động của chư thiên, muốn làm các ác, chẳng lúc nào chẳng
làm như vậy. Kẻ mạnh hiếp yếu, xoay vần đánh nhau, tàn hại giết chóc, đắp đổi
cắn nuốt nhau, không biết tu thiện, ác nghịch vô đạo. Sau chịu lấy tội ương tự
nhiên đưa đến. Thần minh nhớ biết người phạm không tha thứ. Cho nên có việc:
nghèo cùng hạ tiện, ăn xin cô độc, đui điếc ngọng câm, ngu si tệ ác, cho đến
lúc luống cuống chậm chạp. Lại có kẻ tôn quý giàu có, tiền của thành đạt, đều
là do đời trước từ hiếu, tu thiện tích đức dẫn đến.
Một
là loại nhân dân manh động của chư thiên, muốn làm các ác, chẳng lúc nào chẳng
làm như vậy. Kẻ mạnh hiếp yếu, xoay vần đánh nhau, tàn hại giết chóc, đắp đổi
cắn nuốt nhau, không biết tu thiện, ác nghịch vô đạo. Sau chịu lấy tội ương tự
nhiên đưa đến. Thần minh nhớ biết người phạm không tha thứ. Cho nên có việc:
nghèo cùng hạ tiện, ăn xin cô độc, đui điếc ngọng câm, ngu si tệ ác, cho đến
lúc luống cuống chậm chạp. Lại có kẻ tôn quý giàu có, tiền của thành đạt, đều
là do đời trước từ hiếu, tu thiện tích đức dẫn đến.
·
Hai
là nhân dân thế gian, cha con anh em, nhà cửa chồng vợ, đều không nghĩa lý,
không thuận khuôn phép, ham muốn quá đỗi, kiêu căng buông tuồng, đều ưa khoái
ý. Mặc tâm tự lung càng dối gạt nhau. Miệng và tâm đều khác, lời nói và suy
nghĩ không thật. Nịnh xiểm không trung, xảo ngôn dối lừa. Ghét hiền chê thiện,
hãm hại oán cuồng. Vua trên không minh. Mặc dù dùng tôi: tôi dưới tự tại, dối
lừa nhiều kiểu. Bước qua nên đi, phải biết hình thế. Lúc tại vị không chánh dễ
bị dối gạt, vọng làm tổn hại kẻ trung lương chẳng đúng với lòng trời. Tôi dối
vua, con dối cha, anh em vợ chồng, kẻ tri thức trong ngoài lại dối gạt lẫn nhau.
Ôm lòng tham dục, sân nhuế ngu si. Muốn vun vén chính mình, muốn tham có nhiều.
Sang – hèn – trên – dưới tâm đều đồng vậy. Phá nhà mất mạng, không nhìn trước
sau. Thân thuộc nội ngoại, ngồi đó mất dòng họ. Hoặc lúc nhà cửa tri thức, bè
làng bạn chợ, dân ngu người quê, cùng theo việc họ. Lại lợi hại với nhau, giận
thành oán kết. Kẻ giàu có thì lẫn tiếc, không chịu bố thí, ôm giữ tham lam,
nhọc tâm khổ thân. Như vậy rốt cuộc, không chỗ cậy nhờ, riêng đến riêng đi,
không mộ ai theo, thiện ác họa phước, tìm chỗ sinh ra mạng, hoặc ở chỗ vui,
hoặc vào chỗ khổ độc, nhiên hậu sám hối làm sao cho kịp.
Hai
là nhân dân thế gian, cha con anh em, nhà cửa chồng vợ, đều không nghĩa lý,
không thuận khuôn phép, ham muốn quá đỗi, kiêu căng buông tuồng, đều ưa khoái
ý. Mặc tâm tự lung càng dối gạt nhau. Miệng và tâm đều khác, lời nói và suy
nghĩ không thật. Nịnh xiểm không trung, xảo ngôn dối lừa. Ghét hiền chê thiện,
hãm hại oán cuồng. Vua trên không minh. Mặc dù dùng tôi: tôi dưới tự tại, dối
lừa nhiều kiểu. Bước qua nên đi, phải biết hình thế. Lúc tại vị không chánh dễ
bị dối gạt, vọng làm tổn hại kẻ trung lương chẳng đúng với lòng trời. Tôi dối
vua, con dối cha, anh em vợ chồng, kẻ tri thức trong ngoài lại dối gạt lẫn nhau.
Ôm lòng tham dục, sân nhuế ngu si. Muốn vun vén chính mình, muốn tham có nhiều.
Sang – hèn – trên – dưới tâm đều đồng vậy. Phá nhà mất mạng, không nhìn trước
sau. Thân thuộc nội ngoại, ngồi đó mất dòng họ. Hoặc lúc nhà cửa tri thức, bè
làng bạn chợ, dân ngu người quê, cùng theo việc họ. Lại lợi hại với nhau, giận
thành oán kết. Kẻ giàu có thì lẫn tiếc, không chịu bố thí, ôm giữ tham lam,
nhọc tâm khổ thân. Như vậy rốt cuộc, không chỗ cậy nhờ, riêng đến riêng đi,
không mộ ai theo, thiện ác họa phước, tìm chỗ sinh ra mạng, hoặc ở chỗ vui,
hoặc vào chỗ khổ độc, nhiên hậu sám hối làm sao cho kịp.
·
Ba
là nhân dân thế gian nhân với nhau mà sống gởi, cùng ở trong khoảng trời đất.
Năm tháng trôi đi thọ mạng không bao nhiêu. Trên có những bậc hiền minh, trưởng
giả, tôn quý, giàu có; dưới có những người nghèo cùng, hà tiện, yếu kém, ngu
si; giữa có những kẻ bất thiện, thường ôm lòng tà ác, chỉ nghĩ ham muốn nhẫy
đầy, phiền chật trong lòng, ái dục loạn xạ, ngồi đứng chẳng yên, ý tham giữ
tiếc, chỉ muốn được khống. Trông liếc sắc mịn, trạng thái tà vạy, biểu hiện ra
ngoài, vợ mình nhàm ghét, riêng vọng ra ngoài, phí tổn của nhà, việc làm phi
pháp. Giao kết tụ tập, khởi binh đánh nhau, đánh đập giết hại, cưỡng đoạt không
đạo lý. Tâm ác ở ngoài, chẳng chịu tu nghiệp. Trộm cắp cho được, ham muốn phải
làm cho thành việc. Sợ thế lực ép sát bên hông, quy cho vợ con, thích tâm khoái
ý, cố sức làm vui. Hoặc đối với thân thuộc, không kiêng dè tôn ti. Trong ngoài
nhà cửa, hoạn nạn khổ sở, cũng lại không sợ phép vua lệnh cấm.
Ba
là nhân dân thế gian nhân với nhau mà sống gởi, cùng ở trong khoảng trời đất.
Năm tháng trôi đi thọ mạng không bao nhiêu. Trên có những bậc hiền minh, trưởng
giả, tôn quý, giàu có; dưới có những người nghèo cùng, hà tiện, yếu kém, ngu
si; giữa có những kẻ bất thiện, thường ôm lòng tà ác, chỉ nghĩ ham muốn nhẫy
đầy, phiền chật trong lòng, ái dục loạn xạ, ngồi đứng chẳng yên, ý tham giữ
tiếc, chỉ muốn được khống. Trông liếc sắc mịn, trạng thái tà vạy, biểu hiện ra
ngoài, vợ mình nhàm ghét, riêng vọng ra ngoài, phí tổn của nhà, việc làm phi
pháp. Giao kết tụ tập, khởi binh đánh nhau, đánh đập giết hại, cưỡng đoạt không
đạo lý. Tâm ác ở ngoài, chẳng chịu tu nghiệp. Trộm cắp cho được, ham muốn phải
làm cho thành việc. Sợ thế lực ép sát bên hông, quy cho vợ con, thích tâm khoái
ý, cố sức làm vui. Hoặc đối với thân thuộc, không kiêng dè tôn ti. Trong ngoài
nhà cửa, hoạn nạn khổ sở, cũng lại không sợ phép vua lệnh cấm.
·
Bốn
là nhân dân thế gian không nghĩ tu thiện; chuyển dạy kéo nhau cùng làm các việc
ác: nói hai chiều, nói ác, nói nịnh hót, chiều uốn. Nói gièm sinh giặc đấu
tranh lộn xộn, ganh ghét người lành, bại hoại người hiền, đứng một bên thích
thú. Bất hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng, bạn bè không tin, khó đựơc sự
thành thật. Khi tôn quý thì tự cho mình lớn, tự cho mình có đạo. Hoành hành uy
thế, xâm lấn đối với người. Chẳng thể tự biết làm ác mà không hổ thẹn. Tự lấy
sự mạnh mẽ muốn người kính sợ. Không sợ trời đất thần minh nhật nguyệt, không
chịu làm lành, khó có thể giáo hóa. Thi nhau nằm ngửa tự dụng, có thể cho là
bình thường, không có lo sợ, thường ôm lòng kiêu mạn.
Bốn
là nhân dân thế gian không nghĩ tu thiện; chuyển dạy kéo nhau cùng làm các việc
ác: nói hai chiều, nói ác, nói nịnh hót, chiều uốn. Nói gièm sinh giặc đấu
tranh lộn xộn, ganh ghét người lành, bại hoại người hiền, đứng một bên thích
thú. Bất hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng, bạn bè không tin, khó đựơc sự
thành thật. Khi tôn quý thì tự cho mình lớn, tự cho mình có đạo. Hoành hành uy
thế, xâm lấn đối với người. Chẳng thể tự biết làm ác mà không hổ thẹn. Tự lấy
sự mạnh mẽ muốn người kính sợ. Không sợ trời đất thần minh nhật nguyệt, không
chịu làm lành, khó có thể giáo hóa. Thi nhau nằm ngửa tự dụng, có thể cho là
bình thường, không có lo sợ, thường ôm lòng kiêu mạn.
·
Năm
là nhân dân trong thế gian luống ỷ lại lười nhát, không chịu làm thiện sửa thân
tu nghiệp; nhà cửa quyến thuộc đói lạnh khốn khổ, cha mẹ dạy răn trừng mắt giận
dữ, lời nói bất hòa trái lệ ngược lại, thí như oan gia, chẳng bằng như không
con; giữ lấy sự vô phép, đều là các hoạn nhàm chán; phụ ơn trái nghĩa, không có
tâm đáp trả. Nghèo cùng thiếu thốn không thể được lại, lỗi lầm mặc tình đoạt
lấy, buông tuồng trôi xuôi tản mất. Kể suốt chẳng được gì, dùng của giúp cho,
mê rượu ham đẹp, ăn uống không độ lượng, tâm buông lung phóng đãng, đần độn
theo sau, chống cự xúc phạm; không hiểu nhân tình cưỡng muốn ức chế. Thấy người
có điều tốt thì ghen ghét xấu xa, vô lễ vô nghĩa không chịu hỏi han, tự cho là
biết, không chịu hỏi rõ. Lục thân quyến thuộc giúp hay không chẳng buồn nghĩ
đến. Chẳng nhớ ơn cha mẹ, chẳng giữ nghĩa thầy bạn. Tâm thường nghĩ ác, miệng
thường nói ác, thân thường làm ác, không từng có một điều thiện; không tin Kinh
Pháp chư Phật, chư Thánh; không tin làm đạo có thể độ đời được, không tin chết
rồi Thần minh lại sinh, không tin làm thiện được thiện làm ác được ác; muốn
giết người chơn, đấu loạn chúng tăng, muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc. Lục
thân ghét nhơ mong muốn cho nó chết. Người đời tâm ý đều như vậy, ngu si mông
muội mà tự cho là trí tuệ, không biết chỗ từ đâu sinh đến, chết sẽ về đâu, rồi
cũng sẽ phải chết.
Năm
là nhân dân trong thế gian luống ỷ lại lười nhát, không chịu làm thiện sửa thân
tu nghiệp; nhà cửa quyến thuộc đói lạnh khốn khổ, cha mẹ dạy răn trừng mắt giận
dữ, lời nói bất hòa trái lệ ngược lại, thí như oan gia, chẳng bằng như không
con; giữ lấy sự vô phép, đều là các hoạn nhàm chán; phụ ơn trái nghĩa, không có
tâm đáp trả. Nghèo cùng thiếu thốn không thể được lại, lỗi lầm mặc tình đoạt
lấy, buông tuồng trôi xuôi tản mất. Kể suốt chẳng được gì, dùng của giúp cho,
mê rượu ham đẹp, ăn uống không độ lượng, tâm buông lung phóng đãng, đần độn
theo sau, chống cự xúc phạm; không hiểu nhân tình cưỡng muốn ức chế. Thấy người
có điều tốt thì ghen ghét xấu xa, vô lễ vô nghĩa không chịu hỏi han, tự cho là
biết, không chịu hỏi rõ. Lục thân quyến thuộc giúp hay không chẳng buồn nghĩ
đến. Chẳng nhớ ơn cha mẹ, chẳng giữ nghĩa thầy bạn. Tâm thường nghĩ ác, miệng
thường nói ác, thân thường làm ác, không từng có một điều thiện; không tin Kinh
Pháp chư Phật, chư Thánh; không tin làm đạo có thể độ đời được, không tin chết
rồi Thần minh lại sinh, không tin làm thiện được thiện làm ác được ác; muốn
giết người chơn, đấu loạn chúng tăng, muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc. Lục
thân ghét nhơ mong muốn cho nó chết. Người đời tâm ý đều như vậy, ngu si mông
muội mà tự cho là trí tuệ, không biết chỗ từ đâu sinh đến, chết sẽ về đâu, rồi
cũng sẽ phải chết.
Thế nào là thiện? Tư tưởng, ngôn ngữ,
hành vi, làm việc đều hợp với luân lý đạo đức pháp luật quốc gia không tổn hại
đến tất cả chúng sinh, tâm giữ công chánh ưa giúp con người, làm tức là thiện
của mười thiện nghiệp.
hành vi, làm việc đều hợp với luân lý đạo đức pháp luật quốc gia không tổn hại
đến tất cả chúng sinh, tâm giữ công chánh ưa giúp con người, làm tức là thiện
của mười thiện nghiệp.
Kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật nói rằng: “… Một ngày một đêm chánh tâm
chánh ý, trai giới thanh tịnh, thì hơn ở nước Vô Lượng Thọ làm thiện một trăm
năm. Lý do vì sao? Vì cõi nước Phật kia đều toàn các điều thiện, không có mảy
may ác. Ở cõi này tu thiện mười ngày mười đêm, thì hơn trong nước chư Phật
phương khác làm thiện ngàn năm. Lý do vì sao? Nước Phật phương khác người làm
thiện rất nhiều, người làm ác rất ít, phước đức tự nhiên không tạo nhân địa ác.
Chỉ ở cõi này ác nhiều, không có tự nhiên, khổ nhọc cầu muốn lại dối ngờ nhau,
tâm thân mỏi mệt, uống đắng ăn độc, những việc dữ ác như vậy chưa từng dừng
dứt. Nhất tâm chế phục ý, thẳng thân chính niệm, lời nói và việc làm hợp nhau,
việc làm chí thành, chỗ nói như lời, tâm và miệng không chuyển đổi, riêng làm
các việc lành, không làm các việc ác, đó là món thiện lớn vậy.”
chánh ý, trai giới thanh tịnh, thì hơn ở nước Vô Lượng Thọ làm thiện một trăm
năm. Lý do vì sao? Vì cõi nước Phật kia đều toàn các điều thiện, không có mảy
may ác. Ở cõi này tu thiện mười ngày mười đêm, thì hơn trong nước chư Phật
phương khác làm thiện ngàn năm. Lý do vì sao? Nước Phật phương khác người làm
thiện rất nhiều, người làm ác rất ít, phước đức tự nhiên không tạo nhân địa ác.
Chỉ ở cõi này ác nhiều, không có tự nhiên, khổ nhọc cầu muốn lại dối ngờ nhau,
tâm thân mỏi mệt, uống đắng ăn độc, những việc dữ ác như vậy chưa từng dừng
dứt. Nhất tâm chế phục ý, thẳng thân chính niệm, lời nói và việc làm hợp nhau,
việc làm chí thành, chỗ nói như lời, tâm và miệng không chuyển đổi, riêng làm
các việc lành, không làm các việc ác, đó là món thiện lớn vậy.”
Chúng ta muốn lìa tai khổ nạn, được
phước bình an cát tường, thì ngoài việc không làm “ác” ra, phải cần làm “thiện”
cho nhiều.
phước bình an cát tường, thì ngoài việc không làm “ác” ra, phải cần làm “thiện”
cho nhiều.
Sáu đường luân hồi là chính chúng ta
tạo ra vậy. Nhân nơi mê hoặc mà tạo ra nghiệp, tạo nghiệp rồi chắc chắn phải thọ
báo; quả báo thiện ác mảy may không sai. Như muốn vượt khỏi sáu đường luân hồi,
thì chẳng nên tạo nghiệp. Không tạo nghiệp rất khó, mà không mê hoặc lại càng
khó hơn. Dứt hết hoàn toàn mới có thể ra khỏi ba cõi, vấn đề này không phải một
đời mà có thể làm được. Nếu muốn được phước báo nhân thiên thì so ra dễ, Thánh
Hiền của thế gian và các tôn giáo đều có thể khiến người làm được; nhưng ra
khỏi luân hồi thì người thế gian làm không xong được.
tạo ra vậy. Nhân nơi mê hoặc mà tạo ra nghiệp, tạo nghiệp rồi chắc chắn phải thọ
báo; quả báo thiện ác mảy may không sai. Như muốn vượt khỏi sáu đường luân hồi,
thì chẳng nên tạo nghiệp. Không tạo nghiệp rất khó, mà không mê hoặc lại càng
khó hơn. Dứt hết hoàn toàn mới có thể ra khỏi ba cõi, vấn đề này không phải một
đời mà có thể làm được. Nếu muốn được phước báo nhân thiên thì so ra dễ, Thánh
Hiền của thế gian và các tôn giáo đều có thể khiến người làm được; nhưng ra
khỏi luân hồi thì người thế gian làm không xong được.
Nhân quả báo ứng bèn là chân tướng của
sự thật, như làm rõ sự thật này thì tâm an được ở lý, chẳng oán trời trách
người vì tâm đã an rồi. Tâm an thì là định, định có khả năng sinh huệ, từ đây
bỏ ác mà hướng thiện, sửa đổi cho vị lai.
sự thật, như làm rõ sự thật này thì tâm an được ở lý, chẳng oán trời trách
người vì tâm đã an rồi. Tâm an thì là định, định có khả năng sinh huệ, từ đây
bỏ ác mà hướng thiện, sửa đổi cho vị lai.
8. SÁM HỐI
Tu hành là sửa đổi cho chính hành vi
không hợp lý của chúng ta, cũng cần phải trước tiên tìm cho ra nguyên nhân lý
do có những hành vi này ở đâu? Ngoài “vô minh” ra, tức là do “tập khí”. Như
vậy, chủ yếu của tu hành là ở việc bỏ trừ tập khí. Có thể đem tập khí xấu xa mà
sửa đổi, thân – miệng – ý của chúng ta cũng chẳng thể lại có tư tưởng lời nói
và hành vi không hợp lý; Cũng vậy, cần phải trừ bỏ tập khí, quyết cần phải biết
là nguyên nhân nào dẫn đến cho chúng ta có tập khí xấu xa này? Tìm ra nguyên
nhân để rồi tiêu trừ nguyên nhân, nhiên hậu mới có thể dọn trừ được rễ dây dưa của
tập khí. Thế này cần phải nương vào công phu “phản tỉnh” và “sám hối”. Phản
tỉnh là công việc trước tiên của tu hành, Sám hối là đã tu hành, không có công
phu phản tỉnh làm sao biết hành vi của chúng ta không đúng ư? Không có sám hối
(sám lỗi trước, hối lỗi sau chẳng làm) làm sao có thể trừ bỏ tập khí? Chúng ta
đã biết rằng mục đích của tu hành là cần phải thân – miệng – ý đều không
ác, thế này cần phải phản tỉnh, từng lúc phải “hồi quang phản chiếu” (coi lại
chính mình), mới có thể phát hiện cái xấu ác, nhưng chỉ phát hiện thôi cũng
chưa đủ, quyết cần phải dừng lại tiêu diệt nó, cho nên phản tỉnh và sám hối
cùng là trọng yếu.
không hợp lý của chúng ta, cũng cần phải trước tiên tìm cho ra nguyên nhân lý
do có những hành vi này ở đâu? Ngoài “vô minh” ra, tức là do “tập khí”. Như
vậy, chủ yếu của tu hành là ở việc bỏ trừ tập khí. Có thể đem tập khí xấu xa mà
sửa đổi, thân – miệng – ý của chúng ta cũng chẳng thể lại có tư tưởng lời nói
và hành vi không hợp lý; Cũng vậy, cần phải trừ bỏ tập khí, quyết cần phải biết
là nguyên nhân nào dẫn đến cho chúng ta có tập khí xấu xa này? Tìm ra nguyên
nhân để rồi tiêu trừ nguyên nhân, nhiên hậu mới có thể dọn trừ được rễ dây dưa của
tập khí. Thế này cần phải nương vào công phu “phản tỉnh” và “sám hối”. Phản
tỉnh là công việc trước tiên của tu hành, Sám hối là đã tu hành, không có công
phu phản tỉnh làm sao biết hành vi của chúng ta không đúng ư? Không có sám hối
(sám lỗi trước, hối lỗi sau chẳng làm) làm sao có thể trừ bỏ tập khí? Chúng ta
đã biết rằng mục đích của tu hành là cần phải thân – miệng – ý đều không
ác, thế này cần phải phản tỉnh, từng lúc phải “hồi quang phản chiếu” (coi lại
chính mình), mới có thể phát hiện cái xấu ác, nhưng chỉ phát hiện thôi cũng
chưa đủ, quyết cần phải dừng lại tiêu diệt nó, cho nên phản tỉnh và sám hối
cùng là trọng yếu.
Như thế nào là phản tỉnh và sám hối?
Phản tỉnh là hỏi lại và tự xét, rõ biết chính mình trong quá khứ đã tạo việc ác
gì, nhiên hậu đem việc ác bày tỏ ra sám hối. Sám hối cũng tức là nhận lỗi lầm,
biết được các việc về trước làm là không đúng, ta cần sửa lỗi, nhiên hậu không
nên làm như thế nữa. Trên phương diện sửa đổi, lại cần phải chú ý vấn đề tập
khí, những hành vi từ lâu cũng có thể nuôi dưỡng thành thói quen, thói quen đã
nuôi dưỡng thành, thường thường không dễ gì một ngày bèn có thể sửa đổi chân
chánh được, do đó, lúc tu tập sám hối, sửa đổi lỗi lầm, cần có tâm nhẫn nại và
thường xuyên, không thể vì thất bại một hai lần mà nản tâm, thối chí. Người đời
nói rằng: “trường thành vạn dặm không phải là xây một ngày xong”, có thể nào
nhân thất bại một hai lần mà nản lòng thối chí sao! Song ngược lại đây chính là
tâm bệnh của con người, cũng có thể nói là nguyên nhân vốn có của chúng sinh ở
mãi nơi luân hồi, không thể giải thoát. Do đó, Cổ Đức vì muốn ngừa trị nhược
điểm này của phàm phu, lại nói sám hối quyết cần có tâm hổ thẹn. Vì cho rằng ta
sinh ra là con người “vạn vật chi linh” (khí tinh anh của muôn vật) rốt cuộc sẽ
tạo ra ác nghiệp không đúng đối với người khác, cũng như đối với chính mình,
khó mà hiểu biết được, hổ thẹn không? Có thể nào chẳng sám hối? Từ trong tâm
thường sinh hổ thẹn (tàm quý tâm), và sợ cái khổ sinh tử. Như vậy mới có thể
giữ gìn tâm nhẫn nại và thường xuyên, không dứt sám hối, cho đến khi tội được
diệt nghiệp được dừng.
Phản tỉnh là hỏi lại và tự xét, rõ biết chính mình trong quá khứ đã tạo việc ác
gì, nhiên hậu đem việc ác bày tỏ ra sám hối. Sám hối cũng tức là nhận lỗi lầm,
biết được các việc về trước làm là không đúng, ta cần sửa lỗi, nhiên hậu không
nên làm như thế nữa. Trên phương diện sửa đổi, lại cần phải chú ý vấn đề tập
khí, những hành vi từ lâu cũng có thể nuôi dưỡng thành thói quen, thói quen đã
nuôi dưỡng thành, thường thường không dễ gì một ngày bèn có thể sửa đổi chân
chánh được, do đó, lúc tu tập sám hối, sửa đổi lỗi lầm, cần có tâm nhẫn nại và
thường xuyên, không thể vì thất bại một hai lần mà nản tâm, thối chí. Người đời
nói rằng: “trường thành vạn dặm không phải là xây một ngày xong”, có thể nào
nhân thất bại một hai lần mà nản lòng thối chí sao! Song ngược lại đây chính là
tâm bệnh của con người, cũng có thể nói là nguyên nhân vốn có của chúng sinh ở
mãi nơi luân hồi, không thể giải thoát. Do đó, Cổ Đức vì muốn ngừa trị nhược
điểm này của phàm phu, lại nói sám hối quyết cần có tâm hổ thẹn. Vì cho rằng ta
sinh ra là con người “vạn vật chi linh” (khí tinh anh của muôn vật) rốt cuộc sẽ
tạo ra ác nghiệp không đúng đối với người khác, cũng như đối với chính mình,
khó mà hiểu biết được, hổ thẹn không? Có thể nào chẳng sám hối? Từ trong tâm
thường sinh hổ thẹn (tàm quý tâm), và sợ cái khổ sinh tử. Như vậy mới có thể
giữ gìn tâm nhẫn nại và thường xuyên, không dứt sám hối, cho đến khi tội được
diệt nghiệp được dừng.
Con người chẳng phải là thánh hiền, khó
khỏi không lỗi lầm, lỗi lớn không có – lỗi nhỏ khó tránh khỏi, trong sự vô ý
làm ra, chính mình còn không biết, sau đó không lâu xét lại mới biết là mình
phạm sai lầm, có sai lầm thì cần phải sám hối sửa đổi.
khỏi không lỗi lầm, lỗi lớn không có – lỗi nhỏ khó tránh khỏi, trong sự vô ý
làm ra, chính mình còn không biết, sau đó không lâu xét lại mới biết là mình
phạm sai lầm, có sai lầm thì cần phải sám hối sửa đổi.
Con người thường hay phạm sai lầm mà
không tự biết; Nhưng người hiền chân chánh, phạm sai lầm mà biết sai lầm đó,
tiến tới một cách mạnh mẽ việc nhận sai lầm mà sửa lỗi mình. Có thể thấy con
người phạm sai lầm là điều thường tình, quý là ở chỗ có thể sửa đổi, đó là dũng
khí đáng mừng khen! Nếu lầm lỗi mà không tự biết đó là kẻ ngu mê chìm đắm đáng
thương xót! Nhưng có người ngược lại, biết rõ sai lầm mà vì các việc mượn cớ
lót miệng, hoặc nhân tốt đẹp cho mưu đồ yểm hộ chính mình, xô đẩy trách nhiệm
đến người khác, hãy còn mưu toan lời lẽ giảo quyệt, tự tha thứ việc đã sai lầm
bèn khó tránh khỏi, đây thuộc về tội ác, không đủ làm phép tắc.
không tự biết; Nhưng người hiền chân chánh, phạm sai lầm mà biết sai lầm đó,
tiến tới một cách mạnh mẽ việc nhận sai lầm mà sửa lỗi mình. Có thể thấy con
người phạm sai lầm là điều thường tình, quý là ở chỗ có thể sửa đổi, đó là dũng
khí đáng mừng khen! Nếu lầm lỗi mà không tự biết đó là kẻ ngu mê chìm đắm đáng
thương xót! Nhưng có người ngược lại, biết rõ sai lầm mà vì các việc mượn cớ
lót miệng, hoặc nhân tốt đẹp cho mưu đồ yểm hộ chính mình, xô đẩy trách nhiệm
đến người khác, hãy còn mưu toan lời lẽ giảo quyệt, tự tha thứ việc đã sai lầm
bèn khó tránh khỏi, đây thuộc về tội ác, không đủ làm phép tắc.
Chúng ta đã biết nhân quả “thiện có báo
thiện, ác có báo ác”, nhưng vì có lợi ích tự thân, tập tánh ghét yêu chứa nhóm
khiến như vậy, nên còn tạo các nghiệp ác. Nếu đã làm các nghiệp ác mà không
biết sám hối, thì một lần lầm lỗi lại một lần càng lầm lỗi, cho nên đã làm ác
thì phải sám hối cải chánh.
thiện, ác có báo ác”, nhưng vì có lợi ích tự thân, tập tánh ghét yêu chứa nhóm
khiến như vậy, nên còn tạo các nghiệp ác. Nếu đã làm các nghiệp ác mà không
biết sám hối, thì một lần lầm lỗi lại một lần càng lầm lỗi, cho nên đã làm ác
thì phải sám hối cải chánh.
Sám hối, “sám” là sám lỗi ngày trước,
đối với tội nghiệp đã phạm, sanh tâm “đại tàm quý” (hổ thẹn nhiều). “Hối” là
sửa đổi quá khứ, tu chỉnh vị lai, lập định dứt khoát chú ý, sửa lỗi tự được mới
mẻ, chẳng tái phạm. Sám, nếu có lỗi lầm, cầu xin đối phương rộng thứ bỏ qua, đây
là bổn ý của “sám”. Hối tức là đã phạm sai lầm, nên nhận lỗi với đối phương, và
nói ra sai lầm đã phạm, đây là bổn ý của “hối”.
đối với tội nghiệp đã phạm, sanh tâm “đại tàm quý” (hổ thẹn nhiều). “Hối” là
sửa đổi quá khứ, tu chỉnh vị lai, lập định dứt khoát chú ý, sửa lỗi tự được mới
mẻ, chẳng tái phạm. Sám, nếu có lỗi lầm, cầu xin đối phương rộng thứ bỏ qua, đây
là bổn ý của “sám”. Hối tức là đã phạm sai lầm, nên nhận lỗi với đối phương, và
nói ra sai lầm đã phạm, đây là bổn ý của “hối”.
Sám hối như trừ bỏ đồ nhơ, có thể trừ
bỏ bụi nhơ tội ác trong tâm chúng ta. Chỉ cần tâm sinh niệm sám hối, tội sẽ
không trở lại làm tội. Nếu như chẳng chịu nhận lấy sai lầm mà sửa đổi, thì tội
nghiệp vĩnh viễn thêm lên ở nơi thân, như bóng theo hình. Sám hối chỉ là làm
kiểu mà thôi, không có ý sám hối, cũng không có lòng hồi tâm hướng thiện, tâm
kia không ở yên, sau lại làm theo việc ác, làm sao có thể tiêu trừ tội nghiệp!
bỏ bụi nhơ tội ác trong tâm chúng ta. Chỉ cần tâm sinh niệm sám hối, tội sẽ
không trở lại làm tội. Nếu như chẳng chịu nhận lấy sai lầm mà sửa đổi, thì tội
nghiệp vĩnh viễn thêm lên ở nơi thân, như bóng theo hình. Sám hối chỉ là làm
kiểu mà thôi, không có ý sám hối, cũng không có lòng hồi tâm hướng thiện, tâm
kia không ở yên, sau lại làm theo việc ác, làm sao có thể tiêu trừ tội nghiệp!
Người tu hành quyết cần phải từng lúc
phản tỉnh lời nói việc làm, ý niệm của mình, để cầu không hổ với mình, không
thẹn với người. Nếu không có tâm tàm quý, lời nói việc làm đối với mình không
gánh vác nổi, thì tâm này đầy đủ tội ác. Thường ôm lòng phản tỉnh tàm quý, mới
có thể hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, giữ gìn hòa vui trong anh chị em,
hoà khí với bạn bè và mọi người.
phản tỉnh lời nói việc làm, ý niệm của mình, để cầu không hổ với mình, không
thẹn với người. Nếu không có tâm tàm quý, lời nói việc làm đối với mình không
gánh vác nổi, thì tâm này đầy đủ tội ác. Thường ôm lòng phản tỉnh tàm quý, mới
có thể hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, giữ gìn hòa vui trong anh chị em,
hoà khí với bạn bè và mọi người.
Nếu chúng ta không sám hối, như thế tội
nghiệp của chúng ta tạo tác, sẽ khiến chúng ta đoạ lạc, không biết chừng nào
mới hết, mà chẳng biết dừng lại. Tất cả tội ác đều do vô minh vọng tưởng mà
sinh ra; nếu có tâm sám hối thường xuyên niệm Phật trong sự tĩnh toạ thì tội
nghiệp vốn có giống như sương bị mặt trời trí tuệ tiêu tan, khả năng hối cải
quay về làm thiện như ánh sáng chiếu phá ở nơi thế giới tối tăm. Sám hối không
nhất định vì lỗi hiện có của mình, cũng là vì đời quá khứ mà sám hối, đồng thời
cũng vì tất cả chúng sinh mà sám hối!
nghiệp của chúng ta tạo tác, sẽ khiến chúng ta đoạ lạc, không biết chừng nào
mới hết, mà chẳng biết dừng lại. Tất cả tội ác đều do vô minh vọng tưởng mà
sinh ra; nếu có tâm sám hối thường xuyên niệm Phật trong sự tĩnh toạ thì tội
nghiệp vốn có giống như sương bị mặt trời trí tuệ tiêu tan, khả năng hối cải
quay về làm thiện như ánh sáng chiếu phá ở nơi thế giới tối tăm. Sám hối không
nhất định vì lỗi hiện có của mình, cũng là vì đời quá khứ mà sám hối, đồng thời
cũng vì tất cả chúng sinh mà sám hối!
“Sám hối” – Nghiệp chướng là việc mà
con người vốn có đều có. Con người khởi tâm động niệm thì là tạo nghiệp, nhất
định phải sinh ra chướng ngại. Chướng thế nào ư? Là ngăn che bản tánh của chúng
ta. Ở trong bản tánh chân thật của chúng ta, có trí tuệ vô lượng, công đức vô
lượng; hiện tại trí tuệ, khả năng công đức không thể khởi tác dụng. Nguyên nhân
tại sao? Cũng là có chướng ngại. Vọng tưởng, chấp trước cũng gọi là chướng
ngại.
con người vốn có đều có. Con người khởi tâm động niệm thì là tạo nghiệp, nhất
định phải sinh ra chướng ngại. Chướng thế nào ư? Là ngăn che bản tánh của chúng
ta. Ở trong bản tánh chân thật của chúng ta, có trí tuệ vô lượng, công đức vô
lượng; hiện tại trí tuệ, khả năng công đức không thể khởi tác dụng. Nguyên nhân
tại sao? Cũng là có chướng ngại. Vọng tưởng, chấp trước cũng gọi là chướng
ngại.
Sám hối – Dọn trừ nghiệp chướng đến nay
chẳng được, sao lại dám hưởng thụ danh lợi, tiền của, ăn uống, nam nữ… những
việc thế gian tham ái ư? Lại tạo ra ương họa mới! “Pháp chỉ” ở trên hội Linh
Sơn của Đức Phật: “Sám hối nghiệp chướng, tin sâu nhân quả, tu trì phước huệ,
là phương thuốc thần diệu trị được vạn bệnh”. Sám hối có thể khiến chúng ta
trong lúc tu hành trừ dứt nghiệp chướng.
chẳng được, sao lại dám hưởng thụ danh lợi, tiền của, ăn uống, nam nữ… những
việc thế gian tham ái ư? Lại tạo ra ương họa mới! “Pháp chỉ” ở trên hội Linh
Sơn của Đức Phật: “Sám hối nghiệp chướng, tin sâu nhân quả, tu trì phước huệ,
là phương thuốc thần diệu trị được vạn bệnh”. Sám hối có thể khiến chúng ta
trong lúc tu hành trừ dứt nghiệp chướng.
Sinh mạng của chúng sinh là thông nơi
ba đời, do sinh mạng đời quá khứ đã tạo nghiệp, cảm báo mà có sinh mạng đời
này, đã vậy có đời quá khứ, đời quá khứ cũng đã tạo nghiệp. Như đây, nghiệp đời
trước đã tạo, tự nhiên cũng nên sám hối thôi. Bởi phàm phu chúng ta không có
“túc mạng thông”, không có cách nào biết chính mình ở đời quá khứ tạo những
nghiệp ác gì, không chịu sám hối. Chỉ là đời này, đến trước mắt là dừng, các
nghiệp ác đã được tạo ra đã qua, ngược lại có thể tìm biết, cũng tức là biết
các ác nghiệp tự mình đã tạo, như vậy thì dễ dàng thêm cho việc sám hối.
ba đời, do sinh mạng đời quá khứ đã tạo nghiệp, cảm báo mà có sinh mạng đời
này, đã vậy có đời quá khứ, đời quá khứ cũng đã tạo nghiệp. Như đây, nghiệp đời
trước đã tạo, tự nhiên cũng nên sám hối thôi. Bởi phàm phu chúng ta không có
“túc mạng thông”, không có cách nào biết chính mình ở đời quá khứ tạo những
nghiệp ác gì, không chịu sám hối. Chỉ là đời này, đến trước mắt là dừng, các
nghiệp ác đã được tạo ra đã qua, ngược lại có thể tìm biết, cũng tức là biết
các ác nghiệp tự mình đã tạo, như vậy thì dễ dàng thêm cho việc sám hối.
Nếu còn có những ác nghiệp nhỏ nhặt
chưa sám hối, ngay lúc nó hiện khởi ở trong tâm, thì có thể khiến tâm cảm thấy
bất an mà chướng ngại cho việc tu hành. Do đó, một người trước khi phát tâm tu
hành, ngoại trừ quả báo có thể thấy và sám hối nghiệp tội đời trước ra, cần
phải thường thường phản tỉnh rằng: “đời này từ lúc nhỏ thẳng đến ngày nay, tạo
ra những ác nghiệp gì? Phàm nhớ lại một vấn đề nào khiến tâm cảm thấy hành vi
đó bất an, thẹn xấu xa lâu ngày, lại là ác nghiệp, đều quyết cần phải phát lồ
ra sám hối, quyết cần phải sám hối đến khi trong tâm thật bình yên thanh khiết,
mới nói là nghiệp tội tiêu mất.
chưa sám hối, ngay lúc nó hiện khởi ở trong tâm, thì có thể khiến tâm cảm thấy
bất an mà chướng ngại cho việc tu hành. Do đó, một người trước khi phát tâm tu
hành, ngoại trừ quả báo có thể thấy và sám hối nghiệp tội đời trước ra, cần
phải thường thường phản tỉnh rằng: “đời này từ lúc nhỏ thẳng đến ngày nay, tạo
ra những ác nghiệp gì? Phàm nhớ lại một vấn đề nào khiến tâm cảm thấy hành vi
đó bất an, thẹn xấu xa lâu ngày, lại là ác nghiệp, đều quyết cần phải phát lồ
ra sám hối, quyết cần phải sám hối đến khi trong tâm thật bình yên thanh khiết,
mới nói là nghiệp tội tiêu mất.
Sau khi đã nói qua nghiệp tội đã nói ở
trước, nội tâm lại có thể thanh tịnh, yên ổn, như vậy tu hành, thì không thể
lại có nghiệp chướng đến tìm; do đây quyết cần phải cố gắng, giữ gìn cho được
sinh mạng sám hối thuần khiết quá khứ này, không có thể khiến nó trở lại cảm
nhiễm thói ác, để khỏi trở lại tạo các ác nghiệp. Giữ gìn như thế nào? Trước
cần phải đối với tất cả các việc thiện, bất luận là mắt thấy hoặc tai nghe,
trong tâm đều phải sanh lòng tuỳ hỉ; đối với việc ác, ngược lại phải ghét như
thù oán, tốt nhất là đem tâm an trụ ở nơi “tứ chánh cần”; Tứ chánh cần là:
trước, nội tâm lại có thể thanh tịnh, yên ổn, như vậy tu hành, thì không thể
lại có nghiệp chướng đến tìm; do đây quyết cần phải cố gắng, giữ gìn cho được
sinh mạng sám hối thuần khiết quá khứ này, không có thể khiến nó trở lại cảm
nhiễm thói ác, để khỏi trở lại tạo các ác nghiệp. Giữ gìn như thế nào? Trước
cần phải đối với tất cả các việc thiện, bất luận là mắt thấy hoặc tai nghe,
trong tâm đều phải sanh lòng tuỳ hỉ; đối với việc ác, ngược lại phải ghét như
thù oán, tốt nhất là đem tâm an trụ ở nơi “tứ chánh cần”; Tứ chánh cần là:
1. Ác đã sinh, khiến đoạn diệt.
2. Ác chưa sinh, khiến không sinh.
3. Thiện chưa sinh, khiến sinh
khởi.
khởi.
4. Thiện đã sinh, khiến tăng
trưởng.
trưởng.
Bốn việc cần thiết chân chánh này tức
là đạo lý “các ác chớ làm, các thiện nên làm” (chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành), chúng ta lấy trí tuệ để quán sát, chính là khéo tinh tấn siêng
năng tu hành ba học: giới – định – huệ, trừ diệt ba độc: tham – sân – si; đem
bốn việc cần thiết chân chánh làm pháp môn trợ đạo để siêng tu khổ luyện, dứt
ác sinh thiện.
là đạo lý “các ác chớ làm, các thiện nên làm” (chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành), chúng ta lấy trí tuệ để quán sát, chính là khéo tinh tấn siêng
năng tu hành ba học: giới – định – huệ, trừ diệt ba độc: tham – sân – si; đem
bốn việc cần thiết chân chánh làm pháp môn trợ đạo để siêng tu khổ luyện, dứt
ác sinh thiện.
“Luật nhân quả” nên cùng với “sám hối”
một lúc tu hành, càng giúp cho nỗi đau của tâm linh sau khi phạm sai lầm. “Sám
hối” không nên dùng làm hành vi giao dịch, bởi vì chỉ cần giao một số tiền cho
chùa viện để tham gia pháp hội, thì có thể tiêu được nghiệp tội vốn có ở trong
đáy của tâm đã được giữ kín của mình sao? Tiền, không phải là vạn năng, đến
pháp hội bái sám là giải quyết vấn đề tâm lý chính mình, rất thực tại là giải
quyết phiền não; Thậm chí tiền đã giao, sám đã bái, vận tốt đã đến rồi, kết quả
nếu ngược lại khiến người mất đi chỗ mong cầu, ở đó cũng sẽ mất đi tín tâm đối
với Phật và Bồ Tát, lại chẳng gieo vào trong nguyện tu thân dưỡng tánh bằng sự
nhiệt tình thiết tha.
một lúc tu hành, càng giúp cho nỗi đau của tâm linh sau khi phạm sai lầm. “Sám
hối” không nên dùng làm hành vi giao dịch, bởi vì chỉ cần giao một số tiền cho
chùa viện để tham gia pháp hội, thì có thể tiêu được nghiệp tội vốn có ở trong
đáy của tâm đã được giữ kín của mình sao? Tiền, không phải là vạn năng, đến
pháp hội bái sám là giải quyết vấn đề tâm lý chính mình, rất thực tại là giải
quyết phiền não; Thậm chí tiền đã giao, sám đã bái, vận tốt đã đến rồi, kết quả
nếu ngược lại khiến người mất đi chỗ mong cầu, ở đó cũng sẽ mất đi tín tâm đối
với Phật và Bồ Tát, lại chẳng gieo vào trong nguyện tu thân dưỡng tánh bằng sự
nhiệt tình thiết tha.
Tác dụng của sám hối trước Phật và Bồ
Tát tức là cần tìm chân tâm và thiện tâm chính ta, vả lại phải cầu mong chân
chánh Phật và Bồ tát làm chứng rõ ràng, chứng minh tâm của ta là chơn vậy,
thành ý gánh vác việc làm lỗi lầm của chính ta, vả lại không dẫm đạp che dấu.
Việc đời này kiếp này có thể giải quyết được thì nên giải quyết, không nên trốn
ở trong nhà sám hối với Phật và Bồ Tát, mà trên thật tế, người thù của anh, cứ
như vậy, ở một nơi nào đó đau hận việc làm của anh; như nếu là anh rất khó làm
được điểm này, thế thì ít nhất đối với người thân cận bên cạnh phải làm trước,
trước sửa đổi được cá tánh, làm được một con người có ý nguyện sám hối nhận lỗi
với người.
Tát tức là cần tìm chân tâm và thiện tâm chính ta, vả lại phải cầu mong chân
chánh Phật và Bồ tát làm chứng rõ ràng, chứng minh tâm của ta là chơn vậy,
thành ý gánh vác việc làm lỗi lầm của chính ta, vả lại không dẫm đạp che dấu.
Việc đời này kiếp này có thể giải quyết được thì nên giải quyết, không nên trốn
ở trong nhà sám hối với Phật và Bồ Tát, mà trên thật tế, người thù của anh, cứ
như vậy, ở một nơi nào đó đau hận việc làm của anh; như nếu là anh rất khó làm
được điểm này, thế thì ít nhất đối với người thân cận bên cạnh phải làm trước,
trước sửa đổi được cá tánh, làm được một con người có ý nguyện sám hối nhận lỗi
với người.
Ngay lúc nhân quả hiển bày năng lực,
phương thức anh có thể làm tức là nhận tội của sự chân tâm thành ý, bình thản
chân thành với việc làm tội lỗi mà sám hối hành vi của mình, cần phải phát xuất
từ nội tâm, ở trước tượng Phật hoặc mặt hướng về phương tây, đem lỗi lầm đã
phạm, tất cả nói ra và phát nguyện về sau không tái phạm. Không thể ban ngày
tạo ác, ban đêm sám hối, cho là nghiệp tiêu, mà rốt cuộc là tạo nghiệp, mà lại
sám hối không thôi.
phương thức anh có thể làm tức là nhận tội của sự chân tâm thành ý, bình thản
chân thành với việc làm tội lỗi mà sám hối hành vi của mình, cần phải phát xuất
từ nội tâm, ở trước tượng Phật hoặc mặt hướng về phương tây, đem lỗi lầm đã
phạm, tất cả nói ra và phát nguyện về sau không tái phạm. Không thể ban ngày
tạo ác, ban đêm sám hối, cho là nghiệp tiêu, mà rốt cuộc là tạo nghiệp, mà lại
sám hối không thôi.
Ngay khi anh muốn nhận lỗi, ý muốn sám
hối (bất luận là lỗi lớn lỗi nhỏ) ngang bằng với việc tu “nhân quả quán”, hành
mười thiện nghiệp. Cũng có thể chứng minh nhân cách Bồ Tát của anh đã đầy đủ
làm việc khó làm.
hối (bất luận là lỗi lớn lỗi nhỏ) ngang bằng với việc tu “nhân quả quán”, hành
mười thiện nghiệp. Cũng có thể chứng minh nhân cách Bồ Tát của anh đã đầy đủ
làm việc khó làm.
Chân tâm hối cải, tâm địa tức được
trong sạch, tâm chúng ta nếu không thanh tịnh, không bình đẳng, thì “giác tâm”
cũng mất đi, lập tức phát khởi sám hối. Sám hối không phải là bảo người ta hàng
ngày nghĩ lỗi đã làm, việc này là sai lầm, nghĩ như thế này tức là trở lại tạo
tội, càng nghĩ một lần là lại tạo một lần. Lỗi lầm đã làm biết rồi, về sau
không làm lại gọi là sám hối.
trong sạch, tâm chúng ta nếu không thanh tịnh, không bình đẳng, thì “giác tâm”
cũng mất đi, lập tức phát khởi sám hối. Sám hối không phải là bảo người ta hàng
ngày nghĩ lỗi đã làm, việc này là sai lầm, nghĩ như thế này tức là trở lại tạo
tội, càng nghĩ một lần là lại tạo một lần. Lỗi lầm đã làm biết rồi, về sau
không làm lại gọi là sám hối.
Cần làm tới khi nghe lỗi thì vui, trong
lòng cảm tạ, cảm ơn, từ trong tâm nhận điều không đúng, chẳng phải là trên cửa
miệng nhận điều không đúng, nên phải trong nội tâm sám hối; không phải nghe lỗi
thì nóng lên, càng không phải nghe lỗi thì giận.
lòng cảm tạ, cảm ơn, từ trong tâm nhận điều không đúng, chẳng phải là trên cửa
miệng nhận điều không đúng, nên phải trong nội tâm sám hối; không phải nghe lỗi
thì nóng lên, càng không phải nghe lỗi thì giận.
VĂN SÁM HỐI:
“Đệ tử tên là…. (đem lỗi lầm đã phạm,
tất cả nói ra), ngày trước đã tạo các ác nghiệp, đều do vô thuỷ tham – sân –
si, từ thân – miệng – ý mà sinh ra, tất cả con nay đều sám hối.”
tất cả nói ra), ngày trước đã tạo các ác nghiệp, đều do vô thuỷ tham – sân –
si, từ thân – miệng – ý mà sinh ra, tất cả con nay đều sám hối.”
Phương thức sám hối, trước tiên cần
phải sạch cái tâm, tịnh ở ý, chính ở hình, cung kính ở thân, nghiêm túc ở nơi
dung mạo, tóm lại là cần cầu thân – miệng – ý thanh tịnh.
phải sạch cái tâm, tịnh ở ý, chính ở hình, cung kính ở thân, nghiêm túc ở nơi
dung mạo, tóm lại là cần cầu thân – miệng – ý thanh tịnh.